Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình (khảo sát chương trình thời sự 19h trên kênh vtv1 đài truyền hình việt nam từ tháng 6 2015 6 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.61 KB, 121 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THUẦN

SỬ DỤNG TIẾNG ĐỘNG HIỆN TRƢỜNG
TRONG PHĨNG SỰ TRUYỀN HÌNH
(Khảo sát chương trình Thời sự 19h trên kênh VTV1
- Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 6.2015 - 6.2016)

Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đinh Thị Xuân Hòa

Hà Nội – 2016


2
Luận văn đã đƣợc chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG



TS. Nguyễn Trí Nhiệm


3
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thuần


4
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện luận văn với đề tài: “Sử dụng tiếng động hiện trường
trong phóng sự truyền hình” tác giả xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Đinh Thị
Xuân Hòa - người đã trực tiếp hướng dẫn nghiên cứu đề tài. Xin chân thành
cảm ơn các giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các bạn đồng
nghiệp Đài Truyền hình Việt Nam đã tạo điều kiện, giúp đỡ tơi trong q
trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn này.
Quá trình thực hiện luận văn, do thời gian nghiên cứu hạn hẹp, luận văn
chắc chắn không tránh khỏi những điểm cịn hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất
mong tiếp tục nhận được sự, hướng dẫn của thầy cô giáo và góp ý của bạn bè,
đồng nghiệp để luận văn chất lượng hơn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ THUẦN



5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỬ DỤNG TIẾNG ĐỘNG
HIỆN TRƢỜNG TRONG PHÓNG SỰ TRUYỀN HÌNH ........................ 11
1.1. Khái niệm ............................................................................................. 11
1.2. Vai trị của việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền
hình .............................................................................................................. 20
1.3. Một số dạng thức và cách thức sử dụng tiếng động hiện trường trong
phóng sự truyền hình ................................................................................... 23
1.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng việc sử dụng tiếng động hiện trường trong
phóng sự truyền hình. .................................................................................. 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TIẾNG ĐỘNG HIỆN TRƢỜNG
TRONG PHĨNG SỰ TRUYỀN HÌNH (Khảo sát chƣơng trình Thời sự
19h trên kênh VTV1 của Đài THVN).......................................................... 37
2.1. Vài nét về chương trình khảo sát ......................................................... 37
2.2. Phân tích thực trạng sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự
truyền hình (khảo sát chương trình Thời sự 19h). ...................................... 39
2.3. Đánh giá chung .................................................................................... 57
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC
SỬ DỤNG TIẾNG ĐỘNG HIỆN TRƢỜNG TRONG PHĨNG SỰ
TRUYỀN HÌNH ............................................................................................ 75
3.1. Những vấn đề đặt ra ............................................................................. 75
3.2. Một số giải pháp ................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99



6
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tỉ lệ phóng sự đã phát sóng chia theo lĩnh vực .............................. 40
Bảng 2.2: Tần suất sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự .............. 40
Bảng 2.3: Tỉ lệ sử dụng các dạng thức tiếng động hiện trường ...................... 41
Bảng 2.4: Việc sử dụng tiếng động hiện trường trong các phóng sự ............ 46
phát sóng trong Chương trình Thời sự 19h ngày 30.5.2016 ........................... 46
Bảng 2.5: Vị trí sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự Thời sự .......... 47
Bảng 2.6: Thời lượng tiếng động hiện trường ................................................ 55
Bảng 2.7: Đánh giá mức độ phù hợp của TĐHT trong phóng sự ................... 60
Bảng 2.8 : Đánh giá sự đa dạng, linh hoạt của tiếng động hiện trường trong
phóng sự của chương trình Thời sự 19h. ........................................................ 61
Bảng 2.9: Đánh giá của khán giả về chất lượng tiếng động được sử dụng trong
phóng sự của chương trình Thời sự 19h ......................................................... 62
Bảng 2.10: Đánh giá của khán giả về mức độ sử dụng TĐHT trong phóng sự... 65


7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTV

: Biên tập viên

PV

: Phóng viên

PTV


: Phát thanh viên

PS

: Phóng sự

TĐHT

: Tiếng động hiện trường

TĐNT

: Tiếng động nhân tạo

TĐTN

: Tiếng động tự nhiên

THVN

: Truyền hình Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, truyền hình ra đời muộn hơn so với một số loại hình báo chí
khác nhưng ngay từ khi xuất hiện truyền hình đã thu hút được sự quan tâm, đón
nhận của đông đảo công chúng. Và đến nay, khi khoa học cơng nghệ ngày càng

phát triển mạnh mẽ ngành truyền hình lại càng có cơ hội lớn mạnh về mọi mặt.
Số lượng cũng như chất lượng chương trình của nhiều đài ngày càng tăng, đáp
ứng nhu cầu thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần của người dân.
Hơn ba thập kỷ trơi qua kể từ chương trình truyền hình đầu tiên đựơc phát
sóng ngày 7.9.1975, đến nay, ngành truyền hình trong cả nước đã phát triển
tồn diện, điều đó đã khẳng định vị trí, vai trị của truyền hình và đặc biệt là
thế mạnh vượt trội của truyền hình so với các phương tiện truyền thơng đại
chúng khác.
Tuy nhiên, cũng chính sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ
đã làm xuất hiện một số loại hình truyền thơng mới như: báo mạng điện tử và
các trang mạng xã hội. Sự ra đời các loại hình truyền thông mới này đã làm
thay đổi cách thức tiếp nhận thơng tin của cơng chúng. Thay vì đọc báo, nghe
đài hay xem tivi như trước đây, cơng chúng có thể tìm kiếm thơng tin trên
máy vi tính và các thiết bị cầm tay như Ipad, điện thoại... Sự thay đổi này đã
đặt các cơ quan truyền thông vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt. Để tồn tại và
phát triển, họ bắt buộc phải đổi mới, phải nâng cao chất lượng về mọi mặt để
đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của cơng chúng trong đó có truyền
hình. Để duy trì sự cạnh tranh, giữ vị trí, hình ảnh của mình trong lịng cơng
chúng, các nhà đài đã phải trăn trở tìm các cách thiết thực, phù hợp với khả
năng. Một trong những cách thức đó là phát huy giá trị đặc trưng của mình,
phát huy thế mạnh của ngơn ngữ truyền hình.
Ngơn ngữ truyền hình là sự kết hợp của các yếu tố: hình ảnh và âm
thanh. Trong đó, hình ảnh là chính ngơn - ngơn ngữ chính để truyền đạt nội


2
dung thơng tin; âm thanh có nhiệm vụ bổ sung, làm rõ thơng tin từ hình ảnh.
Mặc dù, hình ảnh động hàm chứa được rất nhiều nội dung, làm cho người
xem như được tận mắt chứng kiến, tham gia sự kiện nhưng bản thân hình ảnh
khơng phải lúc nào cũng có thể giúp cơng chúng hiểu hết và hiểu đúng nội

dung. Và cũng khơng phải lúc nào hình ảnh cũng giúp công chúng cảm nhận
sự kiện một cách đầy đủ và tinh tế. Lúc này, vai trò của âm thanh sẽ trở nên
khơng kém phần quan trọng. Âm thanh góp phần giúp cơng chúng có thêm
thơng tin, hiểu đúng hơn và cũng nhiều cảm xúc hơn về sự kiện, vấn đề đã,
đang diễn ra.
Âm thanh trong truyền hình tương đối đa dạng, phong phú bao gồm lời
nói, tiếng động và âm nhạc… Mỗi dạng thức có một giá trị nhất định đối với
một tác phẩm truyền hình.
Tiếng động là một thành phần ngơn ngữ trong tác phẩm truyền hình,
góp phần quan trọng tạo nên độ tin cậy cho thông tin cũng như sự lơi cuốn,
hấp dẫn của tác phẩm đó với khán giả truyền hình. Có những tác phẩm chỉ
bao gồm hình ảnh và tiếng động, khơng có lời bình nhưng người xem vẫn tiếp
nhận được đầy đủ thông tin mà tác phẩm truyền hình muốn chuyển tải. Đó
chính là thế mạnh của truyền hình mà người sáng tạo tác phẩm báo chí nếu
biết cách sử dụng đúng lúc đúng chỗ sẽ đạt được hiệu quả vô cùng to lớn đối
với tác phẩm của mình.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật truyền hình, việc sử
dụng tiếng động hiện trường trong tác phẩm truyền hình ngày càng được chú
trọng hơn, đặc biệt là thể loại phóng sự. Tiếng động hiện trường trong phóng sự
truyền hình có vai trị lớn trong việc cung cấp thêm thơng tin, giúp khán giả
được “trải nghiệm” trong sự kiện, vấn đề. Tiếng động giúp tăng thêm độ chân
thực, tạo tiết tấu, cảm xúc, giúp khán giả dễ dàng trong tiếp nhận thông tin.
Quan trọng và thiết thực là vậy nhưng trong thực tế, tiếng động hiện
trường lại chưa được sử dụng thường xun và nếu có thì khơng ít tác phẩm
việc khai thác thế mạnh của nó chưa thật hiệu quả. Chẳng hạn, tiếng động đó


3
khơng có giá trị cung cấp thơng tin, giá trị thẩm mỹ mà đơi khi cịn sử dụng
thiếu linh hoạt, thậm chí có khi là những sai sót khơng đáng có như sử dụng

khơng đúng chỗ, âm lượng q lớn, hoặc quá bé… điều này ảnh hưởng không
nhỏ tới việc tiếp nhận thông tin của khán giả.
Trước thực tế như vậy, việc nghiên cứu cách thức sử dụng tiếng động hiện
trường sao cho chất lượng, hiệu quả là rất cần thiết. Đó là lý do mà tơi chọn đề
tài: “Sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình” làm luận
văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Báo chí học với mong muốn chỉ rõ hơn
thực trạng việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự, từ đó có những
gợi mở hợp lý để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng tiếng
động hiện trường trong phóng sự truyền hình trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều tài liệu, nhiều cơng trình nghiên cứu
đề cập đến phóng sự và việc sử dụng âm thanh trong phóng sự truyền hình.
Nhưng ở mỗi góc độ, mỗi tác giả lại có cách nhìn và vấn đề tiếp cận khác
nhau. Theo trình tự thời gian, có thể kể một số cơng trình nghiên cứu và sách
chuyên luận tiêu biểu có liên quan ít nhiều đến đề tài tôi đang nghiên cứu và
đây là cơ sở tham khảo trong quá trình nghiên cứu của mình như sau:
- “Sản xuất chương trình truyền hình” của tác giả Trần Bảo Khánh,
Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội 2003.
Cuốn sách này đề cập chủ yếu đến các phương pháp sản xuất chương
trình truyền hình, các yếu tố cấu thành một sản phẩm truyền hình. Đặc biệt,
cuốn sách trình bày tương đối kỹ lưỡng tới quy trình sản xuất các thể loại
trong truyền hình như: tin, phóng sự, ký sự, cầu truyền hình…Bên cạnh đó,
tác giả cịn đề cập tới quá trình quay phim và dựng hình. Tuy nhiên, việc sử
dụng âm thanh trong cuốn sách chưa được tác giả chú trọng.
- “Một ngày thời sự truyền hình” của tác giả Lê Hồng Quang, Nxb Hội
Nhà báo Việt Nam, 2004.


4
Cuốn sách đề cập đến cách tổ chức thực hiện chương trình thời sự

truyền hình. Trong đó âm thanh hiện trường, vai trị của âm thanh hiện trường
trong phóng sự truyền hình bước đầu đã được đề cập đến nhưng dung lượng
cịn chưa nhiều.
- “Tác phẩm báo chí” (tập 1,2 và tập 3) của nhóm tác giả, Nguyễn Văn
Dững chủ biên, Nxb lý luận chính trị, 2006
Cuốn sách cung cấp những tri thức lý luận và thực tiễn về tác phẩm báo
chí, về phân loại tác phẩm báo chí và các thể loại báo chí. Cuốn sách nói đến
phóng sự, đặc điểm và các kỹ năng làm phóng sự. Tuy nhiên đây lại là thể
loại phóng sự báo chí nói chung, phóng sự truyền hình và cách sử dụng tiếng
động hiện trường khơng được đề cập tới.
- “Phóng sự truyền hình”, tác giả Brigitte Besse và Didier Desormeaux,
Nxb Thơng tấn, tái bản năm 2010.
Nội dung cuốn sách trình bày khá tỉ mỉ, khoa học các kỹ năng, phương pháp
làm phóng sự truyền hình: từ quy tắc tiếp cận, xử lý các sự kiện đến sản xuất thông
tin; cách xây dựng phóng sự; cách dàn dựng cảnh, bố trí kỹ thuật trường quay, âm
thanh, hình ảnh, cách viết lời bình, biên tập…Tuy nhiên, hai tác giả lại không đề
cập đến việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình.
- “Giáo trình báo chí truyền hình” của tác giả Dương Xuân Sơn, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Cuốn sách tập trung trình bày những vấn đề khái quát của loại hình báo
chí truyền hình như lịch sử ra đời phát triển, đặc trưng của loại hình, quy trình
sáng tạo tác phẩm…Về ngơn ngữ truyền hình cũng đã được tác giả đề cập
đến, đó là hình ảnh và âm thanh. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách mang tính
khái qt chung về loại hình báo chí truyền hình nên âm thanh (lời bình, âm
nhạc, tiếng động) mặc dù có được nhắc tới nhưng dung lượng rất khiêm tốn
trong tổng thể cuốn sách.
- “Giáo trình phóng sự truyền hình” tác giả Nguyễn Ngọc Oanh và Lê
Thị Kim Thanh, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2014.



5
Cuốn sách nghiên cứu về thể loại phóng sự truyền hình, các vấn đề liên
quan đến lý thuyết và kỹ năng sáng tạo tác phẩm. Việc sử dụng tiếng động
gốc (tiếng động hiện trường) có được tác giả đề cập đến nhưng chỉ chiếm một
dung lượng vô cùng nhỏ trong cuốn sách, nó là một trong 10 bước của quy
trình sáng tạo tác phẩm phóng sự. Tác giả khơng đi sâu phân tích cách khai
thác và sử dụng tiếng động hiện trường mà chủ yếu tập trung nghiên cứu về
cách chọn đề tài, xác định chủ đề tư tưởng, xây dựng kịch bản phóng sự, cách
quay phim dựng phim…cho phóng sự truyền hình.
- “Chính luận truyền hình – Lý thuyết và kỹ năng sáng tạo tác phẩm”
của tác giả Nguyễn Ngọc Oanh, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2014.
Cuốn sách gọi tiếng động hiện trường là âm thanh gốc, bao gồm lời nói
của các nhân vật mang lại nội dung thơng tin, tất cả các loại tiếng động xảy ra
tại hiện trường tại thời điểm đó. Tuy nhiên, cuốn sách tập trung vào những thể
loại thuộc dạng chính luận truyền hình như thể loại bình luận truyền hình. Vì
vậy việc phân tích vai trị của tiếng động hiện trường trong thể loại phóng sự
truyền hình hầu như chưa được nhắc tới.
Bên cạnh những cuốn sách kể trên cịn có một số đề tài, cơng trình khoa
học đề cập đến vấn đề sử dụng ngơn ngữ trong phóng sự truyền hình.
- “Phóng sự trong chương trình Thời sự Đài truyền hình Việt Nam”,
Thái Kim Chung - Luận văn thạc sỹ Truyền thông đại chúng, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2005.
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu cách thức tổ chức thực hiện phóng
sự truyền hình, trong đó việc sử dụng âm thanh (tiếng động hiện trường và lời
bình) trong phóng sự có được đề cập đến nhưng do dung lượng luận văn nhỏ
nên những nội dung liên quan chưa thật sâu.
-“Nâng cao chất lượng chương trình Thời sự của Đài Truyền hình Việt
Nam”, Nguyễn Thị Thu Hiền – Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2011.



6
Tác giả luận văn đã chỉ ra các yêu cầu đối với chất lượng chương trình
thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam, trong đó có u cầu về âm thanh (lời
bình, tiếng động hiện trường). Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tập trung chủ yếu
khảo sát ngơn ngữ hình ảnh trong tin và phóng sự truyền hình. Cách khai thác
và sử dụng tiếng động hiện trường trong trong phóng sự truyền hình có được
nghiên cứu nhưng chưa sâu sắc và kỹ lưỡng.
Ngồi ra cịn có một số bài báo đã đề cập đến việc khai thác, sử dụng
tiếng động hiện trường trong tác phẩm truyền hình hiện nay.
- Bài viết “Làm phát thanh - truyền hình, âm thanh phải chun
nghiệp!” tác giả Trần Cơng Chí đăng trên Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt
Nam, 18/6/2012 cũng đã nhắc tới âm thanh trong phát thanh nhưng lại chỉ tập
trung nghiên cứu, phân tích yếu tố âm thanh là âm nhạc trong phát thanh,
truyền hình mà thơi, tác giả chưa nghiên cứu yếu tố lời bình và tiếng động
hiện trường trong tác phẩm đó.
- Bài“Làm thế nào để có tác phẩm truyền hình hay” tác giả Nguyễn
Minh Hải (đăng trên trang web ngày 18/8/2014) khẳng định
“Tiếng động hiện trường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành
ngôn ngữ âm thanh của tác phẩm truyền hình”. Tuy nhiên, do đây chỉ là một
bài viết với dung lượng nhỏ nên mới chỉ dừng lại để phân tích một cách
chung nhất về âm thanh trong truyền hình, dung lượng để nghiên cứu sâu về
tiếng động hiện trường của thể loại phóng sự truyền hình, kỹ năng để sử dụng
tốt tiếng động hiện trường chưa được đề cập tới.
Bên cạnh đó, cịn một số bài viết khác về âm thanh trên truyền hình
được đăng tải trên các trang báo, trang tin điện tử như: vtv.vn, vov.vn,
songtre.tv… Ðiểm chung của những bài viết này là đề cập chung đến âm
thanh trên truyền hình, trong đó tiếng động hiện trường là một bộ phận, một
“linh kiện”, thành tố cấu tạo nên “âm thanh”. Vì đặc điểm dung lượng bài viết
nhỏ nên nội dung đề cập đến tiếng động hiện trường thường chỉ được trình

bày rất ngắn gọn, chưa đi sâu phân tích.


7
Như vậy, qua khảo sát nêu trên, có thể thấy, có một số cơng trình, tác
phẩm đã nghiên cứu về cách thức làm phóng sự truyền hình, trong đó khẳng
định việc sử dụng âm thanh tiếng động trong phóng sự là rất cần thiết. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến lĩnh vực truyền hình nói
chung chứ chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích vấn đề sử dụng
tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình nói riêng. Đó chính là
khoảng trống về cả mặt lý luận và thực tiễn cần tiếp tục được nghiên cứu sâu.
Vì vậy, tơi đã chọn đề tài “Sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự
truyền hình” để nghiên cứu, với mong muốn có một sự đóng góp phù hợp
trong việc chỉ ra những ưu thế, cách thức khai thác và sử dụng tiếng động
hiện trường trong phóng sự truyền hình một cách hiệu quả. Trong luận văn,
tôi sẽ kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà nghiên cứu đi trước và
coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý thuyết và thực tiễn, luận văn nghiên cứu,
phân tích thực trạng việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự
truyền hình; chỉ ra những thành cơng, hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế trong việc sử dụng ngơn ngữ này trong phóng sự truyền hình; từ đó đề
xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền
hình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận về phóng sự truyền hình; tiếng
động hiện trường trong phóng sự truyền hình: khái niệm, vai trị, thế mạnh,

u cầu trong sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình.
Hai là: Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá thành công,
hạn chế của việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình


8
thơng qua khảo sát chương trình Thời sự 19h của Đài truyền hình Việt Nam
trong thời gian gần đây.
Ba là: Đề xuất hệ thống những giải pháp phù hợp thực tế nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng
sự truyền hình nói chung, phóng sự trong chương trình Thời sự 19h nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc sử dụng tiếng động hiện trường
trong phóng sự truyền hình.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Các phóng sự trong chương trình Thời sự 19h của Đài THVN
- Một số nhà báo, nhà lãnh đạo, quản lý, phóng viên của Đài THVN nói
chung và Ban thời sự nói riêng.
- Khán giả truyền hình - đây là những người đón nhận các chương trình
thời sự.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Các phóng sự trong chương trình Thời sự 19h của Đài THVN từ tháng
6 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về báo chí, báo chí
truyền hình và đặc biệt là ngơn ngữ truyền hình.
Luận văn vận dụng, kế thừa, phát triển các cơng trình khoa học của các
tác giả đi trước đã nghiên cứu nội dung có liên quan đến luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:


9
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hóa, bổ sung
mặt lý thuyết về truyền hình nói chung, việc sử dụng ngơn ngữ truyền hình nói
riêng. Đây chính là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế
và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần số xuất hiện, mức
độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những phóng sự có sử dụng tiếng động
hiện trường. Phương pháp này chủ yếu dựa vào việc tác giả phải lưu giữ, xem
lại các tác phẩm phóng sự trong chương trình Thời sự 19h trên kênh VTV1 từ
tháng 6/2015 đến tháng 6/2016.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm chỉ ra những thành công cũng
như những hạn chế của tiếng động hiện trường được sử dụng trong phóng sự
truyền hình trong thời gian khảo sát.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện với các chuyên gia (các lãnh đạo, nhà
đạo diễn, quay phim, phóng viên, biên tập viên) để thu thập ý kiến đánh về vấn
đề nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp
và qua email với 10 người là phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, trưởng phó
phịng hiện đang cơng tác tại Ban Thời sự - Đài Truyền hình Việt Nam.
- Phương pháp điều tra xã hội học :
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng việc sử dụng tiếng động hiện

trường trong phóng sự truyền hình. Tác giả luận văn khảo sát ý kiến của công
chúng trong và ngoài ngành để đánh giá chất lượng việc sử dụng tiếng động hiện
trường trong phóng sự truyền hình thơng qua phiếu điều tra (số lượng 500
phiếu). Lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Trong đó: 200 phiếu
điều tra cho các cán bộ, phóng viên ngành PTTH và 300 phiếu cho cơng chúng
điều tra ngồi ngành. Địa bàn khảo sát là thủ đô Hà Nội.


10
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt khoa học
Đề tài hệ thống hóa và phân tích cụ thể vai trị của tiếng động trong
phóng sự truyền hình - đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
tạo nên sự sinh động, hấp dẫn, chân thực và độ tin cậy của phóng sự truyền
hình. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu và cơ
sở đào tạo về báo chí, thơng qua việc đưa ra những phân tích cụ thể về thực
trạng và giải pháp nâng cao việc sử dụng tiếng động hiện trường trong
phóng sự truyền hình.
6.2.Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cho thấy một cách nhìn cụ thể, bản chất
hơn, chỉ ra sự cần thiết phải sử dụng tiếng động hiện trường trong các chương
trình truyền hình. Kết quả nghiên cứu là những gợi mở giúp các nhà quản lý
đưa ra được biện pháp phù hợp để cải thiện chất lượng phóng sự truyền hình
nói riêng và các tác phẩm truyền hình nói chung nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp
nhận thông tin ngày càng cao của khán giả. Bên cạnh đó, tác giả hy vọng đây
sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm.
7. Kết cấu luận văn
- Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội dung
và Phần kết luận. Cụ thể:
Chương 1: Một số lý luận chung về sử dụng tiếng động hiện trường

trong phóng sự truyền hình
Chương 2: Thực trạng sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự
truyền hình (khảo sát chương trình Thời sự 19h trên kênh VTV1).
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sử dụng tiếng động
hiện trường trong phóng sự truyền hình.
- Ngồi ra, luận văn cịn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục.


11
Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỬ DỤNG TIẾNG ĐỘNG
HIỆN TRƢỜNG TRONG PHĨNG SỰ TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm
1.1.1. Tiếng động hiện trường
* Tiếng động:
“Từ điển tiếng Việt”, Trung tâm từ điển học, Nxb Đà Nẵng, 2009 định
nghĩa: “Tiếng động là âm thanh phát ra do va chạm”. [42, tr.560]. Với quan
niệm này, có thể hiểu đơn giản tiếng động là những âm thanh (hay những
tiếng ồn) do con người và vạn vật tạo ra trong quá trình vận động phát sinh,
phát triển mà bằng thiết bị đo lường, người ta có thể đo được mức âm lượng
(đề-xi-ben, viết tắt là dB) và tai người có thể nghe được.
Một số cuốn tài liệu chia âm thanh tự nhiên thành ba dạng: geophony - âm
thanh tự nhiên từ nguồn phi sinh học (bao gồm hiệu ứng tiếng dịng nước chảy,
tiếng sóng đại dương, tiếng gió làm cỏ cây xao động và âm thanh được tạo ra bởi
trái đất như tiếng sông băng, tuyết lở hay động đất); biophony – âm thanh của
những động vật hoang dã và các âm thanh không được tạo ra bởi con người
trong môi trường tương đối yên tĩnh; anthrophony – những âm thanh được tạo ra
bởi con người (âm nhạc, sân khấu, tiếng máy móc, điện tử…).
Như vậy có thể hiểu, tiếng động là một phần của âm thanh và âm thanh
bao chứa trong đó có tiếng động. Và với cách phân chia như ở trên thì có thể

thấy tiếng động bao gồm cả tiếng động tự nhiên (do thiên nhiên, vạn vật xung
quanh tạo nên) và tiếng động nhân tạo (do con người tạo nên).
* Hiện trường:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “hiện trường” là nơi xảy ra sự việc hay hoạt
động nào đó. [42; tr.460]. Với quan niệm này, hiện trường là nơi diễn ra sự
việc, sự kiện hay hoạt động thực tế nào đó. Trong truyền hình, thì hiện trường


12
là nơi xảy ra (diễn ra) sự kiện, vấn đề đang được phản ánh. Để thực hiện tác
phẩm truyền hình phóng viên truyền hình phải đến hiện trường - nơi xảy ra sự
kiện. Khơng đến hiện trường, phóng viên khơng thể ghi hình được sự kiện,
vấn đề đang diễn ra. Hiện trường là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên
một tác phẩm truyền hình sinh động. Phóng viên truyền hình phải đến hiện
trường để ghi hình ảnh, trao đổi với các nhân vật ở hiện trường đó để lấy
thơng tin hồn thiện tác phẩm của mình. Khán giả chỉ có thể tin tưởng và
thích thú khi được xem những hình ảnh hiện trường đúng với sự kiện, vấn đề
đang diễn ra. Khái niệm “hiện trường” đối với âm thanh chính là khơng gian
tự nhiên chứa âm thanh ngun bản (âm thanh tự nhiên/âm thanh gốc – phân
biệt với âm thanh giả lập), hay cịn có thể hiểu là môi trường âm thanh.
* Tiếng động hiện trường
Từ hai khái niệm “tiếng động” và “hiện trường” đã phân tích ở trên, có
thể hiểu tiếng động hiện trường là âm thanh (có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo)
được ghi âm lại trong chính mơi trường âm thanh của nguồn phát ra âm đó.
Mơi trường sống của chúng ta vơ cùng sinh động, với sự tồn tại của con
người cùng vạn vật và mỗi hình thái trong quá trình tồn tại, mưu sinh, phát
triển đều phát ra những âm thanh sinh động khác nhau. Âm thanh trong mơi
trường đó chính là tiếng động hiện trường - nơi cuộc sống đang hiện diện.
Tiếng động hiện trường bao gồm âm thanh của thiên nhiên (mưa, gió, nước
chảy…), âm thanh do sinh hoạt con người tạo nên (tiếng dụng cụ lao động,

máy móc, tiếng reo hò…), tiếng động giả lập (tiếng động do con người tạo
nên - ví dụ giả tiếng mưa, tiếng gió)…
Tiếng động là một thành tố trong tự nhiên và có giá trị quan trọng với
sản phẩm truyền hình. Cùng với hình ảnh, tiếng động hiện trường góp phần
làm cho sự kiện thêm chân thật, hình ảnh thêm sinh động, nới rộng không
gian tiếp nhận, thưởng thức của khán giả và quan trọng hơn nó cũng góp phần
mang giá trị thơng tin. Giá trị thông tin của tiếng động là đặc trưng của âm


13
thanh trong đời sống con người mà mỗi khi nghe thấy người ta liên tưởng và
nhận biết được sự vật, sự việc gì đang tồn tại và diễn ra xung quanh.
Khi xem phóng sự về những trận động đất ở Trung Quốc hay Nhật Bản,
cơng chúng thấy hình của các ngơi nhà cao tầng đổ nát, hoang tàn, khơng ít
người vẫn cịn bị vùi lấp trong gạch ngói, bê tơng, những người may mắn cịn
sống thì vơ cùng sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng… Hình ảnh trên đã làm cho công
chúng rất xúc động. Tuy nhiên, tác phẩm sẽ thành công, tác động sâu sắc đến
công chúng, nếu như khán giả được nghe thêm tiếng động hiện trường, như
tiếng nhà đổ rầm rầm, tiếng gãy của cành cây, tiếng người la hét, kêu khóc…
Khán giả sẽ cảm nhận được rõ hơn thực trạng và đương nhiên cảm xúc sẽ
nhiều hơn. Họ cảm nhận sâu sắc hơn sự khủng khiếp của trận động đất, sự
hủy diệt của thiên nhiên, từ đó sẽ nâng cao hơn ý thức bảo vệ mơi trường,
phịng tránh thiên tai. Hay phóng sự về nỗi nhọc nhằn của người làm muối,
tác phẩm sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều nếu như cho người xem vừa chứng kiến
cảnh người dân làm muối, vừa được nghe những âm thanh cào muối, tiếng xe
cút kít nặng nhọc chở muối… qua đó cảm nhận được nhiều hơn những giá trị
của hạt muối.
1.1.2. Sử dụng tiếng động hiện trường
- Sử dụng
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2001 thì

“Sử dụng là đem dùng vào một cơng việc như: sử dụng gạch, ngói, vơi, cát để
xây nhà; sử dụng gỗ để đóng bàn ghế, sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác
sĩ” [43, tr.306]. Với quan niệm này thì thuật ngữ “sử dụng” dùng để chỉ một
hành vi có chủ đích của con người. “Sử dụng” là một động từ chỉ về hành vi.
Trong đó chủ thể tác động lên các công cụ, sự vật, sự việc với nhiều mục đích
khác nhau. Và những hành động này phải tác động lên các công cụ, phương
tiện nhằm đạt được mục đích.


14
Hành vi “sử dụng” chỉ xuất hiện trong thế giới con người và là hành
động có mục đích, có tính tốn nhằm mục đích đem lại hiệu quả tốt nhất. Và
hành động “sử dụng” chỉ xuất hiện khi có đối tượng để khai thác. Ví dụ: sử
dụng cái bút, sử dụng quyển vở… Trong trường hợp này, đối tượng đem ra để
“dùng” hay nói cách khác để “sử dụng” đó là cái bút hoặc quyển vở. Và
quyển vở hay cái bút được dùng vào việc ghi chép, học tập.
Từ việc phân tích các khái niệm trên, tác giả đưa ra cách hiểu của mình
về thật ngữ sử dụng như sau: “Sử dụng là dùng một công cụ, một sự vật nào
đó để thực hiện một hành động nào đó”. Việc “dùng” đó là một hoạt động hành động có chủ đích của con người với mong muốn sao có hiệu quả nhất.
- Sử dụng tiếng động hiện trường
Từ các khái niệm “Sử dụng”, “Tiếng động”, “Hiện trường” đã nêu và
phân tích ở trên, có thể thấy: “Sử dụng tiếng động hiện trường là việc dùng
tiếng động (bao gồm tiếng động tự nhiên và tiếng động nhân tạo) được ghi
âm lại trong chính mơi trường mà tiếng động phát ra âm để thực hiện một
cơng việc nào đó”.
Thực tế cho thấy tiếng động hiện trường xuất hiện ở mọi nơi. Có khi
tiếng động gây khó chịu với người này, cơng việc này nhưng có khi tiếng
động lại có giá trị với người khác, công việc khác. Tiếng động hiện trường
nếu khai thác, sử dụng hợp lý sẽ đem lại một giá trị nhất định. Trong truyền
thơng nói chung, trong một số loại hình báo chí nói riêng như báo phát thanh,

báo truyền hình, tiếng động hiện trường đóng vai trị như một kênh góp phần
cung cấp thơng tin. Nhờ sự trợ giúp của tiếng động, tác phẩm phát thanh,
truyền hình trở nên sống động như bản thân cuộc sống hiện có. Tiếng động
trong tác phẩm phát thanh, truyền hình là tiếng động tự nhiên từ cuộc sống,
mang đậm hơi thở, động thái của cuộc sống. Vì thế, trong một số trường hợp
nếu thiếu tiếng động thì tác phẩm phát thanh, truyền hình trở nên khơ cứng.


15
Với truyền hình, cùng với hình ảnh, tiếng động là thế mạnh của truyền
hình so với báo in và một số loại hình báo chí khác. Tiếng động làm tăng sự
gợi cảm, tính chân thực của tác phẩm truyền hình, góp phần tác động vào
nhận thức, tình cảm của người xem truyền hình. Việc sử dụng tiếng động hợp
lý, đúng lúc đúng chỗ sẽ góp phần rất lớn tạo nên thành cơng của tác phẩm
truyền hình.
1.1.3. Phóng sự truyền hình
“Từ điển tiếng Việt”, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2001 định
nghĩa: “Phóng sự là thể văn chuyên miêu tả những việc thật có tính thời sự
xã hội” [43, tr.257] Với quan niệm này tác giả nhấn mạnh đến chất văn học
của phóng sự và tính thời sự, nhanh chóng của phóng sự.
Trong tác phẩm “Báo chí truyền hình”, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2004,
các tác giả G.V.Cudonhetxop, X.L. Xvich, A.La Iuropxki có viết: “Phóng sự
là thể loại báo chí thơng tin nhanh chóng trên báo chí, đài phát thanh, truyền
hình về một sự kiện nào đó mà phóng viên đã chứng kiến, can dự vào”. [5,
tr59]. Theo quan niệm này thì yếu tố đứng đầu trong phóng sự là khả năng
thơng tin nhanh chóng về một sự kiện do tác giả bài phóng sự trực tiếp chứng
kiến và thực hiện.
Nhìn nhận phóng sự từ góc độ phương pháp phản ánh, Jean-Luc
Martin- Lagardette trong cuốn “Hướng dẫn cách viết báo”, Nxb Thơng tấn,
Hà Nội, 2003 cho rằng: “Phóng sự là cuộn phim mà người ta truyền đi những

hình ảnh đã được xác định nhờ có các bố cục liên tiếp”. Ơng cịn cho rằng:
“Phóng sự phải làm cho cơng chúng nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy, sờ thấy.
Phóng sự sử dụng cách viết trực tiếp, thường ở thì hiện tại, bằng cách tăng
các giai thoại cụ thể, những hình ảnh, những chi tiết và những thành ngữ độc
đáo” [45, tr.98].
Từ góc độ phương pháp xây dựng tác phẩm phóng sự, Brigitte Besse
Didier Desormeaux tác giả cuốn “Phóng sự truyền hình”, Nxb Thông Tấn, Hà


16
Nội, 2003 viết: “Phóng sự là kết quả của những logíc hội tụ dựa trên hình
ảnh và âm thanh: sản phẩm phức hợp này phải được tổ chức xung quanh một
số cảnh chủ chốt, những cảnh này làm nổi bật ý nghĩa của phóng sự từ lúc
xây dựng cho đến khi phát đi và được mọi người tiếp nhận”.[2, tr.104]
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu báo chí cũng đưa ra nhiều quan niệm
về phóng sự truyền hình. Các quan niệm đó cũng xuất phát từ nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau.
Trong cuốn: “Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật” - Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, 2011, tác giả Dương Xuân Sơn có đưa ra định nghĩa
như sau: “Phóng sự là một thể loại báo chí, phản ánh những sự kiện, sự việc,
vấn đề đang diễn ra trong hiện trong hiện thực khách quan có liên quan đến
hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người bằng phương pháp miêu tả
hay tự thuật, kết hợp với nghị luận ở mức độ nhất định. Trong phóng sự, cái
Tôi trần thuật - nhân chứng khách quan rất quan trọng”. [33, tr.41]. Với định
nghĩa này, tác giả khẳng định phóng sự là một thể loại báo chí. Phóng sự phản
ánh sự việc, sự kiện, con người với những việc làm và hành động của họ
trong quá trình phát sinh, phát triển.
Trong cuốn “Tác phẩm báo chí”, Nguyễn Văn Dững chủ biên, Nxb Lý
luận chính trị, 2006 có đưa ra khái niệm : “Phóng sự là một thể loại báo chí
quan trọng, thơng tin cụ thể và sinh động về con người, sự việc có thật và có ý

nghĩa xã hội, theo một q trình phát sinh, phát triển, thơng qua cái tôi - tác
giả và bút pháp linh hoạt: miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị luận." [7,
tr.180]. Khái niệm này cũng khẳng định phóng sự là một thể loại báo chí,
khơng chỉ phản ánh việc thật như các thể loại báo chí khác mà cịn có khả
năng đi sâu khám phá số phận một con người, một tập thể người có tính chất
điển hình trong những bối cảnh điển hình hoặc khắc họa những biến cố lịch
sử một cách sống động.


17
Còn hai tác giả Nguyễn Thành Lợi và Phạm Minh Sơn trong cuốn
“Thơng tấn báo chí - lý thuyết và kỹ năng”, Nxb Thơng tấn, 2010 đưa ra khái
niệm: “Phóng sự là một thể loại báo chí, có nhiệm vụ thông tin thời sự về người
thật, việc thật trong xã hội, đồng thời trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra,
đáp ứng các yêu cầu chung đối với tác phẩm báo chí”. [23, tr.76].
Có thể thấy, các quan niệm về phóng sự của các tác giả có đơi chỗ khác
nhau nhưng nhìn chung đều có điểm tiệm cận cơ bản về chức năng thể loại:
mô tả người thật, việc thật có tính chất thời sự xã hội trong q trình vận động
phát triển. Đồng thời khẳng định phóng sự là một thể loại trong hệ thống thể
loại báo chí, có q trình hình thành và phát triển riêng.
Nghiên cứu về phóng sự truyền hình, có thể thấy phóng sự truyền hình
cũng có nhiều nền tảng như phóng sự báo chí nói chung, tuy nhiên do đặc
điểm của loại hình chi phối, quan niệm về phóng sự của loại hình truyền hình
cịn được tiếp cận sâu từ nhiều góc độ khác nhau.
Trong cuốn sách “Cơng chúng truyền hình”, tác giả Trần Bảo Khánh,
Nxb Văn hóa thơng tấn, 2011 có viết: “Phóng sự truyền hình là thể loại báo
chí phản ánh sự kiện, hiện tượng, vấn đề theo logíc khách quan trong q
trình phát sinh, phát triển bằng ngơn ngữ hình ảnh và âm thanh. Những thơng
tin này bao gồm sự kiện, vấn đề và cả quan điểm, thái độ của nhà báo trước
sự kiện, vấn đề đó”. [19,tr.59]

Cũng đồng quan điểm với các tác giả của các cuốn sách nêu trên, tác
giả Nguyễn Ngọc Oanh và Lê Thị Kim Thanh trong cuốn: “Giáo trình phóng
sự truyền hình”, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh định nghĩa:
“Phóng sự truyền hình là thể loại đặc trưng của truyền hình. Nó chuyển tải
một nội dung thơng tin nóng hổi, sinh động đến công chúng ở thời hiện tại.
Nội dung thơng tin được bộc lộ theo trình tự logíc diễn biến của sự kiện, vấn
đề... qua dịng hình ảnh và âm thanh của hiện thực mà phóng viên lựa chọn,
sắp xếp. Chính kiến, thái độ và cảm xúc của phóng viên bộc lộ rõ qua việc
phân tích, cắt nghĩa, lý giải sự kiện, vấn đề đó” [30, tr.27]


18
Như vậy, phóng sự truyền hình về bản chất giống phóng sự báo chí nói
chung. Ba đối tượng miêu tả (cảnh, người, vật) luôn đan xen, gắn quyện với
nhau làm nổi bật phẩm chất, tính cách nhân vật, con người là trung tâm phóng
sự. Nhưng do mỗi loại hình báo chí có đặc trưng riêng, đặc biệt là về ngơn ngữ,
kỹ thuật chuyển tải và phương thức tác động của thơng tin tới cơng chúng mà
phóng sự truyền hình có một vài điểm khác biệt. Phóng sự truyền hình sử dụng
phương pháp tả, thuật, bình bằng ngơn ngữ hình ảnh và bổ sung những gì mà
hình ảnh chưa diễn đạt được hoặc ẩn chứa đằng sau mỗi hình ảnh đó bằng âm
thanh. Hình ảnh cùng với âm thanh làm cho phóng sự truyền hình phản ánh hiện
thực khách quan, trung thực, gần gũi, sinh động, hấp dẫn hơn phóng sự ở các
loại hình báo chí khác. Chính khả năng kể chuyện bằng hình ảnh và âm thanh đã
tạo ra hiệu ứng « cùng tham dự » giữa khán giả và phóng viên, làm người xem
cảm thấy mình đang cùng phóng viên trực tiếp tham gia, chứng kiến sự việc chứ
không phải được xem những gì mà phóng viên kể lại.
So sánh tin và phóng sự truyền hình chúng ta thấy hai thể loại này có sự
khác nhau cơ bản. Với đặc điểm cung cấp thơng tin nhanh chóng, kịp thời và chú
trọng đến kết quả của sự kiện, tin truyền hình sử dụng số lượng cảnh quay ít hơn,
các thủ pháp nghệ thuật quay, dựng hình và tần số phóng viên xuất hiện trên

hình trong tin cũng ít hơn trong phóng sự. Vì thế khi làm tin phóng viên khơng
mất nhiều thời gian để bám sát sự kiện để ghi lại tất cả các diễn biến của sự kiện.
Trong khi đó, phóng sự ngồi cung cấp thơng tin cịn cho công chúng biết sâu,
biết kỹ diện mạo sự kiện, cảm xúc xung quanh sự kiện đó.
Tóm lại, phóng sự truyền hình là một thể loại báo chí phản ánh sự kiện,
vấn đề một cách trung thực và hấp dẫn hơn phóng sự của các loại hình báo chí
khác bởi thơng tin được chuyển tải bằng cả hình ảnh và âm thanh.
1.1.4. Sử dụng tiếng động hiện trường trong phóng sự truyền hình
Trên cơ sở phân tích các khái niệm về “phóng sự truyền hình”, “sử
dụng tiếng động hiện trường” ở trên, chúng tôi kết hợp lại và đưa ra quan


×