Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Xây dựng các tiêu chí để thực hiện SXSH trong dây chuyền sản xuất gỗ và đồ mộc xuất khẩu tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam Tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 100 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hoạt động sản xuất
ngày càng được nâng cao và các doanh nghiệp ngày càng mở rộng quy mô
tăng sản lượng, đạt được hiệu quả kinh tế cao và thu nhiều lợi nhuận nhất.
Nhưng trong quá trình chạy theo lợi nhuận đó các doanh nghiệp lại thường bỏ
quên một vấn đề quan trọng đó là ô nhiễm môi trường và sự tiêu hao, thất
thoát một lượng nguyên, nhiên liệu trong quá trình sản xuất.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển
biến tích cực để hội nhập, phát triển và đang trở thành điểm nóng của các nhà
đầu tư từ các nước trên thế giới. Hiện tại cơ cấu kinh tế ngành dầu thô, thủy
sản, dệt may, xuất khẩu gạo…., là những ngành chủ lực đóng góp phần vào
kim ngạch xuất khẩu của đất nước, trong đó ngành Gỗ nổi lên như một điểm
sáng với mức tăng trưởng nhanh, đang thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư và
sản xuất vì lợi nhuận cao, thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng.
Trong nghiên cứu ứng dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn đã và
đang là con đường phù hợp nhất với các nước phát triển như nước ta hiện nay.
Việc thực hiện các tiêu chí, giải pháp này không những mang lại lợi ích về
môi trường mà còn mang lại lợi ích về kinh tế- xã hội. Việc ứng dụng các
công nghệ sản xuất sạch hơn, trước tiên cải thiện môi trường sản xuất, có lợi
cho sức khỏe của người lao động trực tiếp và người tiêu dùng. Tiếp đó là giúp
cho Công ty đạt được một số chỉ tiêu, chứng chỉ nhất định trong quản lý nhà
nước, giúp các Công ty vượt qua được rào cản “xanh”, nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, việc áp dụng sản xuất sạch hơn còn có tác dụng trong
giáo dục tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường, tài nguyên, thúc đẩy phát
triển bền vững của ngành công nghiệp sạch.
Vì vậy sản xuất sạch hơn là một cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp sản
xuất hướng tới mục tiêu kinh doanh bền vững, trong đó chú trọng tới giảm
2



thiểu sử dụng các hóa chất độc hại ảnh hưởng tới môi trường và tăng lợi nhuận
thông qua giảm lãng phí trong sản xuất, làm tiền đề thâm nhập vào thị trường
quốc tế.
Sản xuất sạch hơn là quy trình mang tính bao quát mọi khâu của
doanh nghiệp, đòi hỏi phải áp dụng liên tục các giải pháp nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, tiết kiệm nguyên – nhiên liệu và giảm giá thành, tăng sức
cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong sản xuất đồ gỗ, việc thực hiện sản xuất sạch hơn đã giúp các
doanh nghiệp không những giảm được chất thải, mà còn tiết kiệm kinh phí
thông qua việc giảm mức tiêu thụ nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, hóa
chất. sản xuất sạch hơn là công cụ quản lý môi trường hữu hiệu phù hợp với
doanh nghiệp Việt Nam, cần đẩy mạnh áp dụng ở các doanh nghiệp. sản xuất
sạch hơn bao gồm cả quá trình sản xuất nên mức độ phát thải tác động đến
chất lượng cuộc sống cũng như sức khỏe của người sản xuất và người tiêu
dùng.
Thực tế cho thấy, ở các Công ty đã áp dụng rất nhiều biện pháp để bảo
vệ môi trường và giảm lượng nguyên vật liệu tiêu thụ nhưng giải pháp này
chưa thật sự mang lại hiệu quả cao nhất. Do vậy tìm hiểu những nguyên nhân
làm cho việc sử dụng nguyên vật liệu và bảo vệ môi trường chưa thật sự đạt
hiệu quả cao tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam Tỉnh Đồng Nai là một
việc làm cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên, vật liệu và bảo vệ
môi trường, đây cũng là lý do để tiến hành tìm hiểu nghiên cứu thực tế tại
Công ty để đề xuất các tiêu chí cụ thể áp dụng tại Công ty.





3



Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hiện nay, hiện trạng phân bố cũng như điều kiện về công nghệ và
trình độ sản xuất của ngành công nghiệp nước ta nói chung và ngành chế biến
gỗ nói riêng vẫn còn là ngành công nghiệp thải ra nhiều chất thải, bên cạnh đó
sự thất thoát nhiên liệu trong ngành này còn nhiều vấn đề đáng quan tâm và
giải quyết.
Với những vấn đề như vậy, hiện tại ngành gỗ xuất khẩu đang rất cần
một công cụ giúp việc để kiểm soát hiệu quả trong quá trình sản xuất nhằm
đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao nhất, đồng thời giảm được chất thải phát
sinh ra môi trường bên ngoài nhằm bảo vệ môi trường.
Gần đây một tư duy mới đang phát triển đó là phòng ngừa và giảm
thiểu chất thải đầu nguồn và cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm tiêu hao nhiên
liệu, cách tiếp cận này mang tính chủ động và tính tích cực hơn, tư duy “ Sản
xuất sạch hơn” là phương pháp để thể hiện sự tối ưu cho việc giải quyết vấn
đề trên.
Trong ngành chế biến gỗ Việt Nam hiện nay việc nhận thức về
phương pháp SXSH và áp dụng các biện pháp SXSH còn hạn chế, chưa được
phổ biến rộng rãi, do đó việc xây dựng các tiêu chí để thực hiện SXSH trong
dây chuyền sản xuất gỗ cần phải nghiên cứu để áp dụng SXSH trong ngành
chế biến sản xuất gỗ ở Việt Nam.
Trong ngành chế biến gỗ các kỹ thuật SXSH cần phải tập trung giải
quyết các vấn đề sau:
- Lãng phí nguyên liệu gỗ
- Ô nhiễm không khí do bụi gỗ, keo
4


- Lãng phí nước và ô nhiễm do nước thải
- Tiếng ồn và các chất thải nguy hại khác…
Xuất phát từ những vấn đề trên và nhằm đưa ra các phương pháp, tiêu
chí cụ thể để áp dụng tại một dây chuyền sản xuất cụ thể trong nhà máy, do đó
tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng các tiêu chí để thực hiện
SXSH trong dây chuyền sản xuất gỗ và đồ mộc xuất khẩu tại Công ty
TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam Tỉnh Đồng Nai.”
1.2 LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1 Tình hình nghiên cứu về sản xuất sạch hơn trên thế giới
- Từ những năm 1985- 1990, việc áp dụng SXSH vào các quá trình
sản xuất đã được áp dụng mạnh mẽ ở các nước phát triển như: Đan Mạch, Mỹ,
Canada….Tháng 9/1990, UNEP chính thức phát động chương trình sản xuất
sạch hơn tại hội nghị Canterbury Liên hiệp Anh. Từ năm 1993, SXSH đã áp
dụng các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc cũ, các quốc gia thuộc Châu
Á như; Trung Quốc, Ấn Độ mang lại nhiều hiệu quả về kinh tế và môi trường.
Hơn 1000 dự án trình diễn về SXSH đã được tiến hành tập trung vào một số
ngành công nghiệp chính như: Dự án PRISMA ở Hà Lan, LANDSKRONA ở
Thụy Điển, SPURT ở Đan mạch, DESIRE ở Ấn Độ……(trích tác giả Phùng
Hoàng Vân, 2003).
- Hiện nay trên thế giới có 25 trung tâm sạch quốc gia đặt tại các khu
vực trên thế giới như: Châu Á - Thái Bình Dương, Bắc Mỹ, Nam Trung Mỹ,
Châu Phi. Tại Châu Á- Thái Bình Dương có 4 nước có trung tâm sản xuất
sạch quốc gia đó là Trung Quốc, Ấn Độ, Srikanca và Việt Nam. Ngoài việc
thành lập các trung tâm sạch quốc gia, nhiều tạp chí, báo ra đời nhằm cung cấp
thông tin hỗ trợ SXSH. Một số tham gia vào việc hỗ trợ để thực hiện sản xuất
sạch hơn, Các quốc gia có nhiều chương trình hỗ trợ nhất đó là: Mỹ, Đức, Na
Uy, Thụy Sỹ, Đan Mạch.
5

- Trong ngành chế biến đồ gỗ và nội thất thế giới, việc nhận thức về

phương pháp luận SXSH và áp dụng các kỹ thuật SXSH còn nhiều hạn chế,
các ứng dụng chưa được phổ biến rộng rãi. Do đó tiềm năng SXSH cũng như
đổi mới sản phẩm bền vững trong ngành còn rất lớn, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển.
- Việc thực hiện SXSH trên thế giới là nhằm tiết kiệm nguyên – vật
liệu, giảm rủi ro cho con người và tác động xấu đối với môi trường, tăng
cường hiệu quả sản xuất thông qua cải tiến các kỹ thuật đã có và áp dụng các
công nghệ tiên tiến hiện đại. Ngoài ra các kỹ thuật SXSH mang lại những cơ
hội giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cụ thể trong
ngành chế biến gỗ nói chung và chế biến đồ gỗ nói riêng, các vấn đề chính mà
kỹ thuật SXSH tập trung giải quyết bao gồm:
+ Lãng phí nguyên liệu gỗ,
+ Ô nhiễm không khí do bụi gỗ, các loại keo, chất phủ bề mặt,
+ Nước thải và lãng phí nước thải,
+ Lãng phí năng lượng điện,
+ Chất thải nguy hại.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu về sản xuất sạch hơn trong nước
- Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, công nghiệp chế biến gỗ
Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể cả về quy mô phát triển,
chất lượng sản phẩm và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu. Với hơn 1200
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến gỗ năm 2000, đến năm 2009
cả nước đã có trên 2500 doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp đã phát
triển thành các tập đoàn lớn. Chất lượng sản phẩm gỗ được nâng cao, minh
chứng là giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam liên tục tăng
trong 10 năm qua: giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 219 triệu USD;
năm 2009 đạt 2.620 triệu USD; tính bình quân giá trị kim ngạch xuất khẩu đồ
mộc tăng bình quân 500 triệu USD/năm. Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có
6

mặt trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó các thị trường xuất khẩu chủ

yếu là Hoa Kỳ (chiếm 38%-41% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu), các nước
thuộc khối EU (chiếm 28-44% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu) và Nhật Bản
(chiếm 12-15% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu).
- Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng và thuận lợi của ngành, hiện nay
công nghiệp chế biến gỗ của nước ta cũng đang gặp rất nhiều khó khăn và bộc
lộ những điểm yếu kém từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh
lệnh sang cơ chế thị trường. Những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến
gỗ phát triển có bước phát triển vượt bậc song chưa vững chắc, thiếu quy
hoạch và tầm nhìn chiến lược, tính cạnh tranh chưa cao, sự liên kết và phân
công sản xuất chưa tốt (chưa có sự chuyên môn hóa, chưa có phân công sản
xuất theo vùng, tiểu vùng…), chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường
thế giới, thiếu vốn đầu tư cho phát triển và hiện đại hóa công nghệ.
- Mặc dù giá trị kim ngạch xuất khẩu đồ mộc của Việt Nam có bước
tăng trưởng nhưng đánh giá tổng thể, giá trị kinh tế mang lại cho đất nước còn
hạn chế do lượng vật tư nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỉ trọng quá lớn, trong
đó chỉ tính riêng nguyên liệu gỗ nhập khẩu hàng năm tương đương 40% -45%
giá trị kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng
trồng của Việt Nam rất lớn lại sử dụng chủ yếu cho băm dăm xuất khẩu, một
hình thức sơ chế không mang lại hiệu quả kinh tế cao và không thể nâng cao
giá thu mua nguyên liệu và cơ hội nâng cao thu nhập cho người trồng rừng.
- Nguồn nhân lực cho công nghiệp chế biến gỗ còn yếu, hiện chưa có
chính sách thu hút lao động đúng mức để ổn định sản xuất. Đội ngũ chuyên
gia và công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của
ngành.
- Mặc dù chúng ta sản xuất đồ gỗ xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn song
hiểu biết và ý thức về thương hiệu, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm gỗ chưa
cao, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp thiếu những
7

kiến thức về luật thương mại, đặc biệt là luật thương mại quốc tế. Năng lực

cạnh tranh thị trường kém, thiếu thông tin dẫn đến dễ bị thua thiệt khi xảy ra
tranh chấp quốc tế, bị chèn ép trong các khâu mua, bán…
- Trong cuộc cạnh tranh mạnh mẽ của ngành chế biến gỗ Việt Nam
trên thị trường chế biến gỗ thế giới hiện nay, sau hội nhập WTO ngành chế
biến gỗ Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế về mẫu mã, chất lượng,
thương hiệu, pháp luật thương mại quốc tế, tiêu chuẩn, chứng chỉ quốc tế,
thương mại điện tử Đó là chưa kể đến những cạnh tranh (kể cả cạnh tranh
không lành mạnh) trong nội bộ các doanh nghiệp trong nước, cũng là một
trong số các nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công
sản phẩm gỗ xuất khẩu mà không mang thương hiệu của mình trên thị trường
quốc tế.
- Một vấn đề khác phát sinh đối với mặt hàng đồ gỗ khi chúng ta hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đó là các chứng chỉ về nguyên liệu. Mỹ có
đạo luật LACEY, hay luật lâm nghiệp và quản trị rừng (FLEGT) đang được
triển khai ở tất cả các quốc gia, đây là rào cản rất lớn. Nhu cầu về đồ gỗ có
chứng chỉ đang gia tăng, nhưng Việt Nam vẫn chưa có hệ thống chứng chỉ
thích hợp. Các khách hàng chủ yếu là EU ngày càng đòi hỏi các sản phẩm
được làm từ nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ của một tổ chức như hội đồng
các nhà quản lý rừng FSC. Đến cuối tháng 5 năm 2011 ở nước ta mới chỉ có 5
Lâm Trường được cấp chứng chỉ rừng với tổng diện tích là 10.500 ha. Vì vậy,
để đáp ứng nhu cầu rất lớn về gỗ để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, các nước sản
xuất phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ FSC, giá thành sản phẩm đội lên cao nên
khó khăn cạnh tranh và giá trị gia tăng của ngành gỗ bị giảm quá nhiều so với
những quốc gia có hệ thống chứng chỉ, đồ gỗ bị giảm sụt quá nhiều so với
những quốc gia có hệ thống chứng chỉ, cho dù đồ gỗ Việt Nam đang được ưa
chuộng tại nhiều nước. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp có
8

chứng chỉ FSC và COC, đây là 2 loại chúng chỉ thiết yếu cho việc xuất khẩu
đồ gỗ ra quốc tế.

- Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ của ta chỉ làm
gia công, không có thị trường tiêu thụ chủ động mà phụ thuộc nhiều vào khách
hàng nước ngoài. Trong số 3.000 cơ sở hoạt động trong ngành Gỗ thì có tới
hơn 50% là cơ sở chế biến quy mô nhỏ, trang thiết bị vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu.
Số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân trong ngành chưa đáp ứng yêu
cầu, thiếu kỹ năng, nguồn gỗ nguyên liệu thì bị động. Hiện Việt Nam phải
nhập khẩu đến 70 - 80% nguyên liệu, sự phát triển các nhà máy băm dăm
mảnh gỗ xuất khẩu đã vượt quá khả năng cung cấp nguyên liệu gỗ rừng trồng
trong nước. Những hạn chế trên đã trì kéo mức tăng trưởng của ngành chế
biến gỗ nước ta.
- Theo Nguyễn Minh Chiến 2004 thì kết quả thực hiện SXSH mang lại
lợi nhuận kinh tế đáng kể. Kết quả với 78% giải pháp kỹ thuật SXSH có chi
phí thấp, ít tốn thời gian, 61% phương án là loại chi phí thấp cần đầu tư, 80%
phương án có thời gian hoàn vốn dưới 1 năm. Hơn 55% phương án có tác
động ít hoặc không tác động đến môi trường, 45% phương án có lợi ích môi
trường rõ rệt, không có biện pháp nào tác động xấu đến môi trường.
- Theo kinh nghiệm của các nhà chuyên gia về SXSH của UNIDO và
khảo sát thực tế tại Tp.HCM hơn 50% chất thải có thể tránh được nhờ áp dụng
biện pháp quản lý và các thay đổi nhỏ quy trình sản xuất và hơn 65% rào cản
để áp dụng SXSH liên quan đến động cơ và thái độ hợp tác của lãnh đạo, nhân
viên Công ty, SXSH sẽ đem lại lợi ích thiết thực và hiệu quả cho các doanh
nghiệp của Tp.HCM, Đồng Nai.
9

1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.3.1 Mục tiêu tổng quát
- Xác định các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến môi trường trong quá
trình sản xuất gỗ tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam Tỉnh Đồng Nai làm
cơ sở đề xuất giải pháp khắc phục và xây dựng các tiêu chí để thực hiện SXSH
tại Công ty.

1.3.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu các nguồn gây ô nhiễm trong dây chuyền chế biến gỗ để
thực hiện SXSH tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam tại Tỉnh Đồng Nai.
- Xây dựng các tiêu chí để thực hiện SXSH trong sản xuất chế biến gỗ
tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam tại Tỉnh Đồng Nai.
- Áp dụng một số tiêu chí để thực hiện SXSH trong sản xuất chế biến
gỗ tại Công ty
1.4 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Những nội dung nghiên cứu về sản xuất sạch hơn.
- Các cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng các tiêu chí để sản xuất
sạch hơn trong Công ty chế biến gỗ.
- Các tiêu chí và giải pháp để thực hiện sản xuất sạch hơn trong Công
ty chế biến gỗ.
- Đề xuất các tiêu chí có liên quan đến SXSH trong sản xuất chế biến
gỗ.
- Áp dụng một số tiêu chí để đề xuất phương án thực hiện SXSH trong
sản xuất chế biến gỗ.
1.5 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Các tiêu chí để thực hiện SXSH trong sản
xuất gỗ và đồ mộc tại Công ty TNHH gỗ Lee Fu Việt Nam tại Tỉnh Đồng Nai.
10

- Phạm vi nghiên cứu: Các yếu tố tác động đến không khí, nước thải,
chất thải rắn (rác thải), tiếng ồn, bụi ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
- Các tiêu chí có liên quan đến SXSH trong sản xuất chế biến gỗ.
- Đề xuất các giải pháp về kỹ thuật công nghệ và máy móc thiết bị.
1.6 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tiếp cận: Dựa trên cơ sở lý luận về chiến lược, kết
hợp với việc thu thập số liệu sơ cấp, thứ cấp, tham khảo ý kiến của các chuyên
gia, các nhà Quản trị của các doanh nghiệp đang sản xuất và xuất khẩu sản

phẩm đồ gỗ, tổng hợp số liệu từ các cơ quan quản lý ngành, các tạp chí chuyên
ngành đồ gỗ, sách báo, internet… Ngoài ra, thông qua việc khảo sát điều tra từ
thực tế bằng phương pháp thống kê, tổng hợp, phỏng vấn chọn lọc, sử dụng
phần mềm exel phân tích, đánh giá, từ đó tác giả đưa ra dự báo và giải pháp
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sử dụng các lý thuyết về môi
trường và SXSH trong ngành chế biến gỗ.
- Phương pháp kế thừa: kế thừa các kết quả nghiên cứu ĐTM.
- Phương pháp phỏng vấn: sử dụng trong quá trình phỏng vấn lãnh
đạo và công nhân sản xuất.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về lĩnh vực
đánh giá tác động môi trường, nhà quản lý tiêu chuẩn, chuyên gia trong ngành
chế biến gỗ.
- Phương pháp phân tích: khảo sát, quan trắc, lấy mẫu tại hiện
trường và phân tích trong phòng thí nghiệm theo các Tiêu chuẩn Việt Nam
(TCVN): TCVN 5937 – 1995, TCVN 5943 – 1995 và TCVN 5949 - 1998 về
môi trường nhằm xác định các thông số về hiện trạng chất lượng môi trường
không khí, tiếng ồn, nước, sinh thái tại khu vực của Công ty.
11

- Phương pháp thực nghiệm: Khảo sát hiện trường để thu thập kết
quả, lấy kết quả thông qua thực nghiệm đo đếm được trên các máy móc thiết
bị về môi trường

12

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ SẢN XUẤT SẠCH HƠN
2.1.1 Khái niệm sản xuất sạch hơn
Khái niệm về ‘sản xuất sạch hơn” đã xuất hiện vào cuối thập niên 80

của thế kỷ trước và đến nay được chuyên gia môi trường nghiên cứu rộng rãi
và đề cập trong nhiều tài liệu. SXSH là cách gọi chung cho cách tiếp cận mang
tính phòng ngừa đối với các hoạt động sản xuất. Hiện nay định nghĩa SXSH
đưa ra bởi UNEP có thể được chấp nhận và sử dụng phổ biến nhất. Theo đó
SXSH được định nghĩa như sau:
Sản xuất sạch hơn là áp dụng liên tục một chiến lược tổng hợp mang
tính phòng ngừa về môi trường trong các quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch
vụ nhằm nâng cao hiệu suất kinh tế và giảm thiểu rủi ro đối với con người và
môi trường.
Định nghĩa trên nhấn mạnh đến phòng ngừa trong quá trình sản xuất
cũng như trong suốt vòng đời sản phẩm. SXSH liên quan đến việc áp dụng các
bí quyết nâng cao về mặt công nghệ, và hơn thế là sự thay đổi quan điểm và
thái độ của các nhà sản xuất.
2.1.2 Cách tiếp cận sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là một cách tiếp cận trong quản lý môi trường mà
có thể đem lại nhiều lợi ích cho sản xuất. Cách tiếp cận trong SXSH có thể
liên quan đến các khía cạnh sau:
Thiết kế sản phẩm
 Công nghệ sản xuất ít chất thải
 Sử dụng hiệu quả năng lượng và nguyên vật liệu thô
 Tính khả quan của các công nghệ hiện có
 Tiêu chuẩn cao trong an toàn lao động
13

Đối với quá trình sản xuất, SXSH bao gồm cả việc bảo tồn nguyên
liệu thô và năng lượng, loại bỏ những vật liệu có tính độc hoặc nguy hiểm và
giảm bớt sự thất thoát cũng như giảm thải ngay tại nguồn.
Đối với sản phẩm chiến lược này được đặt trọng tâm vào việc làm
giảm các tác động môi trường trong toàn bộ vòng đời của vật phẩm được sản
xuất ra, bao gồm cả ý tưởng về sản phẩm đến cách thức sử dụng và sự thải bỏ

cuối cùng của sản phẩm, qua đó lồng ghép vào các khái niệm môi trường.
2.1.3 Kỹ thuật và phương pháp thực hiện
Chương trình SXSH được thực hiện trên cơ sở đánh giá quy mô toàn
Công ty, từ thiết kế đến điều hành sản xuất, để xác định được các nguyên nhân
phát thải, gây lãng phí từ đó có biện pháp ngăn chặn việc phát sinh chất thải
ngay tại nguồn. Đánh giá SXSH là phân tích, đánh giá đầu ra và đầu vào của
từng công đoạn sản xuất, phân tích nguyên nhân phát thải và đề xuất các biện
pháp khắc phục. Theo UNEP một chương trình SXSH được thực hiện gồm 6
bước: khởi động, phân tích các bước công nghệ, đề xuất các giải pháp SXSH,
lựa chọn các giải pháp, thực hiện các giải pháp, duy trì các giải pháp liên tục
tất cả được thực hiện theo chu trình khép kín thể hiện qua Sơ đồ 2 – 1:











Sơ đồ: 2 – 1: Sơ đồ các bước thực hiện SXSH

1. KHỞI ĐỘNG
4.LỰA CHỌN CÁC
GIẢI PHÁP SXSH
5. THỰC HIỆN CÁC
GIẢI PHÁP SXSH
3. ĐỀ XUẤT CÁC

GIẢI PHÁP SXSH
6.DUY TRÌ CÁC
GIẢI PHÁP SXSH
2. PHÂN TÍCH
CÁC BƯỚC CÔNG
NGHỆ
SẢN
XUẤT
SẠNH
HƠN
14

2.2 CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ
SẢN XUẤT SẠCH HƠN TRONG CHẾ BIẾN GỖ
2.2.1 Quan điểm về SXSH trong ngành chế biến gỗ
Trên cơ sở lý thuyết chung về SXSH và từ thực tiễn triển khai SXSH
trong nhiều ngành công nghiệp, các chuyên gia cho rằng quá trình SXSH bao
gồm 4 ý nghĩa sau:
+ Mục tiêu của SXSH là tiết kiệm nguồn năng lượng, giảm thấp sự
tiêu hao của nguyên liệu, giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường.
+ Phương pháp cơ bản của SXSH là cải tiến kỹ thuật, tăng cường việc
quản lý doanh nghiệp, lợi dụng tối đa đối với nguồn tài nguyên và năng lượng,
cải tiến hệ thống sản phẩm, đổi mới quan niệm về thiết kế.
+ Phương châm của SXSH là tính toán, kiểm tra được lượng ô nhiễm
thải ra môi trường, tức là thông qua tính toán và kiểm tra sẽ phát hiện được
những vị trí tạo ra ô nhiễm, nguyên nhân của nó, đồng thời tiến hành tìm giải
pháp loại bỏ hoặc làm giảm lượng ô nhiễm tạo ra.
+ Mục tiêu cuối cùng của SXSH là bảo vệ môi trường và con người,
nâng cao lợi ích kinh tế cho các xí nghiệp.
Như vậy, mưu cầu của SXSH là muốn đạt được hai mục tiêu: một là

thông qua việc lợi dụng tổng hợp nguồn tài nguyên để thay thế cho các nguồn
tài nguyên đang ngày càng cạnh kiệt, lợi dụng nguồn tài nguyên tái sinh, tiết
kiệm năng lượng, tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm nước sẽ đạt được mục tiêu
về lợi dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hai là giảm thấp sự hình
thành các chất thải và chất ô nhiễm, giảm đến mức thấp nhất sự uy hiếp đến
môi trường và con người trong quá trình sản xuất.
Mở rộng công nghiệp sản xuất sạch, về mặt vĩ mô cần thực hiện việc
khống chế đối với toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp, bao gồm đánh giá
về tài nguyên, thiết kế quy hoạch, tổ chức, thi công, quản lý vận chuyển và
kinh doanh, cải tiến, đánh giá về hiệu ích kinh tế …, về mặt vi mô cần thực
15

hiện khống chế được toàn bộ quá trình sản xuất và chuyển hóa của vật liệu,
bao gồm có khai thác nguyên liệu, dự trữ và vận chuyển, xử lý sơ bộ, gia
công, tạo hình, đóng gói, dự trữ và vận chuyển sản phẩm, bán hàng, xử lý các
loại phế phẩm.
Trong sản xuất sạch hơn, cũng cần phải sử dụng nguồn năng lượng
tinh khiết. Ngoài những nguồn năng lượng thông thường ra, cũng cần phải lợi
dụng tối đa đối với những nguồn năng lượng tái sinh, tìm ra nguồn năng lượng
mới, đồng thời sử dụng các biện pháp tiết kiệm năng lượng. Thực hiện một
quy trình SXSH đó cũng là cố gắng sử dụng ít hoặc không sử dụng những
nguyên liệu có chứa độc tố, đảm bảo được trong sản phẩm không có độc hại,
giảm thấp các nhân tố có tính nguy hiểm trong quá trình sản xuất như: áp suất
cao, nhiệt độ cao dễ cháy nổ, tiếng ồn quá lớn, độ rung động quá lớn,… sử
dụng công nghệ sản xuất ít hoặc không tạo ra chất thải, sử dụng các loại thiết
bị có hiệu quả cao, nên tiến hành sử dụng tái sinh tuần hoàn đối với các loại
vật liệu bên trong nhà xưởng, sử dụng các hệ thống điều khiển và thao tác
thuận tiện có độ tin cậy cao, đồng thời kiến lập các chế độ quản lý hoàn thiện
trong quá trình sản xuất. Cuối cùng là cần đạt được sản phẩm có độ tinh khiết
cao, sản phẩm tinh khiết là những sản phẩm có khả năng tiết kiệm được

nguyên liệu, năng lượng, ít sử dụng những loại nguyên liệu quý hiếm, hay
những sản phẩm được tạo ra từ nguồn nguyên liệu tái sinh, trong quá trình sử
dụng và sau khi sử dụng nó không có nguy hại đối với sức khỏe của con người
và môi trường sinh thái, dễ thu hồi và tái sản xuất, những sản phẩm mà nếu trở
thành phế phẩm thì dễ dàng cho việc sử lý, dễ phân hủy.
Sự khác nhau lớn nhất giữa SXSH và việc không tiến hành SXSH mà
chỉ tiến hành xử lý hậu quả ở chổ, SXSH thể hiện được mức độ rất lớn về lợi
ích kinh tế, lợi ích với môi trường, lợi ích với xã hội, thể hiện được tính cùng
tồn tại giữa con người và môi trường. Trong hàm ý của SXSH không những là
16

cần theo đuổi về tính khả thi của kỹ thuật, mà nó còn theo đuổi về tính khả thi
về mặt kinh tế.
Áp dụng SXSH trong ngành chế biến gỗ sẽ có tác dụng quan trọng
trong việc giải quyết những vấn đề về ô nhiễm môi trường trong ngành công
nghiệp này. SXSH trong ngành chế biến gỗ ở đây là nói đến việc khống chế
được bụi ô nhiễm, lượng khí thải tạo ra, lượng nước thải ra và được khống chế
trong ngành chế biến gỗ.
2.2.2 Quan điểm về xây dựng tiêu chí SXSH trong ngành chế biến gỗ
Các quan điểm và cách tiếp cận để xây dựng tiêu chí SXSH trong
ngành chế biến gỗ như sau:
Thứ nhất: từ mục tiêu quan trọng SXSH là giảm lượng chất ô nhiễm
trong quá trình sản xuất đồ gỗ thải ra môi trường. Trên cơ sở quy trình sản
xuất cho từng loại sản phẩm (từ nguyên liệu đầu vào đến dạng sản phẩm cuối
cùng) để xác định các chất gây ô nhiễm (thí dụ như: bụi ô nhiễm, nước thải ô
nhiễm, khí thải ô nhiễm,…) nghiên cứu đặc trưng của chất ô nhiễm để có biện
pháp thu gom, xử lý, xác định nguồn gốc tạo ra các chất ô nhiễm để xem xét,
nghiên cứu tìm ra các giải pháp khống chế, giảm thiểu ô nhiễm. Đây là nhóm
tiêu chí về môi trường.
Thứ hai: từ mục tiêu tiếp theo của SXSH là tiết kiệm nguồn năng

lượng, giảm thấp sự tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư,… Đây là nhóm
tiêu chí kinh tế, một số tiêu chí trong nhóm này có vai trò quan trọng trong
thực hiện SXSH. Từ thực tế triển khai SXSH trong các ngành công nghiệp nói
chung và trong một số cơ sở chế biến gỗ ta thấy, tiêu chí tiêu hao năng lượng,
tiêu chí tiêu hao nguyên liệu là các tiêu chí có thể đo đếm được, có thể đặt các
thiết bị theo dõi để quan trắc, để đo đếm, phân tích và đánh giá được hiệu quả
kinh tế, đánh giá được mức độ tiến bộ của quá trình thực hiện SXSH, đồng
thời cung cấp các số liệu kịp thời giúp cho việc giám sát và quản lý chặt chẽ
quá trình sản xuất.
17

Thứ ba: con người là đối tượng quan trọng trong việc thực hiện SXSH
trong các cơ sở sản xuất. Để tiến hành SXSH trong bất kỳ cơ sở sản xuất công
nghiệp nào trước hết phải tuyên truyền, tập huấn, đào tạo để nâng cao nhận
thức về SXSH cho đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp (cán bộ lãnh đạo các cấp
đến người công nhân trực tiếp sản xuất, các nhân viên phục vụ trong nhà máy)
. Đây là tiêu chí về nhận thức.
Thứ tư: sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất, nhóm thực hiện SXSH
sẽ đề xuất một loạt các giải pháp để triển khai SXSH. Để đánh giá và lựa chọn
được các giải pháp phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng (trên cơ sở các nguồn
lực về tài chính, công nghệ, thiết bị, điều kiện thực thi,…) của doanh nghiệp
để lựa chọn các giải pháp thực hiện SXSH phù hợp. Đây là nhóm tiêu chí đánh
giá.
Thứ năm: cần hướng tới các tiêu chí quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến
thực hiện SXSH, dễ nhận biết, dễ đo đếm và xác định được.
2.2.3 Một số tiêu chí để sản xuất sạch hơn trong nhà máy chế biến gỗ
2.2.3.1 Nhóm tiêu chí về môi trường
Trong quá trình sản xuất đồ mộc, sẽ tạo ra một lượng bụi rất lớn,
lượng bụi này bao gồm gỗ vụn, mùn cưa và bột gỗ là chính, ngoài ra còn có
một lượng nhỏ Hydrocacbon hay Silicon dioxide (Si

2
O), chúng sẽ gây ra ô
nhiễm đối với nhà xưởng và môi trường không khí. Để xử lý đối với bụi tạo ra
trong chế biến gỗ, cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của quá trình sản xuất mà
chọn ra những đối sách có tính khả thi. Một đặc điểm quan trọng trong việc xử
lý đối với bụi ô nhiễm của ngành chế biến gỗ là tiến hành xử lý tổng hợp toàn
diện đối với cả dây chuyền sản xuất, tức là giải quyết được vấn đề bụi từ
nguồn gốc của nó.
1. Nguồn gốc tạo ra bụi ô nhiễm trong ngành chế biến gỗ
Trong ngành chế biến gỗ, máy móc dùng để gia công có chủng loại rất
phong phú, quy cách không đồng nhất, những loại máy móc này trong quá
18

trình gia công chế biến gỗ sẽ tạo ra một lượng lớn bụi gỗ, nếu như chúng
không được xử lý một cách hợp lý, sẽ tạo thành sự ô nhiễm đối với môi trường
không khí ở mức độ tương ứng. Quá trình tạo ra bụi ô nhiễm trong chế biến gỗ
có thể khái quát thành 2 loại đó là quá trình cơ giới và quá trình hóa lý.
* Quá trình cơ giới: quá trình và các bước công nghệ tạo thành bụi ô
nhiễm chủ yếu gồm có:
Trong các công đoạn: Cưa xẻ, bào, phay tiện, đánh nhẵn trong quá
trình hoạt động đều sinh ra bụi. Trong xưởng chế biến gỗ, các loại máy cưa,
máy bào, máy phay, máy đánh nhẵn đều được sử dụng rất rộng rãi. Những loại
máy này trong quá trình gia công không những tạo ra một lượng lớn bụi gỗ,
mà số lượng và tính chất của bụi gỗ tạo ra còn phụ thuộc vào rất nhiều các
nhân tố như: chủng loại gỗ, cấu tạo và tính chất của gỗ, nhiệt độ và độ ẩm khi
gia công, chủng loại máy, loại công cụ cắt, công nghệ gia công (tốc độ cắt, tốc
độ nạp liệu, hướng cắt hay lượng cắt…) khác nhau thì sẽ sinh ra lượng bụi
khác nhau.
Bên trong các xưởng sản xuất đồ mộc, khi tiến hành sấy và phun sơn
cho sản phẩm, hay ở công đoạn làm sạch bề mặt đối với gỗ, cũng sẽ tạo ra một

lượng bụi khá lớn.
* Quá trình hóa lý: Các phương tiện vận chuyển trong nhà xưởng cũng
thải ra môi trường một lượng lớn khói ô nhiễm.
Các phương tiện vận tải phục vụ cho việc di chuyển chở nguyên liệu
và hàng hóa ra vào khu vực nhà máy, xe nâng hạ, hoặc các động lực
kéo…cùng với các loại xe chở công nhân, xe du lịch và xe vãng lai trong quá
trình vận hành sẽ thải ra khói thải chứa các thành phần: bụi, CO, SOx, NOx…
Tải lượng chất ô nhiễm chứa trong khí thải giao thông vận tải phụ thuộc vào
số lượng xe lưu thông, chất lượng nhiên liệu sử dụng, tình trạng kỹ thuật
phương tiện và chất lượng giao thông
19

Sự thay đổi về các điều kiện vật lý và hóa học của không khí cũng có
thể sẽ tạo ra một lượng nhỏ bụi ô nhiễm.
Quá trình vận hành máy phát điện dự phòng và lò hơi sẽ phát sinh một
lượng lớn khí thải chứa nồng độ các thành phần ô nhiễm: bụi, SO
2
, NO
x
,
CO,…
2. Một số tính chất của bụi
Bụi từ gỗ do rất nhiều những hạt đơn thể tạo thành một hệ thống
những hạt nhỏ phức tạp, tính phức tạp của chúng chủ yếu được biểu hiện ở hai
mặt: một là về bản chất cấu tạo của gỗ và sự không đồng tính đẳng hướng của
tính chất các hạt nhỏ từ gỗ (chủng loại gỗ được sử dụng trong sản xuất có rất
nhiều, cấu tạo, tính chất của gỗ cũng tùy theo sự khác nhau về điều kiện lập
địa mà cũng khác nhau, cùng một loại cây, cùng một điều kiện lập địa nhưng ở
các bộ phận khác nhau trên cây thì khối lượng thể tích và một số tính chất của
nó cũng không giống nhau), hai là về kích thước và hình dáng của các hạt nhỏ

cũng có những khác nhau. Do đó có thể nói, các hạt bụi từ gỗ là một hệ thống
các hạt phân tán không đồng đều, trong đó sự khác nhau về kích thước và hình
dáng là rõ ràng nhất, như dạng bụi được tạo thành từ quá trình đánh nhẵn đối
với ván dăm, ván dán, ván gỗ ghép thì chúng có dạng bột mịn, còn bụi được
tạo ra từ cưa xẻ gỗ khô thì chúng lại có cả dạng hạt và dạng bột mịn.
Bụi gỗ được bao hàm một số những đặc tính của chất gỗ, đồng thời nó
cũng biểu hiện một số những đặc tính của thể phân tán. Đặc tính chủ yếu của
bột gỗ gồm có: đặc tính vật lý (cấu trúc hình học, hình dạng bề mặt, sự phân
bố kích thước, mật độ, độ ẩm, thể tích, diện tích bề mặt,…) đặc tính lực học
(mật độ tạo đống, góc ma sát,…) động lực của không khí (tốc độ lắng của hạt,
tốc độ chuyển động của hạt, lực cản lớp hạt,…) đặc tính nhiệt học (tính năng
cháy, tính nổ,…) đặc tính điện học (điện trở) và thành phần hóa học của bụi.
3. Các biện pháp mang tính tổng hợp để khống chế lượng bụi ô nhiễm
trong nhà máy chế biến gỗ
20

Quá trình xử lý các loại bụi tạo ra trong ngành chế biến gỗ rất phức
tạp, cần căn cứ vào sự khác nhau của các nhân tố như: quá trình tạo ra bụi,
tính chất của bụi, mức độ nguy hại của bụi,… để lựa chọn những biện pháp
thích hợp để tiến hành xử lý. Thực tiển chứng minh, trong phần lớn các trường
hợp chỉ dựa vào một phương pháp nào đó thì rất khó giải quyết được những
vấn đề ô nhiễm của bụi trong chế biến gỗ, mà cần phải sử dụng những biện
pháp tổng hợp thì có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Hiện nay, trong
ngành chế biến gỗ trên thế giới phần lớn là sử dụng các biện pháp như: biện
pháp về hành chính và biện pháp kỹ thuật để tiến hành giải quyết những vấn
đề ô nhiễm của bụi trong ngành công nghiệp chế biến gỗ.
Biện pháp hành chính gồm có: pháp luật liên quan, các quy chế, tiêu
chuẩn về khống chế ô nhiễm, thiết lập cơ cấu quản lý, bộ phận thi hành giám
định ô nhiễm,… Một Công ty hoặc bộ phận quản lý khi được tổ chức thực
hiện một cách đồng thời thì cần phải tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý

trong việc phòng chống ô nhiễm, thực hiện các biện pháp vệ sinh để bảo vệ
sức khỏe.
Biện pháp kỹ thuật phòng chống hoặc làm sạch bụi ô nhiễm mang tính
công nghiệp gồm có 2 phương diện, thứ nhất là thiết lập phương pháp loại trừ
hoặc làm giảm phần bụi ô nhiễm đã có như việc xử lý hoặc tập hợp bụi, thứ
hai là thiết lập phương pháp loại trừ hoặc làm giảm nguồn bụi gây ô nhiễm.
Quy nạp lại cho thấy biện pháp kỹ thuật để loại bỏ hoặc làm giảm bụi ô nhiễm
có những nội dung sau:
Sử dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, cải tiến công nghệ sản xuất,
khống chế tốt nguồn phát sinh ra bụi ô nhiễm, sử dụng kỹ thuật tiên tiến, cải
tiến các thiết bị và công nghệ là một cách cơ bản để loại trừ hoặc làm giảm
lượng bụi ô nhiễm mang tính công nghiệp. Tổ chức một cách hợp lý quá trình
sản xuất và vận dụng đồng thời giảm thấp lượng bụi tạo ra. Trong cải tiến
công nghệ đầu tiên cần phải lựa chọn các biện pháp mà trong quá trình sản
21

xuất không tạo ra bụi ô nhiễm, tiếp đó mới xem xét đến các biện pháp để xử lý
chúng như thế nào.
Loại bụi bằng phương pháp ướt, phương pháp thủy lực: đây là một
biện pháp xử lý bụi ô nhiễm đơn giản mà kinh tế. Trong điều kiện các yếu tố
công nghệ và sản xuất cho phép thì đầu tiên nên xem xét đến phương pháp
này, nhưng cũng cần phải phòng ngừa tốt sự ô nhiễm lần hai của nước thải tạo
ra.
Bịt kín nguồn bụi gây ô nhiễm, khống chế sự khuếch tán của bụi tạo ra
quá trình sản xuất kín, có tính cơ giới hóa, tự động hóa: sự khuếch tán của bụi
chủ yếu là do dòng không khí thông qua điểm nguồn phát bụi quyết định.
Nguồn bụi ô nhiễm kín là một trong những cách rất tốt để ngăn cản quá trình
tạo thành bụi ô nhiễm, trong sản xuất chế biến gỗ thường sử dụng để làm giảm
sự rơi vải, bay, lộ ra ngoài của bụi trong quá trình sản xuất. Trong trường hợp
không gây trở ngại cho quá trình sản xuất, cần cố gắng che đậy kín đối với các

thiết bị tạo ra bụi, để ngăn chặn lượng bụi bay vào vùng không khí của vị trí
thao tác, ngăn cản sự tiếp xúc của người công nhân đối với bụi. Mặt khác, để
nâng cao hiệu quả bịt kín nên cố gắng duy trì được độ chân không tốt ở bên
trong thiết bị. Kỹ thuật bịt kín nguồn bụi ô nhiễm thường được kết hợp sử
dụng với các thiết bị loại bụi bằng quạt gió.
Sử dụng hệ thống thông gió để loại bụi, giảm bớt sự ảnh hưởng của
bụi ô nhiễm đến cơ thể người công nhân bên trong nhà xưởng: biện pháp này
hiện nay đang được ứng dụng rất rộng rãi, hiệu quả cũng tương đối tốt, trong
xử lý bụi của ngành công nghiệp chế biến gỗ nó cũng đã phát huy được tác
dụng rất quan trọng.
Hiện nay, ngành chế biến gỗ của rất nhiều quốc gia trên thế giới đều
sử dụng các thiết bị loại bụi để giải quyết vấn đề ô nhiễm do bụi gây ra trong
sản xuất. Đối với các nước công nghiệp phát triển, đã tiến hành hàng loạt các
nghiên cứu về kết cấu của thiết bị loại bụi cũng như những kỹ thuật mới trong
22

loại bụi, và cũng đã đạt được những thành quả đáng kể. Những công nghệ loại
bụi mới, các thiết bị mới không ngừng được phát minh, điều đó có tác dụng rất
lớn đối với việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường một cách có hiệu quả.
Hiện nay trong khống chế bụi ô nhiễm của ngành chế biến gỗ, thiết bị
loại bụi kiểu khí động học và thiết bị loại bụi kiểu túi là những thiết bị được
ứng dụng phổ biến nhất. Thiết bị loại bụi kiểu khí động học phổ thông có kết
cấu đơn giản, gia công và lắp đặt dễ dàng, giá thành rẽ nhưng nó chỉ thích hợp
để tập hợp đối với những loại bụi khô, còn đối với những loại bụi có kích
thước nhỏ bay phân tán trong không khí thì hiệu quả loại của nó là không cao,
do đó trong chế biến gỗ thường sử dụng loại này làm thiết bị loại bụi cấp 1,
còn sử dụng thiết bị loại bụi kiểu túi để làm thiết bị loại bụi cuối cùng, sẽ rất
có hiệu quả trong việc khống chế được lượng bụi bay phân tán ra bên ngoài
trong quá trình sản xuất. Bởi vì thiết bị loại bụi kiểu túi có thể tập hợp được
những loại bụi siêu nhỏ (kích thước nhỏ hơn 5 µm), so sánh với thiết bị loại

bụi bằng điện thì thiết bị loại bụi kiểu túi có thao tác và bão dưỡng đơn giản
hơn.
2.2.3.2 Nước thải và các biện pháp xử lý
1. Nguồn nước thải ô nhiễm trong chế biến gỗ
Trong ngành chế biến gỗ từ các quá trình sản xuất keo dán, xử lý
nhuộm màu và tẩy trắng gỗ, xử lý bảo quản đối với gỗ, hệ thống phun sơn đồ
gỗ có trang bị màng nước để thu bụi sơn,… là những nguồn chủ yếu tạo ra
nước thải công nghiệp. Bởi vì, trong các quá trình này đều cần đến một lượng
lớn nước công nghiệp dùng để làm dung dịch, làm nước pha loãng, làm nước
truyền tải sợi, nước rửa, nước thu bụi,… trong nước thải còn chứa một lượng
lớn các dung dịch hữu cơ, các chất có độc và những loại chất phế thải khác.
Nếu như không được xử lý thích hợp mà thải trực tiếp ra môi trường, thì nó
không những sẽ làm ô nhiễm đối với nguồn nước ở các sông suối, ao hồ hay
23

đọng lại ở các con sông, mà nó còn có thể gây bụi nguy hại đối với sự sống và
sự sinh sản của các hệ sinh vật dưới nước, ảnh hưởng đến sức khỏe của con
người, đồng thời cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp.
Trong quá trình tổng hợp keo cũng sẽ tạo ra ô nhiễm đối với nguồn
nước bao gồm: nước thải từ công đoạn sản xuất keo, nước rửa các thiết bị pha
chế keo và nước rửa các hệ thống đường ống dẫn keo,… Trong công nghệ xử
lý mạ điện đối với đồ mộc cũng có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước.
2. Các chất ô nhiễm chủ yếu trong nước thải từ chế biến gỗ và tính
nguy hại của nó
Các thành phần chủ yếu trong nước thải ô nhiễm của ngành chế biến
gỗ là các thành phần trong gỗ có khả năng hòa tan, lượng keo dư, các loại hóa
chất có tính hòa tan hoặc không có tính hòa tan cho thêm vào trong quá trình
sản xuất.
Những chất trong gỗ có khả năng hòa tan như: các loại đường,
hemicelluloses, lignin, tannin,… Hemicellulose và lignin ở một điều kiện nhất

định sẽ phát sinh các phản ứng phân giải và tùy thủy phân, tạo thành rất nhiều
các hợp chất hữu cơ có khả năng hòa tan trong nước. Những chất hòa tan
trong nước này sau khi đi vào trong nước, một bộ phận sẽ cần khí oxy để phân
giải, làm giảm lượng oxy ở trong nước, bộ phận còn lại cũng sẽ phát sinh
những phản ứng hóa học gây ô nhiễm cho nguồn nước.
Ngoài ra trong nước thải của chế biến gỗ có chứa rất nhiều các nguyên
tố kim loại như: aluminium (Al), iron (Fe), molybdenum (Mo), chromium
(Cr), nickel (Ni), zinc (Zn), barium (Ba),… Các nguyên tố này ở trong nước
rất ổn định, về cơ bản không thể bị vi sinh vật oxy hóa phân giải, chúng sẽ làm
tăng hàm lượng các nguyên tố kim loại có ở trong nước, thông qua thực vật để
đi vào cơ thể người sẽ tạo ra hiện tượng trúng độc mãn tính cho con người.
Trong nước thải của công nghiệp sản xuất đồ gỗ có sử dụng các loại
keo, trong keo có chứa các chất phenol, formaldehyde, hay các chất keo tổng
24

hợp. Những chất này đều có độc tính đối với con người, khi chúng đi vào
trong nước sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nguồn nước, ảnh hưởng đến quá
trình sinh trưởng của các sinh vật trong nước, ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy
sản, khi nước đã bị ô nhiễm thì không thể sử dụng được, cũng không thể dùng
để tưới cho các cây trồng nông nghiệp được.
Trong ngành chế biến gỗ có dùng một số chất hóa học có tính hòa tan
hoặc không có tính hòa tan trong nước như: paraffin, hóa chất chống côn trùng
hại gỗ, thuốc chống mốc,… Khi nước thải có chứa những hóa chất này, nếu
như không được xử lý mà thải trực tiếp vào nguồn nước thì sẽ rất có hại đối
với con người như các loài sinh vật sống trong nước.
3. Kỹ thuật xử lý nước thải từ ngành chế biến gỗ
Nguyên tắc xử lý nước thải là “phòng được coi trọng hơn trừ, phòng
trừ phải kết hợp với quản lý”. “Phòng” là chỉ các biện pháp để khống chế đối
với nguồn gây ô nhiễm, làm giảm đến mức thấp nhất lượng chất ô nhiễm thải
ra môi trường, “Trừ” là sử dụng các biện pháp hợp lý để tiến hành xử lý đối

với nước thải, làm cho nước ô nhiễm trước khi thải ra môi trường phải đảm
bảo được những quy định của tiêu chuẩn, “quản lý” bao gồm việc chế định
cũng như thi hành các tiêu chuẩn chất lượng đối với các loại nước thải, cũng
như đối với nguồn gây ô nhiễm, quản lý và kiểm tra thường xuyên đối với các
hệ thống xử lý nước thải ô nhiễm.
Căn cứ vào những nguyên tắc trình bày ở trên, có thể sử dụng các biện
pháp sau để tiến hành phòng chống sự ô nhiễm của nước thải công nghiệp.
Thực hiện công nghệ SXSH để làm giảm các nguồn ô nhiễm.
Sử dụng kỹ thuật để tiết kiệm nước và các kỹ thuật lợi dụng tổng hợp
đối với nước thải, làm giảm lượng nước tiêu hao.
Xây dựng các hệ thống xử lý nước thải hợp lý.
Tăng cường công tác điều tra và giám sát quản lý.
* Phương pháp xử lý nước thải
25

Phương pháp xử lý nước thải trong công nghiệp thông thường được
phân ra thành 3 loại đó là: phương pháp vật lý, phương pháp hóa học và
phương pháp sinh vật. Có thể căn cứ vào tính chất, tố thành và trạng thái của
các chất ô nhiễm có trong nước, yêu cầu về chất lượng đối với nước,… để tiến
hành lựa chọn ra phương pháp xử lý thích hợp.
Phương pháp vật lý: căn cứ vào tính chất vật lý của các chất ô nhiễm
có trong nước ở dạng huyền phù, trong quá trình phân ly hoặc xử lý đối với
nước thải mà chúng không bị thay đổi về mặt hóa học, phương pháp vật lý
thường thấy có:
Phương pháp lọc: là lợi dụng dạng tấm ngăn, lưới lọc, bể lọc bằng cát,
máy siêu lọc, thực vật,… để loại bỏ các chất dạng huyền phù ra khỏi nước
thải.
Phương pháp lắng: là lợi dụng vào trọng lực làm cho các hạt nhỏ dạng
huyền phù ở trong nước thải lắng dần xuống đáy hoặc là nổi lên bề mặt của
nước, để dễ dàng đạt được mục đích phân ly chúng ra khỏi nước thải. Các

thiết bị dùng để lắng thường thấy có bể lắng, bể lắng cát hay bể ngăn dầu.
Phương pháp bọt khí: sục không khí vào trong nước thải, lợi dụng sự
phân tán của các bọt khí rất nhỏ, làm cho các hạt nhỏ huyền phù trong nước
thải hấp phụ lên các bọt khí, rồi chúng theo các bọt khí nổi lên bề mặt của
nước tạo thành một lớp tạp chất, từ đó được loại bỏ, đạt được mục đích phân
ly chúng ra khỏi nước thải.
Phương pháp màng phân ly: là lợi dụng tính thẩm thấu qua màng lọc
của các ion và phân tử có tính phân ly ở trong nước tiến hành. Căn cứ vào độ
lớn nhỏ của các lỗ hỏng ở trên màng lọc cũng như động lực khi lọc, có thể
phân ra thành thẩm tích, điện thấm, siêu lọc và thấm tích ngược.
Phương pháp hóa học: là lợi dụng một loại phản ứng hóa học nào đó
để làm cho tính chất của các chất ô nhiễm trong nước thải biến thành dạng keo
hoặc dạng hòa tan hoặc là làm cho nó bị thay đổi về trạng thái, để dễ dàng

×