Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN HUY TIẾN

ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ XUẤT BẢN

Hà Nội, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN HUY TIẾN

ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ XUẤT BẢN
MÃ SỐ: 8.32.04.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XUẤT BẢN

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS NGUYỄN VĂN TIÊM

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân
tôi.Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được cơng
bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Huy Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................
1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG
THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .............................................................................. 10
1.1. Những vấn đề chung về hoạt động xuất bản ......................................... 10
1.2. Quan điểm về sự lãnh đạo và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động xuất bản ở nước ta hiện nay ................................................................. 14
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 33

CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY .................................................................................. 35
2.1. Khái quát về hoạt động xuất bản sách nói chung từ năm 2004 đến
năm 2017 ........................................................................................................ 35
2.2. Thực trạng đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
xuất bản ở nước ta hiện nay .......................................................................... 39
2.3. Thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động xuất bản ở nước ta hiện nay ................................................................. 56
2.4. Những vấn đề đặt ra đối với với việc đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay ............ 72
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 76
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
GÓP PHẦN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY .................................................................................. 78
3.1. Dự báo những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng và phương
hướng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta trong những năm sắp tới (2019 - 2021) ........................................... 78
3.2. Những giải pháp chủ yếu góp phần tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta
hiện nay .......................................................................................................... 83
3.3. Một số kiến nghị...................................................................................... 89
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 94
PHỤ LỤC....................................................................................................... 100


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng thống kê nhà xuất bản giai đoạn 1991-2011 ...........................

100

Bảng 2.2. Thống kê số lượng tên sách và bản sách từ 2008-2013 ....................

101

Bảng 2.3. Thống kê tốc độ phát triển vốn 6 năm (2006-2012) .........................
Bảng 2.4. Thống kê lực lượng laođộng tại các nhà xuất bản (2008-2013)........

101
102

Bảng 2.5. Thống kê cơ cấu sách từ 2010-2013 ................................................
Bảng 2.6. Kết quả xuất bản sách lý luận, chính trị - xã hội, pháp luật từ năm

102

2003 đến năm 2014 .........................................................................................
Bảng 2.7. Thống kê số lượng sách xuất bản từ năm 2004-2017 .......................

103
112

Bảng 2.8. Thống kê số lượng biên tập viên các năm 2010-2012 ......................

126



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 30 năm đổi mới, tư duy, nhận thức của Đảng về nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã có sự đổi mới; phát triển mạnh
mẽ, được thể hiện trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Điều lệ Đảng,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương, của Bộ Chính trị các nhiệm kỳ. Những kết quả đổi mới, phát triển tư
duy, nhận thức đó là cơ sở cho việc hình thành, phát triển quan điểm, đường lối đổi
mới của Đảng, là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, xây dựng, bổ sung hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước ngày càng hồn thiện, nâng cao
năng lực, vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đây
là những nhân tố cơ bản, quan trọng nhất để đất nước ta đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đưa đất nước ra khỏi
cuộc khủng hoảng kéo dài nhiều năm, thốt khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân
được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, uy tín, vị thế của đất nước trong khu
vực và trên thế giới được nâng cao, tăng thêm thế và lực của đất nước; tạo tiền đề,
điều kiện để đất nước tiếp tục phát triển trong những năm tới.
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
chun ngành xuất bản nói riêng khơng ngừng được bổ sung, hoàn thiện nhằm tạo
điều kiện cho xuất bản phát triển, xứng đáng là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa của Đảng. Hoạt động xuất bản đã tăng trưởng mạnh mẽ cả về tốc
độ, quy mơ, số lượng và chất lượng, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị xã hội, phục vụ
có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời từng
bước đưa ngành xuất bản của nước ta hội nhập với khu vực và thế giới.
Để tạo cơ sở cho hoạt động xuất bản đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao

của đời sống xã hội và theo đúng pháp luật, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp thời
nhiều chủ trương, chính sách, chế độ quy định về hoạt động xuất bản phù hợp với
thực tiễn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng trong thời kỳ
mới.
Với vai trò là đội ngũ tiên phong trên mặt trận tư tưởng văn hóa, xuất bản
Việt Nam đã và đang thực hiện tốt việc tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính


2

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời đấu tranh có hiệu quả với các
luận điệu sai trái, thù địch, góp phần vào sự ổn định chung của toàn xã hội.
Tuy vậy, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, mơ hình tổ chức và cơ chế
chính sách cho các hoạt động xuất bản có nhiều bất cập, làm cho hoạt động xuất bản
gặp phải những khó khăn, thách thức gay tắt, nảy sinh xu thế "thương mại hóa", ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất bản. Về mặt đề tài, chúng ta cịn thiếu sách góp
phần giải đáp những vấn đề quan trọng trong đường lối, quan điểm của Đảng;
những vấn đề chính trị và tư tưởng có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Loại sách này
còn thiếu sức thuyết phục về nội dung và cách diễn đạt, lại chiếm một tỷ lệ quá nhỏ
bé so với số lượng lớn các sách thuộc lĩnh vực thứ yếu, ít cần hoặc khơng cần thiết,
thậm chí "rẻ tiền" thuộc xu hướng "thương mại hoá" hoặc sách mê tín dị đoan, cốt
được lợi nhuận cao có mặt trong mọi ngõ ngách của cuộc sống. Đó là một trong
những lý do quan trọng phải tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động xuất bản
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơng tác tư tưởng trong tình hình mới.
Thực tiễn hoạt động xuất bản trong thời gian qua đang đặt ra những đòi hỏi
và thách thức mới đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đã và đang xuất hiện
những đặc điểm rất mới và phức tạp về sự gia tăng số lượng các nhà xuất bản, các
loại hình xuất bản mới, vai trị và tính chất của hoạt động xuất bản trong quá trình
chuyển đổi kinh tế, vấn đề kinh tế trong xuất bản và quan hệ của nó với nhiệm vụ là
một bộ phận quan trọng trong cơng tác tư tưởng và văn hóa, sự tham gia của các

thành phần xã hội và tư nhân trong công đoạn xuất bản, quan hệ quốc tế trên lĩnh
vực xuất bản và sự phát triển của công nghệ xuất bản...
Thực tiễn trên đặt ra những vấn đề lớn và phức tạp, chưa dễ tìm ra lời giải
đáp thỏa đáng, nên thời gian qua, hoạt động của các nhà xuất bản có lúc, có nơi rơi
vào lúng túng, thiếu định hướng cho sự phát triển vững chắc.Bên cạnh đó, hệ thống
chỉ đạo hoạt động xuất bản của các cấp ủy Đảng (cơ quan chủ quản của các nhà
xuất bản, Ban Tuyên giáo tỉnh, thành phố...) còn nhiều bất cập.
Thực tiễn trên đòi hỏi cần thiết phải nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải
pháp góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Với lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện
nay”làm đề tài nghiên cứu.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất
bản đã được các cấp ủy, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn quan
tâm trao đổi. Những quan điểm, nhận định, chủ trương, biện pháp thể hiện sự lãnh
đạo của Đảng đối với lĩnh vực này được thể hiện một cách cơ bản trong các văn
kiện Đại hội của Đảng. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động xuất bản ở nước ta đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu và có nhiều ý kiến
tranh luận, trao đổi dưới nhiều góc độ khác nhau. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu
của luận văn đáng chú ý là các cơng trình:
*Sách và tạp chí:
- Cục Xuất bản (1998), Hoạt động xuất bản trong cơ chế thị trường.
- Lê Văn Lý (chủ biên) (1999), Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực
trọng yếu của đời sống xã hội nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đảng, Bác Hồ khai sinh ngành xuất bản cách mạng Việt Nam, NXB Lao

động, Hà Nội, 2000.
- Vũ Đình Hịe (chủ biên) (2000), Truyền thơng đại chúng trong cơng tác
lãnh đạo quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Văn hố - Thơng tin, Hội Nhà
báo Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khố
VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản (Kỷ
yếu hội nghị), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bộ Thông tin và Truyền thông (2010), Một số văn bản chỉ đạo quản lý của
Đảng, Nhà nước về hoạt động xuất bản, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
- Nguyễn Danh Tiên (2010),Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi
mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của
Đảng hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Hồng Vinh (2012), Xuất bản Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, Đề tài cấp nhà nước, Nguyễn Hồng Vinh, NXB Thông
tin và Truyền thông.


4

- PGS.TS. Trần Văn Hải (2012),Lãnh đạo và quản lý hoạt động xuất bản ở
Việt Nam, Giáo trình cao học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Nguyễn Lan Phương (2012), Quản lý nhà nước về xuất bản, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
- PGS. TS. Lương Khắc Hiếu, PGS. TS. Trương Ngọc Nam (Đồng chủ biên)
(2015), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia.
- TS. Nguyễn An Tiêm, ThS. Nguyễn Nguyên (Đồng chủ biên) (2015), Xã
hội hóa hoạt động xuất bản, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, sách Nhà nước đặt
hàng, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- TS. Nhị Lê (2016), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới,
NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- Cao Văn Thống (Chủ biên) (2016), “Tư duy nhiệm kỳ” và “Bệnh thành
tích” trong công tác xây dựng Đảng và quản lý nhà nước hiện nay, Thực trạng, xu
hướng và giải pháp, NXB Lý luận chính trị.
- PGS. TS. Lương Khắc Hiếu, PGS. TS. Trương Ngọc Nam (Đồng chủ biên)
(2017), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới,
Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- PGS. TS. Lương Khắc Hiếu (2017), Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam (sách chuyên khảo), NXB Lý luận chính trị.
- PGS.TS.Vũ Trọng Lâm (2017), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sách chuyên
khảo, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- Châu Úy Hoa (2017), Truyền thơng số và chuyển đổi mơ hình xuất bản,
Sách tham khảo, Người dịch: Thanh Huyền, Hiệu đính: Thúy Lan, NXB Chính trị
quốc gia - Sự thật.
- Nguyễn Phú Trọng (2018), Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn
nào cũng vượt qua, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị, Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận chính trị.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị, Văn hóa và Phát triển, NXB Lý luận chính trị.
- GS. TS. Phùng Hữu Phú, GS. TS. Lê Hữu Nghĩa, GS. TS. Vũ Văn Hiền,
PGS. TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên) (2018), Một số vấn đề lý luận - thực



5

tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30
năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo, PGS. TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ
biên) (2018), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn cấp thiết liên quan trực tiếp đến đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, sách Nhà
nước đặt hàng, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật.
- Lê Hữu Nghĩa (1997), “Kinh tế thị trường và công tác tư tưởng”, Tạp chí
Cộng sản, (9).
- PGS.TS. Trần Văn Hải (2006), “Vấn đề quản lý nhà nước hoạt động phát
hành xuất bản phẩm ở nước ta hiện nay”,Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (4).
- Vân Anh (2007), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là khâu mấu
chốt”, , ngày 5/7.
- PGS. TS. Lưu Văn An (2014),“Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền
của Đảng trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị,(2).
- Đại tá, PGS, TS. Phạm Văn Thắng (2017), “Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân điện tử, ngày 23/02/2017.
-Hồ Ngọc Sơn,Đại tá,nhà báo, nhà thơ, ngun Trưởng phịng Báo chí - Thơng tấn,
Cục Tun huấn, Tổng cục Chính trị Qn đội nhân dân Việt Nam (2018), “Mấy
vấn đề về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Thanh tra điện tử,
ngày10/07/2018.
*Luận văn Thạc sĩ
-Trương Thị Văn (2007), Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng chuyên ngành
Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, luận văn đãnghiên cứu và làm rõ một
số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
xuất bản, thực trạng quản lý nhà nước về xuất bản, đề xuất những phương hướng,
giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong lĩnh vực xuất
bản.

-Đỗ Thị Phương Hoa(2012), Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản bản
đồ, Luận văn Thạc sĩ Truyền thơng đại chúng chun ngành Xuất bản, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, luận văn đã góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản
lý nhà nước thông qua việc hệ thống hóa lý luận và thực tiễn từ đó đề xuất giải pháp
tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản bản đồ ở nước ta.


6

- Nguyễn Thị Vân Hằng (2013), Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất
bản sách lý luận chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Truyền thơng đại
chúng chun ngành Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, luận văn đã hệ
thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến sách lý luận chính trị và quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản sách lý luận chính trị; Phân tích thực trạng với
những thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế về
quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản sách lý luận chính trị ở nước ta trong
những năm qua; Nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản sách lý luận chính trị ở nước ta trong
thời gian tới.
- Vũ Thị Thanh Tâm (2013), Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử
chống“diễn biến hịa bình” ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với Báo điện tử trong đấu tranh
chống diễn biến hịa bình ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Báo điện tử trong đấu tranh
chống diễn biến hịa bình ở nước ta thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
- Hà Anh Tuấn (2013), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế
đối ngoại từ năm 1996 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Báo chí và Tun truyền, trên cơ sở làm rõ q
trình lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ

trước năm 1996 với những ưu điểm, nhược điểm và những vấn đề đặt ra. Luận văn
nghiên cứu, làm rõ những yếu tố chủ quan và khách quan của việc Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra chủ trương mở rộng, tăng cường kinh tế đối ngoại thời kỳ từ năm
1996 đến năm 2010. Nghiên cứu quá trình lãnh đạo, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại thể hiện ở những chủ trương, chính sách lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nghiên cứu, làm rõ quá trình chỉ đạo, thực hiện đường lối của Đảng về phát triển,
mở rộng kinh tế đối ngoại thời kỳ từ năm 1996 đến năm 2010. Từ đó rút ra những
nhận xét, đánh giá và những kinh nghiệm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình lãnh đạo phát triển, mở rộng kinh tế đối ngoại từ năm 1996 đến năm
2010.
- Lưu Đình Phúc (2014), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí trong giai đoạn hiện nay,Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, khảo sát


7

thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay,
tác giả luận văn đề xuất một số quan điểm, giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với báo chí đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
- Ngô Thanh Danh (2015), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy cấp
xã ở huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trên cơ sở
làm rõ một số vấn đề lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy cấp xã
ở nước ta; phân tích những nhân tố tác động đến phương thức lãnh đạo của Đảng ủy
cấp xã ở huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông hiện nay. Khảo sát thực trạng và chỉ rõ
những vấn đề đặt ra về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy cấp xã ở huyện
Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Đề xuất những giải pháp chủ yếu để tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng ủy cấp xã ở huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH địa phương trong thời gian tới.

*Luận án Tiến sĩ
- Nguyễn Anh Tú (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế (Khoa học quản
lý), Trường Đại học Kinh tế quốc dân, luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản,phân tích thực
trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ởViệt Nam và đề ramột số giải
pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam.
Nhìn chung các cơng trình chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về Đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước
ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, khảo sát thực trạng đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay từ đó luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu góp phần tiếp tục
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay.
- Phân tích làm rõ nội dung các văn bản, quyết định về sự lãnh đạo của Đảng


8

đối với hoạt động xuất bản và sự tác động của các văn bản này đối với hoạt động
xuất bản.
- Đánh giá thực trạng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng và đề xuất các giải pháp chủ yếu góp phần tiếp tục đổi mới nội

dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay.
Giới hạn nghiên cứu: Hoạt động xuất bản bao gồm ba khâu: xuất bản, in và
phát hành. Đề tài tập trung nghiên cứu khâu xuất bản là khâu quan trọng, có ý nghĩa
quyết định về nội dung, chất lượng tư tưởng và có nhiều vấn đề bức xúc. Khâu này
liên quan trực tiếp đến hoạt động của các nhà xuất bản.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, đánh giá về nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động xuất bản qua các văn bản của Đảng, đánh giá thực trạng
xuất bản từ năm 2004 đến năm 2017, đề xuất các giải pháp chủ yếu góp phầntiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta đến năm 2021.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Chủ yếu dựa vào các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng; các văn bản của Đảng về đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay. Ngồi ra, luận văn có tham khảo, kế thừa, có chọn lọc các cơng
trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến nội dung mà luận văn đề cập.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử - lơgic, phân tích tổng hợp, khảo sát,
đánh giá, tổng kết thực tiễn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.
6. Cái mới của luận văn
Làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất



9

bản, đánh giá thực trạng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của đối với hoạt
động xuất bản ở nước ta hiện nay và xây dựng, đề xuất các giải pháp chủ yếu góp
phần tiếp tụcđổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
xuất bản ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn là sự hệ thống hóa và tổng kết lý luận về đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản. Luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động
xuất bản hiện nay.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


10

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề chung về hoạt động xuất bản
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm, tính chất của hoạt động xuất bản
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì: "Xuất bản là in ra
thành sách báo, tranh ảnh để phát hành" [79, tr.1805].Khái niệm xuất bản theo tiếng
Anh là Publish, tiếng Pháp là Publier, đều có nguồn gốc từ tiếng La Tinh là
Publicare, nghĩa là công bố cho mọi người biết [81, tr. 11]. Hoạt động xuất bản đã
xuất hiện từ nhiều thế kỷ và là công cụ thiết yếu để thúc đẩy sự phát triển của nền
văn minh nhân loại. Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động sáng tạo ra tri thức, vừa là

hoạt động sản xuất vật chất. Theo Từ điển xuất bản: Xuất bản là hoạt động thuộc
lĩnh vực văn hóa tư tưởng thơng qua việc sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến
nhiều người [64]. Điều 3 nói về "Vị trí, mục đích của hoạt động xuất bản" của Luật
Xuất bản 2012 có viết:“Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm
phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam,
mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh chống
mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.[60]
Theo Khoản 1, Điều 4 Luật Xuất bản2012: Xuất bản là việc tổ chức, khai
thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực
tiếp qua các phương tiện điện tử [60].
Như vậy, hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng
đặc biệt thông qua việc sản xuất, phổ biến các xuất bản phẩm đến tay nhiều người
trong xã hội. Nó bao gồm ba khâu biên tập, in nhân bản, phát hành. Đó là tổ hợp
phức tạp của công việc sản xuất bao gồm cả sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Đặc điểm của hoạt động xuất bản:
Hoạt động xuất bản là một tổ hợp sản xuất bao gồm cả tinh thần và vật
chất.Xuất bản là một ngành kinh doanh đặc thù: đặc thù ở mục đích sản xuất, đặc
thù ở quy trình sản xuất, đặc thù ở sản phẩm làm ra. Sách là một loại hàng hóa đặc
biệt: sách là hàng hóa đặc biệt ở tính đơn chiếc, giá trị sử dụng. Sản phẩm của hoạt


11

động xuất bản phải được truyền bá sâu rộng trong xã hội.
Tính chất của hoạt động xuất bản được thể hiện qua: tính đặc thù hai mặt
của hoạt động xuất bản.Tính chất đặc thù hai mặt của hoạt động xuất bản chủ yếu là
do tính chất của xuất bản phẩm và quá trình hoạt động xuất bản quyết định. Xuất

bản phẩm là một sản phẩm văn hóa tinh thần của hoạt động xuất bản nên xuất bản là
một hoạt động văn hóa-tư tưởng. Đồng thời xuất bản cịn là một vật phẩm - một “vỏ
vật chất” nhất định để chứa đựng các tác phẩm tinh thần cho nên xuất bản cịn là
q trình sản xuất vật chất để tạo thành các sản phẩm vật chất. Trong cơ chế thị
trường, nhờ ở dạng xuất bản phẩm, nó được mang trao đổi trên thị trường và trở
thành hàng hóa. Do đó, xuất bản cịn là hoạt động mang tính chất kinh tế, hoạt động
này địi hỏi những chi phí kinh tế và có thể mang lại lợi nhuận cho người sản xuất.
Đây chính là hai mặt đối lập mà thống nhất của tính chất đặc thù trong hoạt động
xuất bản.
Hoạt động xuất bản vừa là một ngành văn hóa - tư tưởng lại vừa là một
ngành sản xuất lưu thơng hàng hóa mang tính chất kinh tế rõ rệt.
Tính trung gian của hoạt động xuất bản:Khi có xuất bản, hoạt động xuất bản
trở thành khâu trung gian môi giới giữa tác giả với độc giả.
Tính chất xã hội hóa của hoạt động xuất bản:Xuất bản chính là hoạt động xã
hội hóa xuất bản phẩm - “sách hóa bản thân” của đội ngũ sáng tạo xuất bản phẩm và
những đơn vị xuất bản.Xã hội hóa là một chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
trong hoạt động xuất bản được thể hiện qua các chính sách và các văn bản pháp luật
cụ thể.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất bản
1.1.2.1.Trong xã hội ta, xuất bản là một thiết chế, một công cụ hoạt động
cách mạng, là vũ khí sắc bén của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa[35]
Xuất bản là hoạt động văn hóa - tư tưởng do vậy tất yếu có tính giai cấp, xuất
bản vơ sản tất yếu phải hoạt động theo nguyên tắc tính đảng. Xuất bản phẩm chứa
đựng các tác phẩm văn hóa tinh thần thuộc tất cả các hình thái ý thức xã hội khác
nhau: chính trị, đạo đức, văn nghệ, khoa học,… Trong các lĩnh vực sáng tạo đó, có
các lĩnh vực khoa học, bản thân nó, khơng mang tính giai cấp (khoa học tự nhiên,
kỹ thuật,…), lại có những hình thức mang tính giai cấp rõ rệt (các khoa học chính
trị, khoa học xã hội - nhân văn…). Tuy nhiên, việc lựa chọn các tác phẩm văn hóa
để xuất bản, truyền bá trong xã hội có giai cấp, bao giờ cũng theo quan điểm, lợi ích
của các giai cấp xã hội. Đối với giai cấp vơ sản, sách báo là vũ khí đấu tranh giai



12

cấp, là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, các nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”[35].
Tính giai cấp trong hoạt động xuất bản được biểu hiện trên nhiều phương
diện. Trước hết, nó biểu hiện ở nội dung xuất bản phẩm được xuất bản thông qua
việc lựa chọn đề tài, chủ đề, tư tưởng, tác dụng thực tiễn của tác phẩm.
Lý luận Mác-Lênin khẳng định: giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế
cũng sẽ nắm địa vị thống trị trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, văn hóa. Tuy nhiên,
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa thường biến đổi chậm hơn kinh tế và chính trị. Do vậy,
sau khi có chính quyền trong tay, các giai cấp thống trị còn phải thực hiện vai trò
thống trị trên các lĩnh vực văn hóa - tư tưởng thơng qua các thiết chế và các cơng cụ
về tư tưởng - văn hóa. Xuất bản là một thiết chế, một phương tiện không thể thiếu
để thực hiện nhiệm vụ này. Vai trò của công tác xuất bản đối với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, trong điều kiện có chính quyền, thể hiện ở các khía cạnh cụ thể
sau đây:
Thứ nhất: Cơng tác xuất bản tạo ra khơng khí chính trị đồng thuận, tạo dư
luận xã hội có lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai: Công tác xuất bản là công cụ giáo dục ý thức chính trị tự giác của
quần chúng cách mạng. Để làm điều này, công tác xuất bản đã tác động đến lập
trường, quan điểm và hành vi của bạn đọc.
Thứ ba: Công tác xuất bản là công cụ đấu tranh trực tiếp chống lại các tư
tưởng chính trị phản động, thù địch ở trong và ngoài nước để bảo vệ hệ tư tưởng
giai cấp, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hịa bình”, sự xâm lược và đồng hóa văn
hóa từ bên ngồi, tun truyền đường lối chính trị đối ngoại của Nhà nước.
1.1.2.2. Bản chất xuất bản là hoạt động truyền bá văn hóa. Trong xã hội ta,
xuất bản là bộ phận thiết yếu của đời sống văn hóa, để xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Muốn cho văn hóa phát triển, phải sản xuất ra nhiều tác phẩm văn hóa có giá
trị, phải xây dựng, phát huy đội ngũ nghiên cứu, sáng tác, tạo môi trường sáng tạo
tốt nhất cho các nghệ sỹ và nhà khoa học. Xuất bản góp phần làm phồn vinh và phát
triển sự nghiệp văn hóa - văn nghệ.
Xuất bản góp phần thúc đẩy và nâng cao trình độ văn hóa của mọi thành viên
trong xã hội. Cơng tác xuất bản cịn là cơng cụ truyền bá, phân phối, bảo tồn các
giá trị văn hóa có hiệu quả cao. Xuất bản là đội quân chủ lực trong việc truyền bá
các sản phẩm văn hóa. Nó có thể đưa đến đơng đảo quần chúng những tác phẩm có


13

dung lượng tri thức lớn, những thông tin tri thức phức tạp, sâu sắc, có tác dụng tích
lũy tri thức lâu dài; có hiệu quả cao nhất.
Xuất bản có tác động to lớn đến mọi hoạt động văn hóa khác.Sách và hoạt
động xuất bản cịn có vị trí đáng kể trong việc tổ chức đời sống văn hóa cộng đồng.
Như vậy, xuất bản là một bộ phận quan trọng trong hoạt động văn hóa xã hội, là
nhân tố khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa.
Tính dân tộc là thuộc tính vĩnh hằng của đời sống văn hóa. Bác Hồ – danh
nhân văn hóa thế giới từng nói: “Một nền văn hóa nghệ thuật mang tính dân tộc
chân chính bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố có tính nhân loại phổ biến.”
Để nền văn hóa dân tộc ln ln là nền tảng tinh thần cho sự tồn tại, phát
triển bền vững của dân tộc, xuất bản phải là công cụ để gạn lọc, kế thừa những giá
trị văn hóa bản sắc của dân tộc Việt Nam, đưa và phát huy các giá trị đó vào làm
phồn vinh nền văn hóa dân tộc hơm nay. Đồng thời, xuất bản cũng trở thành công
cụ để tiếp biến, tiếp thụ những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác.
Nói đến văn hóa là nói đến bản sắc mỗi dân tộc. Trong giao lưu và hội nhập
văn hóa, các dân tộc khơng được đánh mất truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc
mình. Bởi nếu đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc đó sẽ mất tất cả, khơng thể có sự
khơi phục.

1.1.2.3. Xuất bản là cơng cụ giáo dục tồn diện con người, góp phần xây
dựng mơ hình nhân cách đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong từng thời kỳ
lịch sử
Thực hiện chức năng thông tin đại chúng, công tác xuất bản trở thành
phương tiện nhận thức cơ bản của con người. Sách và xuất bản trở thành “người
khai sáng”, người giữ gìn và truyền bá “ngọn đuốc trí tuệ” của nhân loại. Thơng qua
xuất bản phẩm, con người nhận thức được mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội đã, đang
và sẽ diễn ra quanh mình. Sách khơng những chỉ cung cấp cho con người bức tranh
toàn cảnh về thế giới mà còn giúp họ nhận thức được những mặt bản chất, những
quy luật vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trên cơ sở nhận thức
đúng đắn những quy luật đó, con người sẽ có thái độ và hoạt động đúng đắn theo
quy luật nhằm thích nghi và cải tạo thế giới.
Xuất bản là hoạt động sản xuất phổ biến các tác phẩm văn hóa tinh thần
thuộc tất cả các hình thái ý thức xã hội khác nhau, đáp ứng các nhu cầu khác nhau
của bạn đọc. Các xuất bản phẩm được truyền đi bao giờ cũng mang lý tưởng nhân
văn của các trí thức trong mọi thời đại, hướng tới con người, để hoàn thiện nhân


14

cách con người theo hướng chân, thiện, mỹ, làm cho con người ngày càng người
hơn.
1.1.2.4. Xuất bản coi lợi ích văn hóa - xã hội là mục tiêu, đặt lợi ích văn hóa
- xã hội lên hàng đầu, đồng thời phải chú trọng lợi ích kinh tế
Xuất bản bản chất là hoạt động truyền thơng. Mục tiêu, tính chất của hoạt
động xuất bản do giá trị truyền thông qua xuất bản phẩm quyết định. Nội dung
thông tin trong các xuất bản phẩm là các tác phẩm văn hóa tinh thần, có tác động
đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm và hành vi của con người. Giá trị của xuất bản
phẩm mang lại là các giá trị văn hóa đáp ứng nhu cầu tinh thần. Bởi vậy, đáp ứng
nhu cầu văn hóa tinh thần, hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ là mục tiêu

cao nhất của mỗi xuất bản phẩm và toàn thể hoạt động xuất bản.
Xuất bản là một tổ hợp hoạt động phức tạp, vừa sản xuất tinh thần, vừa có
sản xuất vật chất, mang đồng thời cả hai tính chất là tính chất văn hóa và tính chất
kinh tế. “Xuất bản vừa là một nghệ thuật vừa là một ngành kinh doanh. Nếu muốn
tồn tại, xuất bản phải hoạt động theo nguyên tắc kinh doanh”. [1, tr.20]
1.2. Quan điểm về sự lãnh đạo và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động xuất bản ở nước ta hiện nay
1.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản
1.2.1.1. Khái niệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất bản là quá trình định ra đường
lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị; định ra nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản là nguyên tắc hàng đầu. Sự
lãnh đạo đó là điều kiện để các nhà xuất bản hoạt động đúng mục đích và có hiệu
quả. Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng càng hồn thiện, càng có hiệu quả thì hoạt
động xuất bản càng có điều kiện thuận lợi để phát triển. Vì thế, việc khẳng định và
không ngừng nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi tất yếu của
lĩnh vực xuất bản. Chính trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, sự lãnh đạo của Đảng lại cần thiết hơn
bao giờ hết đối với lĩnh vực xuất bản. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho sách thực
hiện tốt chức năng truyền bá hệ tư tưởng, tuyên truyền, giải thích đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tổ chức và tập hợp quần chúng
dẫn đến hành động cách mạng phù hợp với sự vận động của thực tiễn theo những
mục tiêu đã định.


15

Ở đây, chủ thể lãnh đạo là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các tổ chức đảng và cấp uỷ các cấp

lãnh đạo công tác xuất bản thuộc các ban, bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, các nhà
xuất bản...Đối tượng lãnh đạo công tác xuất bản, bao gồm: các cơ quan tham mưu,
quản lý Nhà nước về xuất bản, tổ chức các nhà xuất bản và sự phối hợp hoạt động
giữa các nhà xuất bản, hoạt động xuất bản (kế hoạch, chương trình, nội dung, hình
thức xuất bản...), đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng tham gia công tác xuất bản,
xuất bản với công chúng (mối quan hệ và hiệu quả chính trị - xã hội của sách...).
Đảng lãnh đạo công tác xuất bản bằng định hướng chính trị, tư tưởng, bằng
hệ thống quan điểm về xuất bản. Kiểm tra, uốn nắn việc thực hiện các định hướng
đó thơng qua các tổ chức đảng và đảng viên. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng
đối với lĩnh vực xuất bản phụ thuộc vào việc vạch ra những định hướng và quan
điểm đúng đắn, khoa học, vào trình độ, năng lực, phẩm chất của các tổ chức đảng
và của cán bộ, đảng viên.
Đảng lãnh đạo công tác xuất bản khơng chỉ bằng đường lối, quan điểm mang
tính định hướng, mà còn thường xuyên chỉ ra những phương hướng đề tài cụ thể
trong từng thời kỳ. Nhưng sự lãnh đạo đó khơng theo kiểu cầm tay chỉ việc. Đảng
lãnh đạo thông qua việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, cấp uỷ đảng để thực hiện
tốt sự lãnh đạo của mình mà khơng sa vào những vụ việc cụ thể hoặc đi quá sâu vào
nghiệp vụ chuyên môn.
Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực xuất bản trước hết
Đảng cần có chủ trương, đường lối đúng đắn. Đồng thời luôn kiểm tra việc thực
hiện các chủ trương, định hướng chính trị; kịp thời uốn nắn, bổ sung, tạo điều kiện
cho công tác xuất bản làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình và ln phát triển.
Đảng cầm quyền lãnh đạo cịn thơng qua việc thi hành pháp luật và sự quản lý của
Nhà nước.
Trong văn bản chính trị - pháp lý, thuật ngữ được sử dụng phổ biến, chính
thức là Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “Đảng cầm quyền”
khơng loại trừ nội dung “Đảng lãnh đạo chính quyền” mà bao hàm trong đó. Khơng
lãnh đạo chính quyền thì Đảng khơng cầm quyền được. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Namlà Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và

xã hội” [20, tr.88]. Khái niệm “Đảng cầm quyền”, được dùng như “Đảng lãnh đạo”;


16

và “nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng”, vì vậy cũng được dùng như là
nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội [47, tr.35].
Là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo mọi mặt hoạt động của đất nước trong
đó có lĩnh vực xuất bản chủ yếu thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước. Quan
điểm, đường lối của Đảng trên lĩnh vực xuất bản được thể chế hóa thành chính sách,
pháp luật của Nhà nước, tạo khuôn khổ pháp luật, tạo động lực và định hướng hoạt
động của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, của toàn dân để
thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Vì vậy, nội dung lãnh đạo của Đảng và nội
dung quản lý của Nhà nước về xuất bản là thống nhất. Qua hơn 30 năm đổi mới, để
thực hiện mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (hay nói gọn hơn là để thực hiện mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hai mục tiêu này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau),
những nội dung lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã được nhận thức ngày
càng rõ, đầy đủ hơn. Cương lĩnh của Đảng đã xác định rõ những đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa, những phương hướng cơ bản cần phải thực hiện, những quan
hệ lớn cần phải giải quyết. Những phương hướng, nhiệm vụ này được cụ thể hóa,
bổ sung, phát triển trong Văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Trung ương
trong những nhiệm kỳ qua. Cùng với nội dung lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về xuất bản trong hơn
30 năm đổi mới cũng không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu
lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải giải quyết được
mối quan hệ giữa bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo tập thể và việc nâng cao trách
nhiệm của cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu nhà xuất bản; phải làm rõ chức

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ giữa các cấp ủy, tổ chức
đảng ở từng cấp, nhất là của Đảng đồn, Ban Cán sự Đảng Bộ Thơng tin và Truyền
thông và các Bộ chủ quản, Đảng ủy trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, chi bộ các nhà xuất bản. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ cách xây dựng, ban hành, phổ biến, quán triệt, tổ
chức thực hiện, đến việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng đối với lĩnh vực xuất bản.Đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo cótrọng điểm một số cơng việc quan trọng bậc nhất,
chứ khơng phải dàn trải “tồn diện” tất cả các lĩnh vực, lãnh đạo không phải bằng


17

các biện pháp hành chính mệnh lệnh, càng khơng bằng quyền lực, mà phải bằng các
giá trị nhân văn và sự thuyết phục lởi lẽ phải; không phải bằng sự áp đặt mà phải
bằng dân chủ; không phải quyết định thay cho Nhà nước và người dân mà là giúp
đỡ và tạo điều kiện cho Nhà nước và người dân tự quyết định những công việc
thuộc quyền hạn của họ. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi phải nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn để tìm câu trả lời.
1.2.1.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nội dung lãnh đạo của Đảng
Về nội dung lãnh đạo của Đảng cầm quyền, theo V.I.Lênin, sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trước hết ở nội dung lãnh đạo.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện chủ yếu và trước hết
ở việc Đảng xác định các mục tiêu mang tính chất định hướng trong các chủ
trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản: nội dung, phương thức lãnh đạo
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối,
chính sách, các định hướng về chủ trương cơng tác; bằng tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng

lựa chọn, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực
vào trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền theo đúng quy trình, thủ tục và pháp
luật của Nhà nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên
hệ mật thiết với nhân dân và luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân.Người nhắc
nhở: “Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh” [65]. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân…” [65].Đảng cầm quyền,
dân là chủ, Đảng phải coi “dân làm gốc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng cho đến
khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Tư tưởng đó của Người có thể khái quát thành
các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng Đảng là yêu cầu tất yếu, thường xuyên đểĐảng tồn tại và
phát triển.
Thứ hai, trong xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận, Đảng lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
Thứ ba, muốn Đảng vững mạnh, phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng: nguyên tắc tập trung, dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân


18

phụ trách;nguyên tắc tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự giác;đoàn
kết, thống nhất trong Đảng.
Thứ tư, phải xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân.
Thứ năm, phải quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có trí
tuệ, năng lực, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
Thứ sáu, phải thường xuyên chỉnh đốn vàđổi mới Đảng.
Thứ bảy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi bệnh tật, làm thất
bại mọi ýđồ, âm mưu của các thế lực thùđịch.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nội dung lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động xuất bản

a) Khái niệm “nội dung” được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa là “mặt bên
trong của sự vật, cái được hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện”[79, tr.1168].
b)Khái niệm “nội dung lãnh đạo của Đảng”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải thực
hiện những việc: quyết định mọi vấn đề một cách đúng đắn; tổ chức sự thi hành cho
đúng; tổ chức sự kiểm sốt. Điều đó có nghĩa là: sự “lãnh đạo” của Đảng là toàn
bộ hoạt động đề ra các quyết định; tổ chức các lực lượng thực hiện và tiến hành
kiểm tra, giám sát, nhằm thực hiện thắng lợi các quyết định của Đảng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ Đảng cầm quyền là những quyết
định của Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách đối với cơng tác xây dựng nội
bộ Đảng; các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội và các tổ
chức khác…; các lĩnh vực của đời sống xã hội và việc chỉ đạo thực hiện các quyết
định đó, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc xác định đúng nội dung lãnh đạo và tạo lập phương
thức lãnh đạo đúng đắn là hai vấn đề quan trọng của Đảng lãnh đạo và Đảng cầm
quyền.
c) Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản
Đảng lãnh đạo toàn diện đối với hoạt động xuất bản thể hiện chủ yếu ở các nội dung
sau:
Định hướng chính trị cho cơng tác xuất bản
Đảng cung cấp thơng tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về đường lối, chính
sách, tình hình thực tiễn và các kết quả nghiên cứu lý luận cho hoạt động xuất bản.
Tổ chức sự phối hợp giữa các nhà xuất bản.
Đảng lãnh đạo thơng qua việc bố trí, đào tạo, quản lý cán bộ lãnh đạo các nhà xuất


19

bản và công tác cán bộ xuất bản.
Các cấp ủy đảng có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra nội dungchính trị tư tưởng

của xuất bản phẩm thực hiện tốt việc lãnh đạo, quản lý hoạt động của các nhà xuất
bản.
1.2.1.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức lãnh đạo của Đảng
Về phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản, V.I.Lênin chỉ rõ:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng việc đề ra các chủ trương,
đường lối, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua tổ chức đảng, đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng công tác kiểm tra.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua công tác vận động
quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động xuất bản
a) Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt, “phương thức” là phương pháp và hình
thức tiến hành. “Phương pháp” là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao [82,
tr.1352]. Cịn theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, “phương
thức” là cách thức và phương pháp tiến hành. “Phương pháp” là cách thức nghiên
cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội [79, tr. 1250]. Như
vậy, phương thức là phương pháp, hình thức hay cách thức nghiên cứu, nhìn nhận
các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội để đạt hiệu quả cao.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, lãnh đạo là sự dẫn dắt đối tượng đi theo một
đường hướng đã xác định [82, tr.1294]. Theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Trung
tâm Từ điển học, lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức thực hiện [79,
tr. 853].
Khái niệm “lãnh đạo” được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”, với đầy đủ nội hàm của khái niệm này, ngoài ra Người cịn
phân tích về khái niệm “lãnh đạo đúng”. Theo Hồ Chí Minh, “lãnh đạo đúng” là

việc quyết định mọi vấn đề cho đúng (ra quyết định đúng); tổ chức thi hành cho
đúng (thực hiện đúng); và tổ chức việc kiểm tra và giám sát. Ba yếu tố này có mối


20

quan hệ biện chứng với nhau. Từ đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra quy trình lãnh đạo của
Đảng ta, đó là: ra quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát [43, tr.20-30].
Theo cuốn sách của Nguyễn Thế Kỷ, sự lãnh đạo của Đảng được hiểu là
Đảng đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên hệ thống chính trị và các
tầng lớp nhân dân thực hiện [48, tr.26].
Từ những định nghĩa và phân tích nêu trên, có thể hiểu: sự lãnh đạo của
Đảng là việc Đảng đề ra chủ trương, đường lối; tổ chức, động viên hệ thống chính
trị và các tầng lớp nhân dân thực hiện, đồng thời Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát
việc thực hiện chủ trương, đường lối đó.
Tiếp cận ở góc độ đảng cầm quyền, Đảng phải xác định mục tiêu chung và
những mục tiêu cụ thể của cách mạng nước ta, vạch ra đường lối chính trị và các
chủ trương lớn. Trên cơ sở đó, tồn bộ hoạt động của Đảng là phát triển mục tiêu,
đường lối, chủ trương đó thành hiện thực. Đó chính là nội dung cốt lõi của sự lãnh
đạo. Để nội dung lãnh đạo có thể thực hiện được, cần những cơ chế, cần xác lập và
thực hiện những mối liên hệ như thế nào giữa Đảng - chủ thể lãnh đạo với các bộ
phận khác của hệ thống chính trị, với xã hội - khách thể lãnh đạo. Đó chính là vấn
đề phương thức lãnh đạo của Đảng.
Khái niệm “phương thức lãnh đạo của Đảng” có nội dung rất rộng, chỉ tồn
bộ phương pháp chung và các phương pháp cụ thể của quá trình lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng - bắt đầu từ khâu xây dựng đường lối, chính sách cho đến khi
đường lối, chính sách đó đến được với quần chúng nhân dân và trở thành hiện thực
với những chỉ số hiệu quả cụ thể.
Theo Trần Đình Nghiêm, phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các
hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác

mà Đảng sử dụng trong hoạt động lãnh đạo để tác động vào các tổ chức, con người
trong hệ thống chính trị và cả xã hội nhằm làm cho đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng được thực hiện có hiệu quả nhất trong cuộc sống [55, tr.201]. Theo
đó, phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các phương pháp, hình thức, cách
thức mà Đảng tác động vào Nhà nước để hiện thực hóa ý chí của Đảng đã được xác
định ở những công việc trong nội dung lãnh đạo.
Trên cơ sở kế thừa và tổng hợp ý kiến các nhà khoa học, có thể hiểu: Phương
thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy
chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối làm việc… mà Đảng sử dụng để tác
động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường


×