Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

SKKN một số giải pháp dạy các bài về từ trong phân môn luyện từ và câu lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.84 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết mục tiêu của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là hình
thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết)
để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua
việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt
Nam và nước ngồi.
Phân mơn Luyện từ và câu là một phân môn quan trọng trong việc trang
bị cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. Với tên gọi này phân
môn Luyện từ và câu không chỉ đơn thuần là kết quả của việc ghép hai phân
mơn Từ ngữ - Ngữ pháp mà có sự bổ sung của rất nhiều kiến thức nhằm mở
rộng, làm giàu vốn từ cho học sinh. Giúp học sinh sử dụng từ, câu một cách
chính xác trong hồn cảnh giao tiếp cụ thể…
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông
qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công
cụ để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt.
Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, vai trị của từ trong hệ thống ngơn ngữ quy
định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Nếu như khơng có vốn từ
đầy đủ thì khơng thể sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp được. Vì vậy
việc cung cấp kiến thức lý thuyết về từ cũng như kỹ năng nắm nghĩa, sử dụng từ
cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt
động học tập trong giờ Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Tuy
nhiên, ngôn ngữ Tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một
trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ.
Nội dung về nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần
Luyện từ và câu. Một tiết cung cấp về nội dung lý thuyết, một tiết rèn kỹ năng
1



luyện tập (mỗi tiết dạy 35 – 40 phút). Vì vậy khi dạy những kiến thức này, tôi
nhận thấy rằng: Kỹ năng hiểu nghĩa của từ của học sinh lớp 5 còn rất nhiều hạn
chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Một bộ phận giáo viên lên lớp còn rập
khuân máy móc, cứng nhắc trong việc dạy học do chưa tìm được hình thức,
phương pháp phù hợp với nội dung dạy học. Vậy làm thế nào để các em nắm
được những kiến thức của phân môn Luyện từ và câu lớp 5 nói chung và đặc
biệt về các bài dạy nghĩa của từ một cách dễ dàng, tích cực, đó chính là vấn đề
trăn trở lớn đối với mỗi giáo viên. Trong những năm giảng dạy lớp 5, bản thân
tôi đã cùng đồng nghiệp thảo luận, tìm tịi và thử nghiệm một số biện pháp nhằm
giúp học sinh học tốt các bài liên quan đến nghĩa của từ ( từ đồng nghĩa, từ trái
nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa). Đó cũng chính là nội dung mà tơi trình bày
trong sáng kiến: “Một số giải pháp dạy các bài về từ trong phân môn Luyện từ
và câu lớp 5” .
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, quan hệ…) mà từ biểu thị.
- Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau
+ Những từ đồng nghĩa hoàn toàn có thể thay thế cho nhau trong lời nói.
+ Những từ đồng nghĩa khơng hồn tồn khi dùng phải cân nhắc để lựa
chọn cho đúng.
- Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
- Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về
nghĩa.
- Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
+ Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ bản, là nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ.
Trong từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên.
+ Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối quan
hệ mật thiết với nghĩa gốc. Trong từ điển, nghĩa chuyển được nói đến sau nghĩa
gốc.
2



Quy luật chuyển nghĩa của từ
- Quy luật nhận thức của con người:
Quá trình nhận thức của con người bao gồm hai mặt: cảm tính và lý tính.
Trong đó nhận thức cảm tính là nhận thức đầu tiên. Điều này có nghĩa là tư duy
của con người bao giờ cũng đi từ cụ thể, trực quan, cảm tính đến trừu tượng lý
tính. Dựa vào quy luật trên, ta có thể rút ra thủ pháp nhận diện, phân biệt nghĩa
của từ.
Ví dụ: Nghĩa của từ “chín” khi nói về quả là nghĩa chính, cịn khi nói về
sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển.
- Quy luật chuyển nghĩa của từ:
Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ đều xuất
phát từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực gần gũi nhất đối với con
người đến tồn bộ thế giới cịn lại. Dựa vào quy luật này, ta có thể thấy: Trong 2
ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người, động vật hoặc nói về
các hành động, tính chất của con người thì thường là nghĩa có trước( nghĩa gốc)
cịn nghĩa nói về các hiện tượng khác là nghĩa có sau ( nghĩa chuyển).
Ví dụ: “răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính.
“răng” trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Nội dung về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câu lớp 5 gồm 11 tiết, trong đó có 4 tiết lý thuyết, 7 tiết
luyện tập.
Với cách phân phối 2 tiết/tuần giúp học sinh nắm được những kiến thức
về từ và câu để vận dụng trong nói, giao tiếp hàng ngày. Đó cũng chính là mục
tiêu mong muốn khi dạy luyện từ và câu của tất cả các giáo viên. Tuy nhiên, thời
lượng để học sinh tiếp cận và rèn luyện kỹ năng về từ là quá ít (so với nội dung
tương đối khó) nên học sinh khơng hiểu qui luật chuyển nghĩa của từ do học
sinh không nhận ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ.

Học sinh không phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
3


IV. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu giải pháp dạy các bài về từ trong phân môn Luyện từ và câu
lớp 5.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Nam Thắng.
V. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nhằm nâng cao hiệu quả của việc cung cấp từ ngữ cho học sinh lớp 5 từ
đó rút ra những kết luận sư phạm ứng dụng vào việc dạy Luyện từ và câu ở tiểu
học nói riêng và giảng dạy các mơn học khác nói chung.
- Cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập phân
môn Luyện từ và câu của học sinh.
- Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng hiểu nghĩa của từ, kĩ năng vận dụng vốn
từ vào trong giao tiếp và có vốn từ phong phú hơn.
VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Việt, sách giáo
khoa và tài liệu tham khảo.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
-Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan.
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.

4


B. PHẦN NỘI DUNG

I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội
dung địi hỏi một phương pháp thích hợp . Mục tiêu của mơn tiếng Việt nói
chung và phân mơn Luyện từ và câu nói riêng là: Bồi dưỡng cho học sinh thói
quen dùng từ đúng, nói viết thành câu; có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá
trong giao tiếp. Tuy nhiên, các kĩ năng giao tiếp khơng thể được hình thành và
phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ
năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự
hướng dẫn của thầy cô. Các kiến thức về ngơn ngữ, văn học, văn hố, tự nhiên
và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, sự truyền đạt của thầy cô. Nhưng
học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng
bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những tư tưởng, tình
cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thơng qua sự rèn
luyện trong thực tế.
1. Thuận lợi
- Đội ngũ giáo viên cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong q
trình giảng dạy.
- Đa số học sinh có đủ Sách giáo khoa và các đồ dùng học tập và được
nhà trường quan tâm tạo mọi điều kiện học tập.
2. Khó khăn
- Học sinh khơng nắm chắc khái niệm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Đối với bài tập yêu cầu đặt câu với mỗi loại nghĩa của từ (nghĩa gốc nghĩa chuyển), học sinh lại mắc lỗi diễn đạt ý không rõ ràng cụ thể. Vì thế,
người đọc khó xác định “từ trong văn cảnh” được dùng theo nghĩa gốc hay
nghĩa chuyển.
- Ngoài những hạn chế trên, học sinh còn hay lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa
(nghĩa gốc – nghĩa chuyển) với từ đồng âm.
5



II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1. Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình và phát huy những
kiến thức , kĩ năng về từ và câu của học sinh.
Với cấu trúc theo vịng trịn đồng tâm, chương trình phân mơn Luyện từ
và câu lớp 5 là sự tiếp nối nội dung phân môn Luyện từ và câu các lớp trước và
từ đó có những u cầu phù hợp với trình độ của học sinh.
Ở lớp 4 các em cũng đã được học về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ
đặc điểm. Lên lớp 5 các em tiếp tục học những kiến thức này nhưng cụ thể hơn.
Đó là các em được học về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa.
Ví dụ : - Em bé chạy rất nhanh.
- Chiếc đồng hồ chạy đúng giờ.
- Tàu chạy băng băng trên đường ray.
Ở lớp 4 các em đã học từ chạy là động từ. Nhưng lên lớp 5 từ chạy vẫn là
động từ nhưng thuộc từ nhiều nghĩa, từ chạy ở câu 1 là nghĩa gốc, từ chạy ở câu
2, 3 là nghĩa chuyển.
Như vậy để dạy học tốt những nội dung chương trình luyện từ và câu lớp
5, các thầy cô phải nắm được những kiến thức mà các em đã được học ở những
lớp trước. Từ đó, trên nền tảng kiến thức đã có sẵn giáo viên biết cách ơn tập lại
và truyền thụ kiến thức mới sao cho phù hợp, nhẹ nhàng giúp học sinh chủ động
nắm được kiến thức mới. Nếu như người giáo viên không nắm được những kiến
thức các em đã học, không phát huy những kiến thức kĩ năng đó thì giáo viên sẽ
truyền đạt kiến thức đó như một kiến thức mới lạ với các em, nhiều khi giáo
viên sẽ bị mất thời gian dạy lại, đôi khi áp đặt cho học sinh.
Bên cạnh đó, người giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình của
phân mơn. Điều đó giúp cho giáo viên có cái nhìn khái qt nội dung mình phải
truyền đạt. Từ đó xây dựng kế hoạch dạy học, xác định đối tượng học sinh, mức
độ tiếp thu của học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp. Đồng thời nắm
được chương trình, nội dung, kiến thức, kĩ năng cần đạt được đối với học sinh
6



giúp giáo viên dễ tổng hợp kiến thức để truyền đạt và ôn tập một cách khoa học,
tập trung, hợp lí mà khơng bị dàn trải.
2. Giải pháp 2: Lập kế hoạch cho tiết dạy
Đây là một khâu rất quan trọng . Giáo viên có đầu tư suy nghĩ, nắm vững
mục tiêu, yêu cầu bài dạy, nội dung cần truyền đạt trong một bài thì xác định
được phương pháp phù hợp, dự đoán được những băn khoăn của học sinh để chủ
động có biện pháp tháo gỡ. Muốn lập được kế hoạch tốt địi hỏi người giáo viên
phải có trình độ chuyên môn vững vàng.
Nếu không lập được kế hoạch và lập kế hoạch khơng tốt thì giáo viên
khơng bao qt được lớp, khơng làm chủ được kiến thức, khó định hướng cho
học sinh. Cho nên đòi hỏi người giáo viên phải lập được kế hoạch trước khi lên
lớp, tức là phải chuẩn bị nội dung, phương pháp, dự kiến các hoạt động sẽ tổ
chức, các điều kiện cần chuẩn bị. Thậm chí dự kiến cả các tình huống có thể xảy
ra, phương án giải quyết các tình huống đó. Chẳng hạn như : Trong tiết dạy về
từ nhiều nghĩa, học sinh có thể hỏi cơ giáo về nghĩa của các từ khơng có trong
nội dung bài dạy. Tất cả đều địi hỏi người giáo viên phải có một vốn kiến thức
sâu rộng, phải hiểu bản chất vấn đề để lập kế hoạch tốt và phù hợp với tiết dạy
mà mình sẽ thực hiện sau đó. Tuyệt đối khơng được lập kế hoạch theo kiểu hình
thức, chống đối, khơng được lập kế hoạch sau khi thực hiện tiết dạy.
3. Giải pháp 3: Phải xây dựng được hệ thống câu hỏi hợp lí
Phương pháp dạy truyền thống là phương pháp dạy áp đặt, học sinh thụ
động nắm kiến thức mới. Đổi mới phương pháp dạy học tức là áp dụng những
phương pháp giúp cho các em chủ động tích cực nắm được kiến thức. Hệ thống
câu hỏi cũng là một yếu tố quan trọng góp phần đổi mới phương pháp. Nếu như
khơng có hệ thống câu hỏi dẫn dắt để học sinh tự chiếm lĩnh những tri thức thì
người giáo viên lại phải quay về với cách truyền thống áp đặt thầy đọc trò ghi.
Như vậy, đối với nội dung từng bài giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu
hỏi hợp lí phù hợp với nội dung yêu cầu của bài.

Có các dạng câu hỏi như :

7


Khi tiến hành dạy tôi đưa ra câu hỏi nhận diện cho học sinh trả lời. Trong
phần nhận xét giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho học sinh : Trái nghĩa với từ
sống là từ nào? Học sinh tìm được từ trái nghĩa với từ sống là từ chết. Từ đó học
sinh hình thành được khái niệm từ trái nghĩa. Đối với học sinh có học lực yếu thì
cần có câu hỏi gợi mở giúp các em dễ dàng hơn trong việc hình thành khái niệm.
Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi: Đen – trắng là từ gì? Dựa vào kiến thức đã học
ở lớp dưới học sinh nhận diện đó là từ trái nghĩa và từ đó đi đến khái niệm.
Câu hỏi mang tính phản hồi( thu thập những thông tin ngược từ học sinh )
Để nắm bắt kiến thức các em vừa chiếm lĩnh được như thế nào giáo viên có thể
đưa ra câu hỏi: Từ Hịa bình – chiến tranh, thương u – ghét bỏ, đồn kết –
chia rẽ, giữ gìn – phá hoại có phải là từ trái nghĩa khơng? Vì sao?

Học sinh

phải nắm tốt nghĩa từ thì mới trả lời được câu hỏi. Từ câu trả lời giáo viên thu
được thông tin phản hồi của học sinh về khái niệm từ trái nghĩa.
Với câu hỏi mang tính suy luận tổng hợp giáo viên có thể định hướng đặt
câu hỏi cho học sinh suy nghĩ trả lời: Từ cao – thấp, trái – phải, ngày – đêm là
những từ có nghĩa trái ngược nhau. Vậy từ trái nghĩa là những từ như thế nào ?
Dựa vào câu hỏi của giáo viên học sinh sẽ suy luận và đưa ra được khái niệm
của từ trái nghĩa.
Và đặc biệt, khi dạy những bài cung cấp kiến thức mới thì giáo viên phải
có những câu hỏi làm cầu nối giữa những gì học sinh vừa thu được qua phân
tích ngữ liệu với nội dung kiến thức mới trong phần ghi nhớ, câu hỏi này chính
là tiền đề giúp học sinh rút ra phần ghi nhớ một cách lơgíc, khoa học hơn. Nắm

được nghĩa từ giúp học sinh làm tốt các bài tập về từ.
Để học sinh tự chiếm lĩnh tri thức ( tự rút ra phần ghi nhớ trong bài học )
tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi và tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh
như sau:
Với yêu cầu 1 phần nhận xét tôi tổ chức cho các em làm việc cá nhân, gọi
một số em đọc bài trước lớp, cho học sinh thảo luận để tìm hiểu bài. Sau đó,
giáo viên chốt và đi đến ghi nhớ. Với việc thêm các câu hỏi cùng với hệ thống
bài tập trong sách giáo khoa rất nhiều học sinh đều được hoạt động, bộc lộ mình
8


qua thảo luận nhóm, qua trả lời câu hỏi của cô giáo, qua nhận xét câu trả lời của
các bạn để tự rút ra được kiến thức mới của bài. Đó cũng là cái đích mong muốn
của việc đổi mới phương pháp dạy học.
4. Giải pháp 4: Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng
một tiết dạy
Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại,
làm bài trắc nghiệm, tổ chức trò chơi, đố vui gây hứng thú cho học sinh tránh
những đơn điệu nhàm chán.
Ví dụ : Khi dạy bài: Từ đồng nghĩa( trang 7 SGK Tiếng Việt 5 tập 1),
phần Luyện tập có bài tập 2 : Tìm những từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây : đẹp,
to lớn, học tập.
Tơi tổ chức cho các em chơi trị chơi để khắc sâu kiến thức về từ đồng
nghĩa . Có thể vận dụng trị chơi : Xì điện
Học sinh đưa ra từ và xì điện 1 bạn tìm từ đồng nghĩa, nếu tìm đúng thì
học sinh đó có quyền được chỉ định một bạn khác. Tìm các từ đồng nghĩa tiếp
theo có thể có thể thay đổi hình thức tiếp sức. Cứ như thế dựa vào vốn hiểu biết
của mình học sinh tìm được rất nhiều từ đồng nghĩa với từ gốc ban đầu.
Ngồi mục đích là như trên thì trị chơi này giúp cho các em cùng hợp tác
làm việc( trong cùng một đội), hứng thú thi đua nhau học, khơng khí tiết học

cũng sơi nổi lên , đồng thời giúp cho các em vui mà học.
5. Giải pháp 5: Phát huy tính tích cực của học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực của học sinh.Vì
vậy, giáo viên phải nắm được mức độ nhận thức của học sinh, để có những câu
hỏi, bài tập, những phương pháp dạy học thích hợp với từng đối tượng, để trong
lớp học sinh nào cũng được chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Ví dụ : 1. Xác định lời giải nghĩa thích hợp cho mỗi từ chạy sau :
- Bé chạy lon ton trên sân.
- Tàu chạy băng băng trên đường ray.
- Đồng hồ chạy đúng giờ.
9


- Dân làng khẩn trương chạy lũ.
2. Các nghĩa của từ chạy có nét nghĩa gì chung ?
Với 2 u cầu này giáo viên phải biết được đối với yêu cầu 1 là phù hợp
với mọi đối tượng nên để các em tự làm bài cá nhân. Với yêu cầu 2 nhiều học
sinh trung bình , yếu là khó. Giáo viên phải xây dựng kế hoạch để truyền đạt
kiến thức này để tất cả các đối tượng đều nắm bắt được. Theo tôi, đối với yêu
cầu 1 của bài tôi cho học sinh thảo luận trong nhóm đơi để các em hỗ trợ lẫn
nhau tìm ra được đáp án cho yêu cầu 2, đồng thời các em đều được bộc lộ hiểu
biết trong nhóm với bạn điều đó khiến các em tự tin hơn nếu như để các em nói
ra ý kiến về một vấn đề khó trước lớp.
Để phát huy tính tích cực của học sinh thì giáo viên tránh những câu hỏi
có, khơng ; đúng, sai. Nên tập trung vào các câu hỏi mang tính gợi mở, câu hỏi
nhận diện, câu hỏi mang tính phản hồi, câu hỏi suy luận tổng hợp. Tránh phương
pháp thầy đọc trò ghi, thầy nói trị làm thì mới phát huy được tính tích cực trong
dạy học.
Cho nên , dù đổi mới phương pháp đến đâu chăng nữa mà học sinh không
được hoạt động tích cực tức là giáo viên chưa đổi mới thành cơng.

6. Giải pháp 6: Sử dụng một cách có hiệu quả đồ dùng trực quan trong
các tiết dạy Luyện từ và câu.
Đối với học sinh tiểu học, thiết bị dạy học đặc biệt quan trọng vì nó
giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh
nắm được nghĩa từ, nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kỹ
năng kỹ xảo cho các em. Chẳng hạn khi học sinh phân biệt nghĩa của những
từ đồng âm: cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng giáo viên có thể đưa
ra hình ảnh trực quan về cánh đồng - tượng đồng trên tranh và tờ tiền một
nghìn đồng cho học sinh quan sát. Từ quan sát trực quan học sinh hiểu được
sự khác nhau của các cụm từ đó và phân biệt được nghĩa của các từ.
Thiết bị dạy học là phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và phân mơn Luyện từ và câu nói
riêng.
10


7. Giải pháp 7: Thiết kế bài tập trắc nghiệm để củng cố kiến thức cho
học sinh
Bài tập trắc nghiệm là công cụ để khảo sát mức độ hiểu bài của học sinh
một cách nhanh nhất. Giáo viên có thể thiết kế một số dạng bài trắc nghiệm như
sau:
- Dạng bài tập: Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng: Từ trái
nghĩa với từ “to lớn” là:
A. Rộng rãi

B. Mênh mông

C. Chật hẹp

D. Bao la


- Dạng bài tập: Nối các từ ở cột A với phần giải nghĩa thích hợp ở cột B
cho đúng nghĩa của từ.
- Dạng bài tập: Điền đúng, sai
Ví dụ: Dịng nào dưới đây là các từ đồng nghĩa?. Đúng ghi Đ, sai ghi S
vào ô trống:
Xanh ngắt, xanh lơ, xanh non, xanh xanh
Xanh thẳm, xanh lục, vàng vọt, xanh dương
Xanh biếc, xanh mướt, đỏ lừ, xanh xao
Xanh rờn, xanh rì, xanh mát, trắng toát
8. Giải pháp 8: Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân biệt.
a) Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó
dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, chúng tơi đã hướng dẫn học sinh thông
qua cách nhận biết trực quan như sau:
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác
quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện
tượng hoặc hành động, tính chất mà các em khơng thể cảm nhận bằng giác quan
thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
b) Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ thể hơn,
nghĩa nào trừu tượng hơn, thì có thể hướng dẫn học sinh dựa vào các dấu hiệu
sau:
11


- Nếu nghĩa của từ nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật), hoặc
tính chất, hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Nếu nghĩa của từ nói đến các đồ vật có hình dáng, tính chất, hành động
gần giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.

Ví dụ : a) Bữa tối, nhà em thường ăn cơm muộn.
b)Xe này ăn xăng quá!
c) Mẹ tôi là người làm công ăn lương.
- Ăn: chỉ hoạt động từ đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong câu
a, là hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) Từ “ăn” trong câu a, được dùng theo
nghĩa gốc.
- Ăn: chỉ hoạt động tiêu thụ năng lượng để máy móc hoạt động. Hành
động “ăn” trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn”
trong câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
- Hành động ăn trong câu c, là hành động trừu tượng (không dùng miệng).
Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo nghĩa chuyển.
Từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó được
dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những từ
dùng theo nghĩa chuyển.
Để nhận diện được một từ nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu rộng
từ nghĩa gốc của từ đó hay khơng. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những
nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ. Nếu từ đó có nét giống so với nghĩa ban
đầu thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. Nếu từ đó có nghĩa hồn tồn khác
xa với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ đồng âm.
III . BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để mang lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh làm tốt các bài về từ
của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 người giáo viên cần phải:
- Xác định đúng mục đích, yêu cầu của bài dạy. Tham khảo thêm những
tài liệu có liên quan đến việc dạy Luyện từ và câu.

12


- Nắm vững những nội dung cần dạy học cho học sinh, nghiên cứu xây
dựng nội dung dạy học một cách hợp lý, khoa học với mục đích giúp học sinh

giải nghĩa từ, mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ và sử dụng có hiệu quả vốn từ.
- Giáo viên cần tìm tịi, học hỏi để vốn từ của bản thân thật phong phú và
phải có khả năng sử dụng từ ngữ...
- Lựa chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học, các
hình thức củng cố luyện tập tạo sự hứng thú say mê học Luyện từ và câu của học
sinh.
Qua nghiên cứu việc hướng dẫn học sinh học tốt môn Luyện từ và câu,
tôi thấy đây là một vấn đề rất cần thiết đối với việc giúp học sinh học tốt mơn
Tiếng Việt nói chung. Học sinh có học tốt mơn Tiếng Việt mới có đỉều kiện
thuận lợi để tiếp thu tất cả các mơn học khác như: Tốn, ngoại ngữ, tự nhiên xã
hội… Nghĩa của từ là một nội dung quan trọng, sử dụng đúng nghĩa từ thì mới
biết cách hành văn, giao tiếp tốt.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, học sinh đã xác định được nghĩa
từ, kết quả tiếp thu và chất lượng học tập của học sinh có những tiến bộ như sau:
- Học sinh phân biệt được từ một cách dễ dàng nhờ dựa vào dấu hiệu cụ
thể và trừu tượng của các từ mà học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa,
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong nhiều văn cảnh khác nhau.
- Nhờ hiểu nghĩa của từ nên học sinh đặt câu hỏi đúng, phù hợp với ý
nghĩa của mỗi từ .
- Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của nghĩa bóng tu từ, giúp các em phát
hiện nhanh, đúng các tín hiệu nghệ thuật nhân hố, ẩn dụ, hốn dụ thể hiện trong
văn cảnh, góp phần nâng cao khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của bài văn, bài
thơ. Đồng thời giúp các em biết sử dụng đúng các nghĩa bóng tu từ trong khi thể
hiện bài văn viết của mình một cách cụ thể sinh động và giàu hình ảnh.
- Khi áp dụng sáng kiến trong những bài kiểm tra về từ, về câu thì 100%
học sinh lớp tôi làm đúng.
13



Kết quả được thể hiện cụ thể trong bảng số liệu sau:
Năm học 2014 – 2015 tôi bắt đầu nhận lớp 5. Khi chưa áp dụng sáng kiến
tôi chỉ dạy bám sát mục tiêu của bài học, kết quả đạt được khi khảo sát 35 học
sinh lớp 5A như sau:
Mức 1

Mức 2

Mức 3

7 HS

15 HS

13 HS

20%

43%

37%

Năm học 2016 – 2017 khi áp dụng sáng kiến tôi thấy chất lượng học mơn
Tiếng Việt đã có những tiến bộ rõ rệt, khảo sát trên 35 học sinh lớp 5A cụ thể
như sau:
Mức 1

Mức 2

Mức 3


12 HS

17 HS

6 HS

34%

49%

17%

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. LỜI KẾT
Trên đây là các biện pháp giúp cho học sinh phân biệt nghĩa của từ mà tôi
đã rút ra từ những kinh nghiệm thực tế qua 3 năm giảng dạy và áp dụng mang lại
hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng mơn học Tiếng Việt của học
sinh ở lớp tơi.
Trong q trình giảng dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản
thân tơi cũng đã cố gắng nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi và lựa chọn sao cho học
sinh nắm kiến thức mới và vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống
một cách hiệu quả.
Đây là một vài kinh nghiệm của bản thân khi dạy Luyện từ và câu ở lớp
5A . Chính vì thế nên địi hỏi giáo viên cần giành nhiều thời gian vào dạy học
14


nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong từng tiết học. Rất mong được sự
đóng góp của đồng nghiệp để tôi rút kinh nghiệm vào dạy học đạt kết quả cao

hơn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng cao chất lượng
nghiệp vụ của giáo viên.
II. KIẾN NGHỊ
Để giúp học sinh hứng thú hơn, học tốt hơn trong bộ mơn Tiếng Việt nói
chung và phần Từ ngữ nói riêng, tơi đưa ra ý kiến đề xuất sau:
- Nhà trường có kế hoạch thành lập Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt để tạo
cơ hội cho các em giao tiếp, củng cố và mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ để sử
dụng có hiệu quả trong học tập, tạo sự hứng thú say mê học, hiểu tiếng mẹ đẻ.
- Tổ chuyên môn nên mạnh dạn đề xuất ý kiến điều chỉnh một số nội
dung chưa hợp lý và bổ sung những kiến thức làm nội dung phong phú hơn, chất
lượng hơn.
- Giáo viên luôn có ý thức tơn trọng nhân cách và ý kiến của học sinh
trong giờ học. Vận dụng hợp lý các hình thức khen thưởng kịp thời, nhằm
khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong học tập, kích thích
lịng ham học và ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập của học sinh.

Kí duyệt của BGH nhà trường

Người thực hiện

Phạm Thị Thu Trang

15


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 tập 1
2/ Sách giáo viên Tiếng Việt 5 tập 1
3/ Tiếng Việt nâng cao 5
4/ Mấy vấn đề về lý luận và phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt trong

nhà trường (Nguyễn Đức Tôn)
5/ Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học (Lê Hữu Thỉnh
– Trần Mạnh Hưởng)

16



×