Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

một số biện pháp khắc phục lỗi thường gặp trong phân môn luyện từ và câu ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.56 KB, 23 trang )

SKKN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4;5
KHẮC PHỤC CÁC LỖI KHI LÀM BÀI TẬP
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU.
*************
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu
cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ
thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục Tiểu học có nhiệm vụ “ Chuẩn bị những
kiến thức, kĩ năng, thái độ để học sinh tiếp tục
học lên”.
Với vị trí, vai trò và nhiệm vụ quan trọng của
mình, trong những năm gần đây ngành Giáo dục
Tiểu học đã từng bước đổi mới nội dung, phương
pháp dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
1
SKKN
Qua thực tế dạy học ta thấy, việc dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học đang đặt ra nhiều vấn đề cần
giải quyết. Trong đó phân môn “ Luyện từ và câu”
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện
mục tiêu dạy học sinh nghe – nói - đọc – viết, thực
hiện mục tiêu số một của việc học Tiếng Việt trong
trường Tiểu học. Trong phân môn Luyện từ và câu,


yếu tố từ ngữ, ngữ pháp chi phối việc sử dụng các
đơn vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói, làm cho ngôn
ngữ thực hiện được chức năng là công cụ giao tiếp
trong đời sống xã hội.Từ ngữ, ngữ pháp cũng là
yếu tố quan trọng để phát triển trí tuệ, phẩm chất
đạo đức tốt đẹp của người học sinh.
Như chúng ta đã biết, ngay từ đầu đến
trường học sinh đã được làm quen với từ ngữ, ngữ
pháp. Đặc biệt ở Tiểu học từ ngữ, ngữ pháp được
dạy trong tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt,
ở đâu có dạy tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó
có dạy từ ngữ, ngữ pháp.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
2
SKKN
Có thể nói phân môn Luyện từ và câu là
phân môn thực hành: Thông qua thực hành để hình
thành khái niệm, quy tắc và cũng thông qua thực
hành mà vận dụng, củng cố và hoàn thiện các khái
niệm, các quy tắc. Trong tất cả các tiết học, các bài
học đều có phần luyện tập thực hành, luyện tập ở
tiết học khái niệm mới, luyện tập ở tiết ôn tập và có
những tiết chỉ có luyện tập. Bởi vậy, để dạy học
phân môn Luyện từ và câu đạt hiệu quả cao và
người giáo viên cần nắm vững những lỗi từ ngữ,
ngữ pháp mà các em gặp phải để có biện pháp
giúp đỡ các em.
B/ NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG:

Qua thực tế giảng dạy phân môn Luyện
từ và câu ở lớp 4- 5 tôi thấy học sinh vướng mắc
một số lỗi trong quá trình nắm các khái niệm từ
ngữ, ngữ pháp. Các sai sót của học sinh đo trên
các lỗi nhận diện, phân loại, phân tích các đơn vị từ
ngữ, ngữ pháp.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
3
SKKN
1. Khái niệm từ và kĩ năng nhận diện từ, phân
cách các đơn vị từ trong câu:
- Trong Tiếng Việt, từ không mang một hình
thức nào đặc biệt, khái niệm về từ chưa thật hiển
minh, nghĩa là nếu dựa vào định nghĩa khái niệm từ
“ Từ bao giờ cũng có ý nghĩa và dùng để đặt
câu; có từ 2 tiếng ,có từ 3 tiếng… cũng có từ
chỉ do một tiếng có nghĩa tạo thành ” thì không
thể giải thích triệt để mọi trường hợp .
- Có nhiều trường hợp, cương vị từ không rõ
ràng đối với học sinh tiểu học. Ví dụ bài tập yêu
cầu xác định từ đơn, từ ghép trong câu. Có những
tổ hợp như: hoa ngô, bắp ngô, lá ngô…, chuồn
chuồn nước, tung cánh, lướt nhanh, mặt hồ, trải
rộng, lặng sóng…là những tổ hợp mà việc ranh giới
không dễ dàng.
2. Khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy và kĩ năng
nhận diện, phân loại từ theo cấu tạo.
Khi nhận diện từ đơn, từ ghép, từ láy học sinh
thường có những nhầm lẫn sau:

NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
4
SKKN
- Trường hợp ghép ngẫu kết như: bồ kết, tắc
kè, chẻo bẻo, ểnh ương, apatít… có em cho là từ
ghép, có em cho là từ đơn đa âm; kiểu láy như
chuồn chuồn, chôm chôm,…có những em cho
không phải là từ láy.
- Trường hợp các từ có các tiếng vừa có quan
hệ về âm, vừa có quan hệ về nghĩa như: mặt mũi,
đi đứng, buôn bán, tươi tốt, thúng mủng…nhiều em
cho là từ láy. Các từ có một yếu tố mất nghĩa như:
đất đai, chim chóc, khách khứa…lại được các em
xếp vào từ ghép.
- Các từ Hán- Việt như: chuyên chính, cần
mẫn,…được các em cho là từ láy, trong khi các từ
láy vắng khuyết phụ âm đầu như: ồn ào, ầm ĩ,…
hoặc các từ láy có phụ âm đầu được viết bằng các
con chữ khác nhau như: cong queo, kính coong, lại
không được xem là từ láy.
3. Kĩ năng nhận diện, phân tích các thành phần câu.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
5
SKKN
- Học sinh thường hay mắc lỗi khi vạch ranh
giới giữa chủ ngữ, vị ngữ trong câu; đặc biệt là các
dạng câu như:
+ Tiếng suối chảy róc rách.

+ Những con voi về đích trước tiên huơ vòi
chào khán giả.
- Một số em thường nhầm định ngữ với vị
ngữ. Ví dụ trong câu: “ Những con chim bông
biển trong suốt như thủy tinh lăn tròn trên
những con sóng”.
Các em cho rằng “ trong suốt như thủy tinh” là vị
ngữ.
Hoặc trong câu: “ Các anh chiến sĩ ngồi trong
khoang lái đang sẵn sàng đợi lệnh”. Thì các em
cho rằng “ ngồi trong khoang lái” là vị ngữ.
Hoặc trong các cụm danh từ:
+ Những cánh đồng thơm mát…
+ Những ngả đường bát ngát…
+ Những dòng sông đỏ nặng phù sa…
+ Những ngôi nhà mới được xây dựng…
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
6
SKKN
Một số em lại cho rằng các từ ngữ : “ Thơm mát”,
“ bát ngát”, “ đỏ nặng phù sa”, “ mới được xây
dựng” là vị ngữ.
II. CÁCH KHẮC PHỤC.
Để dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học
được tốt, chúng ta cần nghiên cứu các lỗi từ ngữ,
ngữ pháp của học sinh; xác định được những khó
khăn mà các em mắc phải khi nắm các khái niệm
và sử dụng các đơn vị từ ngữ, ngữ pháp được học
trong chương trình Tiểu học. Những lỗi khi nhận

diện , khi sử dụng các đơn vị này và nguyên nhân
mắc lỗi. Từ đó không chỉ tìm cách sửa lỗi mà quan
trọng hơn là đề xuất những việc cần điều chỉnh về
nội dung, phương pháp dạy học, đề xuất những
biện pháp phòng ngừa những lỗi này.
Sau đây là một số cách khắc phục các lỗi đã nêu ở
trên mà tôi đã đúc rút được.
1.Kĩ năng nhận diện từ, phân cách các đơn vị
trong câu.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
7
SKKN
- Muốn xác định, nhận biết được từ, nói
cách khác muốn vạch ranh giới
giữa các từ trong văn bản ta phải dựa vào định
nghĩa về từ trong sách giáo khoa: “ Từ có nghĩa
và dùng để đặt câu” . hoặc nói cụ thể hơn: “ từ là
tiếng có nghĩa, dùng để đặt câu”. Từ đó ta đối
chiếu với các tiếng trong một chuổi lời nói ( văn bản
), xem tiếng ( hoặc tập hợp các tiếng ) nào mang
đặc trưng cơ bản của từ thì khẳng định đó là từ, có
thể dùng dấu sổ dọc ( / ) để vạch ranh giới giữa
các từ trong câu. Khi vạch ranh giới giữa các từ
trong văn bản, ta thường gặp những tổ hợp tiềm
tàng hai cách hiểu: là một từ ( từ ghép ) hoặc kết
hợp gồm hai từ đơn; như ví dụ đã nêu ở hai phần
trước.
- Muốn biết được một tổ hợp nào đó là một
từ ghép hay kết hợp hai từ đơn, ta lần lượt xem xét

hai tổ hợp ấy về hai phương diện: kết cấu và nghĩa
+ Cụ thể về mặt kết cấu, nếu quan hệ giữa
các yếu tố mà lõng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
8
SKKN
xen các yếu tố khác từ bên ngoài vào mà nghĩa
của tổ hợp về cơ bản không thay đổi…thì tổ hợp ấy
là hai từ đơn . Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa
các yếu tố tổ hợp chặt chẽ, khó có thể tách rời, tạo
thành một khối vững chắc, mang tính cố định, ổn
định…thì tổ hợp ấy là một từ ghép.
Ví dụ : Trong các tổ hợp đã đề cập ở trên,
các tổ hợp: chuồn chuồn nước, mặt hồ, lặng sóng,
…được coi là có quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố
tạo thành; còn các tổ hợp : tung cánh, lướt nhanh,
trải rộng,…mối quan hệ giữa các yếu tố tạo thành ít
nhiều lỏng lẻo, dễ tách rời . Như vậy, các tổ hợp
thứ nhất mang nhiều đặc trưng của từ ghép( mỗi tổ
hợp là một từ ghép) , còn các tổ hợp thứ hai mang
nhiều đặc trưng của cụm từ tự do (mỗi tổ hợp gồm
hai từ đơn ).
+ Về mặt nghĩa, nếu tổ hợp đó gọi tên, định
danh một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan, biểu đạt một khái niệm ( sự vật, hiện tượng )
thì tổ hợp ấy là một từ ghép.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
9

SKKN
Ngược lại nếu tổ hợp ấy gọi tên , định danh hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng, biểu đạt khái niệm ( về
sự vật, hiện tượng ) thì tổ hợp ấy là sự kết hợp hai
hay nhiều từ đơn.
Ví dụ: Về mặt nghĩa, các tổ hợp thuộc nhóm
thứ nhất ( chuồn chuồn nước…) mang nhiều đặc
trưng của từ; còn các tổ hợp thuộc nhóm thứ hai
mang nhiều đặc trưng của kết hợp hai từ đơn.
Tóm lại đối với tổ hợp có tính “ lưỡng khả” (
hai khả năng, hai cách hiểu ) như đã nói ở trên nếu
ta xử lý một cách thỏa đáng, có cơ sở khoa học thì
việc xác định, nhận biết từ, cũng chính là việc vạch
ranh giới từ trong văn bản sẽ diễn ra một cách
thuận lợi, dễ dàng và kết quả đạt được sẽ chính
xác.
2. Khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy và kĩ năng
nhận diện , phân loại từ theo cấu tạo.
Đối với những lỗi này khi dạy giáo viên cần
làm rõ cho hoc sinh nắm được một cách chính xác
về khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy. Tuy nhiên giáo
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
10
SKKN
viên cần lưu ý hai điều : thứ nhất nội dung của các
khái niệm trên ( từ đơn, từ ghép, từ láy ) gắn với
những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên
cứu, cho nên cách giới thiệu nội dung khái niệm ,
cách định nghĩa khái niệm giữa các tác giả ít nhiều

khác nhau ; thứ hai các khái niệm (đồng thời là các
đơn vị kiến thức ) trên ( từ đơn, từ ghép, từ láy)
được bố trí dạy ở cả Tiểu học và THCS, có tính
chất đồng tâm. Vì vậy ở Tiểu học ta chỉ nên nêu nội
dung của từng khái niệm trên ở mức độ nhất định,
có tính chất sơ giản, ban đầu, phù hợp với đối
tượng học sinh Tiểu học.
* Từ đơn.
- Theo SGK Tiếng Việt Tiểu học : “ từ do
một tiếng có nghĩa tạo thành” . Như vậy theo
quan điểm này từ chỉ gồm một tiếng, từ nhiều tiếng
không thuộc phạm vi từ đơn. Trong định nghĩa này
cần chú ý khái niệm “ nghĩa” . Nghĩa của từ đơn
gồm nghĩa từ vựng, nghĩa ngữ pháp, nghiã tình
thái.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
11
SKKN
- Theo giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học
ở trường Sư phạm thì giới thiệu: “ từ đơn là
những từ do một hình vị tạo nên. Đa số từ đơn
Tiếng Việt là từ đơn âm ( ví dụ: sông, núi, đi,…).
Từ đơn đa âm có thể là từ thuần Việt ( ví
dụ: bồ kết, chèo bẻo, tắc kè,…), cũng có thể là
từ vay mượn ( ví dụ: mì chính, cà phê, xà
phòng,…)”.
* Từ ghép.
- Theo SGK Tiếng Việt Tiểu học: “ từ ghép là
từ do hai, ba hoặc bốn tiếng ghép lại mà có

nghĩa”. Do không nói rõ các tiếng trong từ ghép là
tiếng có nghĩa và mối quan hệ giữa các tiếng trong
từ ghép là quan hệ về nghĩa, cho nên định nghĩa
trên của SGK có phần chưa thỏa đáng; bởi vì nó
ứng với tất cả các từ đa âm trong Tiếng Việt.
Như vậy đối chiếu với định nghĩa về từ đơn
Tiếng Việt trong SGK Tiểu học, có thể khẳng định
tổ hợp các từ : bồ kết, tắc kè, chèo bẻo, ểnh ương,
apatít,…không phải là từ đơn. Nhưng các từ này
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
12
SKKN
cũng không phải là từ ghép bình thường, vì các
tiếng trong từ không có nghĩa và quan hệ giữa các
tiếng trong mỗi từ không phải là quan hệ về nghĩa.
Những từ này cũng không phải là từ láy, bởi vì
quan hệ giữa các tiếng trong mỗi từ không phải là
quan hệ về âm. Vậy khi dạy giáo viên có thể nói với
học sinh như sau: các từ này không phải là từ đơn,
không phải là từ láy mà là từ ghép – một loại ghép
đặc biệt.
* Từ láy.
- Từ láy là từ do hai hoặc hơn hai tiếng có
quan hệ với nhau về âm thanh tạo thành.Trong từ
láy thường có một tiếng có nghĩa và một tiếng láy
lại.
- Theo SGK Tiểu học: “ Từ láy là từ do hai
hay nhiều tiếng láy lại tạo thành”. Định nghĩa
này chưa nói rõ cơ chế tạo từ trong từ láy là cơ chế

“ láy lại toàn bộ hoặc bộ phận tiếng gốc”. Bên
cạnh đó, nếu chỉ nhấn mạnh dấu hiệu
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
13
SKKN
“ hai hay nhiều tiếng láy lại tạo thành” thì các từ
ghép như: mặt mũi, đi đứng, buôn bán, tươi tốt,
nhỏ nhẹ ,…cũng có đặc trưng ấy.
Chính vì vậy học sinh mới mắc vào các lỗi
nêu ở trên, cụ thể:
1- Các từ : mặt mũi, đi đứng, buôn bán, … có em
cho là từ láy.
2- Các từ có một yếu tố mất nghĩa như: đất đai,
chim chóc, cây cối, bạn bè,…lại xếp vào từ ghép.
3- Các từ : ồn ào, ầm ĩ, óc ách, inh ỏi,…không
được xem là từ láy.
Vậy giáo viên cần giúp đỡ học sinh thấy rõ, các
tiếng trong từ thuộc nhóm (1) đều có nghĩa từ
vựng. Quan hệ giữa các tiếng trong từ là quan hệ
về nghĩa, cho nên các từ đó là từ ghép. Các từ
ghép này có hình thức ngẫu nhiên giống từ láy.
Những đặc điểm về hình thức ngữ âm của các từ
này không liên quan gì đến bản chất cấu tạo từ, giá
trị cấu tạo từ của chúng.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
14
SKKN
Còn những từ ở nhóm thứ (2) lâu nay tồn tại

những cách hiểu khác nhau về bản chất cấu tạo từ
của các từ này. Có người cho rằng, nếu nhìn nhận
các từ này dưới góc độ “ lịch đại” và nhấn mạnh
những đặc trưng ngữ nghĩa của chúng thì có thể
coi đây là những từ ghép. Nhưng dưới góc độ “
đồng đại” và nhấn mạnh mối quan hệ về ngữ âm
giữa hai tiếng trong từ, ta có thể coi những từ này
là từ láy có nghĩa khái quát.
Mặc dù có những sự không đồng nhất đó nhưng
khi dạy giáo viên có thể giải thích cho học sinh thấy
đây là những từ láy có nghĩa khái quát.
Đối với những trường hợp ở nhóm (3), thoạt
nhìn và đối chiếu với định nghĩa về từ láy trong
SGK Tiếng Việt Tiểu học thì nghĩ rằng không phải
từ láy. Nhưng quan sát kĩ ta thấy các từ trên đều
giống nhau về hình thức ngữ âm; ở các tiếng trong
từng từ đều vắng khuyết phụ âm đầu. Bên cạnh đó,
đặc trưng ngữ nghĩa của những từ này cũng gần
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
15
SKKN
giống với đặc trưng ngữ nghĩa của từ láy. Vậy khi
dạy giáo viên có thể giải thích cho học sinh: đây là
các từ láy, nhưng là từ láy đặc biệt (đặc biệt ở chỗ:
nó không giống các từ láy bình thường về hình
thức ngữ âm).
3. Kĩ năng nhận diện, phân tích các thành
phần câu.
* Để giúp học sinh xác định được chủ ngữ, vị

ngữ trong câu, trước hết cần giúp các em hiểu: chủ
ngữ, vị ngữ gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ - vị.
Trong mối quan hệ này, chủ ngữ nêu đối tượng
thông báo, còn vị ngữ chứa nội dung thông báo về
đối tượng ấy. Chủ ngữ trả lời câu hỏi “ Ai ?”, “ Cái
gì ?”,…Vị ngữ trả lời câu hỏi “ Làm gì?”, “ Như
thế nào?”. Ngoài quan hệ ngữ pháp, cần hiểu về
quan hệ ý nghĩa giữa Chủ ngữ và Vị ngữ như:
- Chủ ngữ gọi tên sự vật ( người, vật, việc)
còn vị ngữ miêu tả hoạt động, trạng thái, đặc điểm,
tính chất của sự vật đó.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
16
SKKN
- Chủ ngữ nêu đối tượng, vị ngữ biểu hiện
điều nhận định về đối tượng đó.
Vấn đề đặt ra ở đây là bằng cách nào để vạch ra
được ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ. Nói cách
khác, bằng cách nào xác định được điểm kết thúc
của chủ ngữ và điểm bắt đầu của vị ngữ, nhất là
đối với những trường hợp mà các ranh giới đó
không rõ ràng.
Đi vào từng trường hợp cụ thể, ta sẽ hướng dẫn
học sinh dựa vào những nhận thức khái quát trên
để xác định.
Ví dụ: + Trường hợp thứ nhất: “ Tiếng suối
chảy róc rách”
Học sinh thường có hai cách hiểu sau đây khi
vạch ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ của câu:

1-Tiếng suối / chảy róc rách.
2-Tiếng suối chảy / róc rách.
Dựa vào quan hệ lôgic giữa chủ ngữ và
vị ngữ, ta nhận thấy trong cách hiểu (1) “ Tiếng
suối” là âm thanh thì không thể “chảy” được . Vì
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
17
SKKN
vậy cách hiểu này là không hợp lí. Do đó cách hiểu
(2) cho “ Tiếng suối chảy” là chủ ngữ; “róc rách”
là vị ngữ, là cách hiểu hợp lý, phù hợp về quan
điểm lôgic, quan hệ về ý nghĩa giữa chủ ngữ và vị
ngữ trong câu.
+ Trường hợp thứ hai: “ Những con voi
về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả” cũng
có hai cách hiểu khác nhau về ranh giới của chủ
ngữ và vị ngữ trong câu.
1- Những con voi / về đích trước tiên huơ vòi
chào khán giả.
2- Những con voi về đích trước tiên / huơ vòi
chào khán giả.
Cách hiểu (1) không hợp lý, bởi vì dựa vào đặc
trưng về cấu tạo của cụm danh từ, ta nhận thấy tổ
hợp “ những con voi” bao giờ cũng có định ngữ
đứng sau, nhằm hạn định, cụ thể hóa ý nghĩa cho
danh từ đứng trung tâm ( “con voi” là danh từ trung
tâm ), trả lời cho câu hỏi ( những con voi nào? ), có
như thế mới tạo ra được những cụm danh từ hoàn
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc

Hng Lam
18
SKKN
chỉnh, và cả cụm danh từ này mới đảm nhận được
chức năng làm bộ phận chủ ngữ của câu.
Như vậy, ở đây cụm danh từ “Những con voi
về đích trước tiên” làm bộ phận chủ ngữ theo
cách hiểu (2) là hợp lí.
* Đối với trường hợp học sinh nhầm định
ngữ sau trong các cụm danh từ là vị ngữ của câu
như đã nêu trên; giáo viên cần nói rõ để học sinh
hiểu được là tuy thoạt nhìn giữa định ngữ sau và vị
ngữ có những nét giống nhau như vậy nhưng
chúng khác nhau về cấp bậc, chức năng, tác dụng.
Định ngữ là thành tố phụ của danh từ trung tâm,
thuộc bậc cụm từ, còn vị ngữ là một trong hai thành
phần chính của câu. Định ngữ có nhiệm vụ hạn
định, cụ thể hóa ý nghĩa cho danh từ trung tâm,
còn vị ngữ nêu nội dung thông báo về đối tượng do
chủ ngữ biểu thị. Vì vậy, trong các ví dụ trên,các từ
ngữ: “ trong suốt như thủy tinh”, “ngồi trong
khoang lái”, “ thơm mát”, “ bát ngát”, “ đỏ nặng
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
19
SKKN
phù sa”, “ mới được xây dựng” chỉ là định ngữ
sau cụm danh từ chứ không phải là vị ngữ.
C/ KẾT LUẬN.
1. Kết quả đạt được .

Qua thực tế dạy học lớp 4 - 5, tôi đã
nghiên cứu chương trình sách giáo khoa và đã tìm
ra được những biện pháp để giúp học sinh khắc
phục lỗi khi làm bài tập Luyện từ và câu. Thông qua
kết quả học tập của học sinh trên lớp cũng như khi
làm bài khảo sát chất lượng về phân môn Luyện từ
và câu đã được nâng lên rõ rệt.
2. Bài học kinh nghiệm .
- Để dạy học Luyện từ và câu đạt hiệu quả
cao, giáo viên phải nắm chắc nội dung dạy học,
các kiến thức và kĩ năng từ ngữ và ngữ pháp cần
trang bị cho học sinh; nắm được ý đồ tác giả khi
xây dựng chương trình và SGK; thấy được ưu,
nhược điểm của chương trình và các tài liệu dạy
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
20
SKKN
học để phát huy những điểm mạnh, khắc phục, hạn
chế những nhược điểm đó.
- Khi dạy Luyện từ và câu, giáo viên cần có
thái độ mềm dẻo, không tuyệt đối hóa, phiến diện,
không cứng nhắc; phải biết chọn những ngữ liệu
điển hình, chắc chắn, tránh các trường hợp còn mơ
hồ, có vấn đề, có những tranh cãi.
- Giáo viên trình bày theo quan điểm của
chương trình, SGK Tiểu học. Mặt khác, cần có một
cách nhìn có hệ thống, nhất quán, thống nhất ít ra
là trong suốt cả cấp học.
- Về phương pháp, khi tổ chức quá trình

dạy học Luyện từ và câu ở Tiểu học, giáo viên cần
nắm đặc điểm của học sinh nhỏ để luôn đảm bảo
sự thống nhất giữa nội dung và hình thức ngữ
pháp, luôn gắn các ý nghĩa từ ngữ, ngữ pháp với
các dấu hiệu hình thức dễ nhận diện. Trong phạm
vi cho phép nên chọn cách lí giải nào chi phối việc
sử dụng ngôn ngữ.
NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
21
SKKN
- Các kết quả nghiên cứu lỗi từ ngữ, ngữ
pháp được giáo viên lưu ý trong khi hình thành khái
niệm từ ngữ, ngữ pháp và trở thành ngữ liệu để
xây dựng bài tập phòng ngừa lỗi cho các em.
- Cần đặt các hiện tượng từ ngữ, ngữ pháp
khác nhau nhưng dễ bị nhầm lẫn bên cạnh nhau
trong thế đối lập để học sinh sử dụng các thao tác
đối chiếu, so sánh, phát hiện ra sự khác nhau để
dự phòng các lỗi trong nhận diện và phân tích.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã
đúc rút được trong quá trình dạy học phân môn
Luyện từ và câu ở lớp 4 – 5. Tôi đã áp dụng kinh
nghiệm này trong dạy học và đã thu được một số
kết quả đáng phấn khởi. Xin mạnh dạn trình bày
với các anh chị em đồng nghiệp. Rất mong được
sự đóng góp ý kiến của các đồng chí để những
kinh nghiệm này được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành
cảm ơn !


NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
22
SKKN
Hưng
Lam ngày 26 tháng 4 năm 2011.
Người
viết: Nguyễn Thị Hương

NguyÔn ThÞ H¬ng Tr êng TiÓu häc
Hng Lam
23

×