Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vận dụng tư tưởng đạo đức hồ chí minh trong xây dựng đảng bộ quận 7, thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÂM THỊ KIM THANH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÂM THỊ KIM THANH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY



Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nƣớc
Mã số : 60 31 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Hoàng Anh

HÀ NỘI – 2017


1

Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội dồng chấm luận
văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS, TS Trần Thị Anh Đào


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Luận văn được hồn thành dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Hoàng Anh. Các
số liệu, thông tin trong luận văn là khoa học và đáng tin cậy. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Lâm Thị Kim Thanh


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY ........................................................................... 8
1.1. Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh và cơng tác xây dựng Đảng ............... 8
1.2 Nguyên tắc của sự vận dụng tư tưởng đạo đức và sự cần thiết của việc
vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng hiện
nay .............................................................................................................. 27
Chƣơng 2: MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG VẬN
DỤNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO CƠNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY ................................................................................................... 44
2.1. Một số nhân tố tác động đến công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ quận
7, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................................ 44
2.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào xây dựng
Đảng của Đảng bộ quận 7, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ..................... 47
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO CƠNG TÁC XÂY DỰNG
ĐẢNG BỘ QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................... 67
3.1 Phương hướng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào cơng tác
xây dựng Đảng bộ Quận 7, Thành Phố Hồ Chí Minh ................................. 67
3.2 Giải pháp vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào cơng tác xây
dựng đảng ở Đảng bộ quận 7, Thành Phố Hồ Chí Minh ............................. 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 87
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 90
TÓM TẮT LUẬN VĂN .............................................................................. 99


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã
để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó là tư tưởng của Người.Tư tưởng này
được hình thành qua q trình tìm tịi, xác lập, phát triển và hồn thiện gắn với
q trình hoạt động thực tiễn hoạt động cách mạng của Người và sự nghiệp
Cách mạng của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu, vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác - Lênin gắn vào điều kiện thực Tiễn cách mạng ViệT Nam, người
đã phát triển phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác. Những tư tưởng đó, khơng
chỉ có giá trị trong lịch sử mà có giá trị bền vững, lâu đải và mãi mãi nó là ngọn
đuốc soi sáng con đường Cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong hệ thống tư tưởng của Người, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức và việc vận dụng tư tưởng đạo đức của Người vào quá
trình xây dựng Đảng Cộng sản là tư tưởng nền tảng quan trọng.
Qua đánh giá thực trạng công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và chính
quyền hiện nay những tồn tại, yếu kém trong quản lý hành chính nhà nước
cần khắc phục, nạn tham nhũng tràn lan thách thức nhà nước và xã hội.
Những tập tục lạc hậu chưa được xóa bỏ, nhưng thiếu sót trong quản lý vĩ mô,
thái độ xử lý nghiêm túc của cấp trên, ý thức của các cán bộ đảng viên còn
kém, trách nhiệm của từng thành viên, cá nhân chưa được rõ ràng. Nước ta
cũng đang đứng trước nhiều thách thức, yếu kém cần phải vượt qua. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận định một trong những
thách thức đó là: “Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo

đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, cơng chức
cịn diễn ra nghiêm trọng” [17, tr65]. Những suy thối này cịn kéo theo
những suy thối về đạo đức trong gia đình, nhà trường và trong xã hội. Những


2

sự suy thối đó đang là “nguy cơ lớn liên quan đến sự sống cịn của Đảng,
của chế độ”. Chính vì vậy tại báo cáo chính trị Đại Hội lần thứ XII Đảng ta
đặc biệt đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành
một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng: "Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” [21, tr202].
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; coi đó là cơng việc thường xun của các tổ chức đảng, các cấp
chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái,
"lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm”
Đại Hội Đảng Bộ Quận 7 lần thứ XII, Đại hội cũng đã chỉ ra những hạn
chế tồn tại yếu kém cần và giải pháp đặt ra trong Nghị Quyết Đại Hội đòi hỏi
Đảng ủy các cấp, chính quyền địa phường phải vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào để việc xây
dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh.
Qua những lý do trên và với tư cách là một học viên chuyên ngành xây
dựng Đảng cũng như đang công tác tại cơ quan Đảng , nhà nước thì việc nghiên
cứu vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng vững mạnh và
các giải pháp của việc vận dụng tư tưởng ấy là hết sức cần thiết cho việc bổ
sung, tích lũy kiến thức của bản thân cũng như trong lãnh đạo điều hành cơng

việc , Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trong xây dựng Đảng Đảng bộ Quận 7, TP.HCM hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ quan trọng và tất yếu của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Hiện nay công tác xây dựng Đảng là một nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa lâu dài. Trong đó các vấn đề về xây dựng đảng về chính trị tư tưởng, tổ


3

chức cán bộ, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đảng trong sạch vững mạnh. Để xây
dựng đảng, Trung ương, các ngành và địa phương đã có rất nhiều Nghị quyết,
Chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng.
Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó Nghị quyết đã chỉ ra
những tồn tại, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng và đề ra các nhóm giải
pháp để xây dựng Đảng hiện nay. Tiếp tục thực hiện các giải pháp xây dựng
Đảng có nhiều cơng trình nghiên cứu, vận dụng các quan điểm, tư tưởng Hồ
Chí Minh để xây dựng Đảng, nhiều tài liệu, sách báo, giáo trình nghiên cứu
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng, các cơng trình khoa học
đề cập ở các góc độ, phạm vi khác nhau về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng đảng trong sạch vững mạnh như:
TS. Phạm Ngọc Anh - PGS.TS Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, NXB Lý luận chính trị
Hà NỘi. Cuốn sách nếu quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là tài liệu, cẩm
nan cho công tác xây dựng Đảng, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các
nguyên tắc để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
PGS.TS Hoàng Anh, Trương Ngọc Nam (2011): Đảng là đạo đức, là văn

minh, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. Cuốn sách tuyển chọn một số bài
nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng xây dựng Đảng là đạo
đức, là văn minh, được sắp xếp theo thứ tự thời gian, và các bài viết của các
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, v.v. phân tích nội dung xây dựng Đảng là
đạo đức, là văn minh trong tư tưởng Hồ Chí Minh; việc vận dụng tư tưởng
của Người trong cơng tác xây dựng Đảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội lần thứ XI của Đảng.


4

Nguyễn Tiến Hải Đề cương học Tập Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Nhà Xuất bản Chính
trị Quốcgia xuất bản cuốn sách Đề cương học tập chủ đề Tư tưởng, tấm gương
đạo đức HồChí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “Là
đạo đức là văn minh”. Cuốn sách nói về ý nghĩa tầm quan trọng của việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. KHẳng định vai trị lãnh đạo
của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
GS. Đặng xuân kỳ (2013); Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản Lao Đơng. cuốn sách viết về phương pháp cách mạng, hệ thống
phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh
TS. Phan Khánh Bằng Luận án “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng cộng sản Việt Nam”. Luận án trình bày Quan điểm Hồ Chí Minh về vai
trị, bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh Về xây
dựng đảng và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay.
Luận văn thạc sỹ triết học của Cao Hoàng Sơn (2010) Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng con ngươi mới và vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Đức Duyệt “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về đạo đức Cách Mạng và vận dụng vào xây dựng đạo đức cách mạng

cho đội ngũ cán bộ đảng viên ở Thị Trấn Buôn Trấp, Đắk Lắk”
Luận văn thạc sỹ của Vũ Thị Diệu (2015) nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cán bộ”
Ngồi ra cịn có các bài báo, tạp chí viết về xây dựng đảng, Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh như:
GS. Hồng Chí Bảo (2016) Xây dựng đảng về đạo đức theo quan điểm
của Đại Hội XII, Tạp chí Triết Học số 8
Chế Đình Quang (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ
cán bộ”, baomoi.com


5

PGS, TS. Trương Thị Thông (2010), “Công tác xây dựng Đảng trong
tình hình mới”, Tạp chí quốc phịng tồn dân
PGS. TS Đỗ Ngọc Ninh (2011), “Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng,
nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong thời kỳ mới”,
Tạp chí xây dựng đảng
Bùi Kim Hồng (chủ nhiệm) (2012), “Xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh” NXB Lao động Hà nội.
PGS, TS Trần Nam Chuân (2012), “Xây dựng và chỉnh đốn đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Trang tin điện tử Ban Quản lý lăng HCM
TS. Nguyễn Thị Kim Dung (2013) "Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam” Tạp chí cô ̣ng sản điê ̣n tử
Phạm Quang Nghị (2013), “Một số kết quả cơ bản của Đảng bộ Hà Nội
sau một năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay””, Tạp chí cộng sản
Nguyễn Thi ̣Bích Ngo ̣c (2014), “Vận dụng tư tư ởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay”, Tạp chí cộng đảng
Bá Thắng (2015) “Vận dụng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí xây dựng đảng
Các cơng trình, bài báo tạp chí ở trên là rất có giá trị về lý luận và thực
tiễn cho công tác xây dựng Đảng hiện nay. Một số cơng trình đã luận giải cơ
sở lý luận và thực tiễn Đảng lãnh đạo trong công tác xây dựng đảng đã chỉ ra
phương hướng giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Các bài viết tạp chí đã đề cập nhiều góc
độ khác nhau về lý luận và nhiệm vụ, trách nhiệm, đạo đức của cán bộ công
chức, thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay. Các giải pháp xây dựng
đảng trong thời gian tới của địa phương mình.
Song có thể thấy đến nay chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên
cứu có hệ thống toàn diện về xây dựng Đảng ở Đảng Bộ Quận 7, TPHCM


6

trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên đây là những tài liệu bổ ích, là cơ sở
để tác giả nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa, thực hiện nghiên cứu đề tài “Vận
dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng của Đảng bộ
Quận 7, TPHCM hiện nay”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự vận dụng tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng bộ quận 7, thành phồ Hồ
Chí Minh, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp vận dụng tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ quận 7,
TPHCM trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trong cơng tác xây dựng Đảng.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng Đảng của Đảng

bộ Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu vận dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Quận 7, thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng đảng bộ Quận
7, thành phố Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về khơng gian: Đề tài nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức vào xây dựng Đảng của Quận ủy Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
- Về thời gian: Khảo sát chủ yếu từ năm 2010 đến tháng 6 /2015.


7

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Đảng và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác xây dựng Đảng
- Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của những cơng trình khoa học có
liên quan đã cơng bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: lịch sử - lơgic,
phân tích - tổng hợp, khảo sát, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Tính mới của đề tài
Đề tài kiến giải và đề xuất những giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng đảng ở Đảng bộ quận 7, thành phố

Hồ Chí Minh hiện nay
7. Giá trị lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn có thể dùng làm tài tham khảo nghiên cứu,
học tập, cũng như tài liệu tham khảo cho báo cáo viên tuyên truyền trong
công tác giáo dục tư tưởng cho Đảng viên của Quận 7, về học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học để Quận uỷ
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh tham khảo trong q trình lãnh đạo điều hành
đối với cơng tác xây dựng Đảng ở địa phương.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 03 chương, 06 tiết.


8

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG CƠNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
HIỆN NAY
1.1. Tƣ tƣởng Đạo đức Hồ Chí Minh và công tác xây dựng Đảng
1.1.1. Khái niệm, nội dung chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân, Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố
quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: Công việc thành công hoặc thất bại,

đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải ni dạy cán bộ như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi một người có ích cho cơng việc chung của chúng ta”.
Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927
không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang
đầu cuốn sách. Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách
mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập
kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn,
súc tích về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ


9

thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [31, tr 622]
Vai trị của Đạo đức theo Hồ Chí Minh nó được xem là nền tảng của người
cách Mạng, coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông. Người viết:
Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng
có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn
làm nổi việc gì [25, tr 292]
Vai trị nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định:

Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một
sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang [28, tr.601].
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có
thấm nhuận đạo đức cách mạng, hay là khơng. Tuy năng lực và cơng việc mỗi
người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ
được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Hồ Chí Minh trăn trở với
nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo
đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên. Đảng cần quyền, lãnh đạo toàn xã hội,
lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo


10

đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người. Chính
vì vậy người u cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”
Ngoài ra đạo đức cịn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ
thành một xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. Có đạo đức cách
mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi
bước…, khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo
khơng hủ hố”.
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt
đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng nhưng có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho

nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp, Tài càng lớn thì đức phải càng
cao, vì đức – tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
Trong tư tưởng đạo đức của Người, có 4 chuẩn mực đạo đức cơ bản:
1.1.1.1. Trung với nước hiếu với dân
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Theo quan điểm Hồ Chí Minh nước là nước của Dân là người chủ
đất nước. Do đó; trung với nước có nghĩa trong mối quan hệ giữa cá nhân với
cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của của Đảng, của Tổ quốc của cách
mạng lên trên hết, trước hết, quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách
mạng, thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; hiếu
với dân là khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của dân, là tin dân, học dân
lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân
dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho dân.


11

Trung với nước hiếu với dân là phẩm chất đạo đức chung nhất, bao trùm,
quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Mặt khác, về quan hệ đạo
đức thì mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân, dân tộc
mình là mối quan hệ lớn nhất. Yêu nước, trung với nước là tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặt lợi ích của Đảng, của
Tổ quốc, của nhân dân, của cách mạng lên trên hết. Thực hiện tốt mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với cán bộ, đảng viên, Người
đòi hỏi phải dân “tận trung với nước, tận hiếu với dân” mới xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân
Hiếu với dân không chỉ dừng ở chổ thương dân mà theo người là phải

phục vụ nhân dân, đây là điểm hoàn toàn khác của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về bản chất so với đạo đức cũ. Hiếu với dân là yêu dân, kính trọng dân,
lấy dân làm gốc, phải đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, có trách nhiệm trước
nhân dân. Hồ Chí Minh nêu lên 3 loại trách nhiệm của người cán bộ; trước hết
là trách nhiệm với nhân dân, rồi với công việc, sau cùng mới là trách nhiệm
với cấp trên; luôn quan tâm chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, chăm lo cải thiện đời sống cho dân; khi dân cịn thiếu thì mình khơng có
quyền địi hỏi sung sướng cho riêng mình; tơn trọng và phát huye quyền làm
chủ của dân, nâng cao dân trí để dân biết và sử dụng quyền làm chủ của mình.
Vì vậy “Trung với nước, hiếu với dân” là thể hiện trách nhiệm với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất
nước. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Đây là phẩm chất
quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Câu nói của Người "trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng
hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" [30, tr
619]. Vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho
mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước
mắt, mà còn lâu dài về sau.


12

1.1.1.2. Yêu thương và giúp đỡ con người, sống có nghĩa, có tình
Xuất phát từ ngun lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đặc biệt là từ thực tiễn
đấu tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có
nhiều người, nhiều cơng việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người; người
thiện và ác và hai thứ việc; việc chính và việc tà. Làm việc chính là người
thiện, làm việc tà là người ác. Từ đó người kết luận; những người bị áp bức, bọ
bóc lột, những người làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tơn
giáo khác nhau, vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, vẫn có thể địan kết, đại hịa

hợp, coi nhau như anh em mơt nhà. Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng
chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già,
trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam
u nước thì đều có chỗ trong tấm lịng nhân ái của Người
Đối với Hồ Chí Minh, tình u thương đối với con người trước hết là
dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao
động bị áp bức bóc lột. Ngưởi yêu thương đồng bào, đồng chí mình, khơng
phân biệt già trẻ, trai, gái miền xi hay miền ngược. Người viết: "Tơi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành"
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Theo
Người, con người là tài sản quý giá nhất, nên phải biết quý trọng, quý trọng
tính mệnh, tài sản của nhân dân; “Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
[11, tr88]. Người yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định pháp luật,
pháp lệnh của Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, cán bộ nhà
nước không được “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “ức hiếp dân”. Lý tưởng cao
nhất của Đảng, của cán bộ, đảng viên là phục vụ sự nghiệp cách mạng quần
chúng, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói, nếu đất nước độc
lập mà dân khơng có hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.


13

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một tình
cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần giũ thân thương đối với từng số phận
con người. Tình yêu thương của Người cịn thể hiện đối với những người có sai
lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn,
chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất

dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật
xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ
bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác,
chứ không phải đập cho tơi bời". Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có
tình đồng chí thương u lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn
chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh ln gắn liền với hành động
cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người
1.1.1.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- “Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
- “Kiệm” tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi", khơng phơ trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
- “Liêm” tức là "ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của dân";
"khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải
"trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, khơng bao giờ hủ hố".
- “Chính” là không tà, thẳng thắn, đứng đắn:


14

Đối với mình: khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ,
ln tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết thật thà, khơng dối trá, lừa lọc.

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
- “Chí cơng vơ tư” là khơng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào, đặt lợi ít của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước
hết, Người nói: "Đem lịng chí công vô tư mà đối với người, với việc" [25,
tr.217]. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Thực hành
chí cơng vơ tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
đạo đức cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là khái niệm đạo đức cũ, được Hồ
Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người
chỉ ra rằng; phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm chính nhưng không thực hiện;
ngày nay ta để ra cần, kiệm, liêm chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho
dân theo để lợi cho nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư là
một biểu hiện sinh động của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người, là thước đo
bản chất người của một con người, và đức tính này càng cần thiết đối với
cán bộ, đảng viên. Bởi vì nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm
thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy
tính của Đảng. Mặc khác, những người trong cơng sở đều có nhiều hoặc ít
quyền hành. Nếu khơng giữ đúng Cần, kiệm, liêm, chính thì dể chở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt.
Thực hiện cần kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư phải đi liền với chống
chủ nghĩa các nhân. Tuy nhiên phải hiểu đúng đắn giữa chủ nghĩa các nhân và
lợi ích cá nhân, cần thấy rõ sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.


15

Chủ nghĩa cá nhân là việc gì, trước hết cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình,
chỉ muốn “mọi người vì mình”. Hồ Chí Minh nói: Chủ nghĩa cá nhân là một

thứ rất gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là thứ
vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa,
tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể,
xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh, chủ nghĩa
cá nhân không chỉ nguy hại cho cá nhân mà cho cả một Đảng và dân tộc… vì
thế phải tiêu diệt, quét sạch trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Nhưng đấu tranh chủ
nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân.
1.1.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, sự tơn trọng và u thương tất cả các
dân tộc, nhân dân cả nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân
biệt chủng tộc; tinh thần đồn kết quốc tế vì mục tiêu hịa bình, dân chủ và tiến
bộ. Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh
em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước, mà Hồ Chí Minh đã dày cơng vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực
tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh
thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế
giới vì hồ bình, cơng lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại
là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, Trong tác
phẩm "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn mạnh:
"Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ
đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hoà bình thế
giới". Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng
trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành
trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể


16


dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân
tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể
đưa đến tình trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu
và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan
trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế
của giai cấp công nhân và của xã hội, xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa quốc tế
trong sáng gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu
nước chân chính. Tinh thần quốc tế trong sáng làm cho con người trở nên cao
thượng, đẹp đẽ. Là một phẩm chất đạo đức không thể thiếu của con người ở
thời đại văn minh.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân
tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và
bình đẳng thực sự cho con người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đồn kết quốc tế
rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào
những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt nam và nhân dân thế giới. Người đã
góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đồn kết quốc tế, tạo ra một kiểu
quan hệ quốc tế mới; đối thoại thay cho đối dầu, kiến tạo một nền văn hóa hịa
bình trên thế giới. Do đó, trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan
trọng để xây dựng và phát triển đất nước chính là mở rộng tình đồn kết quốc
tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập, như Đảng ta đã
khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế…”.
1.1.2. Công tác xây dựng Đảng



17

Xây dựng Đảng thường được hiểu là phải xây dựng Đảng trên các mặt:
tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức. Qua những bài học trong Cương lĩnh
phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và về sự lãnh đạo của
Đảng đối với cách mạng. Những bài học ấy tạo thành một giá trị tổng thể, có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình
hiện nay. Đảng ta đã nhấn mạnh những nội dung sau: Đảng khơng có lợi ích
nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm
vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những
nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thối hóa, biến chất
của cán bộ, đảng viên.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng
cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh
đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ
luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái,...
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường
xuyên để Đảng hồn thành vai trị chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc,
nhân dân. Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã coi sự lãnh đạo của
đảng cộng sản là vấn đề có tính ngun tắc, có tính quy luật của cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát
triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của
Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình



18

hình nêu trên, nếu Đảng khơng giữ được bản chất cách mạng của mình, khơng
thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; khơng thống nhất cao về ý chí, hành
động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức;
khơng được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa
đất nước đi lên. Công tác Xây dựng Đảng hiện nay gồm các nội dung sau:
1.1.2.1 Xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng đảng về chính trị chủ yếu là: Xây dựng Cương lĩnh chính trị
của Đảng dựa trên sự kết hợp chủ nghĩa Mác–Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cương liñ h của Đảng luôn luôn xác đinh
̣
đó là nề n tảng tư tưởng , kim chỉ nam cho hành đơ ̣ng của mình , căn cứ vào sự
phát triển của tình hình, xác định đường lối, nhiệm vụ cụ thể cho từng thời kỳ,
chuyển hướng mục tiêu, phương pháp đấu tranh một cách kịp thời và chính
xác. Biến đường lối chung ấy thành quy hoạch, kế hoạch, những chủ trương,
phương hướng cụ thể, phù hợp với điều kiện từng ngành, từng địa phương,
từng đơn vị, có tác dụng hướng dẫn hành động hàng ngày của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Trong tình hình hiện nay, xây
dựng Đảng về chính trị cần thể hiện vấn đề kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Nội dung
xây dựng Đảng về chính trị có thể khái qt gồm 6 vấn đề cơ bản sau:
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
Đảng khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan
trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Coi đó là một trong

những nhiệm vụ hàng đầu, phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, nhiều
vấn đề mới như kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội


19

nhập... là những vấn đề rất mới, cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và
thực tiễn. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý
luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác-xít, dùng nó như một kim chỉ nam dẫn
đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
Vận dụng sáng tạo và phát tiển phù hợp với thực tiễn Việt Nam: Kiên trì
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin, Chính là Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo
chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra các Cương lĩnh, đường lối chiến
lược phương hướng phát triển kinh tế - xã hội. Đường lối chính trị là một vấn
đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị
gồm các nội dung: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và
thực hiện Nghị quyết, xây dựng và bảo vệ hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập
trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị. Đảng muốn xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn cần phải luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế
thời đại, kế thừa kinh nghiệm tốt của các Đảng Cộng sản khác, đồng thời,
phải tổng kết kinh nghiệm của mình bổ sung vào Chủ nghĩa Mác - Lê nin; căn
cứ vào thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách
mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hai là, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế
hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Ba là Kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
trí tuệ, tính chiến đấu của tồn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; Không dao động trong bất cứ


20

tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng, vai trò tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên:
Kiên trì vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải
Kiên định đường lối đổi mới và luôn sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể,
hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với từng đối tượng; tăng cường đấu tranh bảo vệ sự
trong sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, chống mọi biểu hiện giáo điều, bảo
thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, hoặc xa rời đổi mới vơ ngun tắc.
Nắm tư duy biện chứng, nắm vững quy luật phát triển, vận động của hiện
tượng, sự vật diễn ra hằng ngày để nhận định, đánh giá, xử lý đúng, phấn đấu
vì lý tưởng cách mạng của Đảng. Đảng phải thể hiện vai vai trò tiên phong
gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng, Cán bộ, đảng viên thường xuyên
suy ngẫm, soi xét mình, tăng thêm nghị lực cho cái thiện chiến thắng cái ác
trong mỗi con người, tránh được những cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi.
Gương mẫu thực hiện lời nói đi đơi với việc làm, nâng cao bản lĩnh chính trị,
vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong thời kỳ hội nhập.
Bốn là Kiên định những vấn đề có tính ngun tắc trong cơng tác xây
dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của tổ
chức đảng, của cán bộ đảng viên
Đảng giữ vững vị trí lãnh đạo của mình, Đảng phải xây dựng được một
đường lối chính trị đúng đắn; Đường lối chính trị đúng là đường lối được xây
dựng trên cơ sở khoa học. Đường lối chính trị thể hiện trước hết trong cương

lĩnh, các chủ trương, chính sách của Đảng. Để sự lãnh đạo của Đảng có hiệu
lực, hiệu quả, Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó là cơ sở lý luận;
nhằm góp phần cải biến hiện thực, đường lối chính trị phải được đưa vào nhân
dân, làm cho chúng có được sức mạnh của nhân tố hoạt động thực tiễn của


×