Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VÕ HỒNG PHƢƠNG

KINH TẾ TƢ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VÕ HỒNG PHƢƠNG

KINH TẾ TƢ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60.31.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đoàn Phúc Thanh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung
thực. Các kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Võ Hồng Phƣơng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân


KTTT

: Kinh tế thị trường

KTTN

: Kinh tế tư nhân

KTNN

: Kinh tế nhà nước

KT-XH

: Kinh tế xã hội

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ trên địa bàn TP Hà
Nội giai đoạn 2008 – 2016 .............................................................48
Bảng 2.2. Số lượng DNTN trên địa bàn TP.Hà Nội giai đoạn 2000-2016......51
Bảng 2.3. Số lượng DN Hà Nội đang hoạt động theo quy mô vốn .................54
Bảng 2.5. Vốn DNTN ở Hà Nội các năm 2011 - 2015 ...................................56
Bảng 3.1. Cơ cấu giá trị GDP theo ngành kinh tế Hà Nội 2020,2030 ............71
Bảng 3.2. Một số chỉ tiêu phát triển của Hà Nội đến năm 2020,2030 ............72
Bảng 3.3 Tốc độ tăng trưởng theo ngành kinh tế của Hà Nội .........................72

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn
2008 - 2016 .....................................................................................50
Biểu đồ 2.2. Số lượng DNTN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2008 - 2016 .....52
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu DNTN Trên địa bàn Hà Nội phân theo ngành kinh tế ....55
Biểu đồ 2.4. So sánh một số chỉ tiêu về DTN của TP. Hà Nội với cả
nước năm 2015 ...............................................................................58
Biểu đồ 2.5. Đóng góp của DNTN vào GDP của thành phố (đơn vị %).........59


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN .........11
1.1. Kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...............................................11
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân.............................32
1.3. Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp tư nhân của một số địa phương
ở nước ta .........................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƢ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2008 – 2016 .....................40

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố .....................40
2.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2008 – 2016 ....................................................................44
2.3. Thành tích và hạn chế về phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Hà Nội giai đoạn 2008 – 2016 .......................................55
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƢ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN
NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030 ......................................................70
3.1. Vị trí của Thủ đơ và mục tiêu phát triển KT-XH của thành phố đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 ...............................................................70
3.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành
phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhình 2030 ...................................72
3.3. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn 2030 ...........................................76
KẾT LUẬN ...................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................100


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta kể từ khi thực
hiện đường lối đổi mới. Theo đó, quan điểm: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn
đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao nội
lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” đã được khẳng định từ lý

luận đến thực tiễn. Đại hội lần thứ X, XI và XII của Đảng trong khi tiếp tục
khẳng định chủ trương nhất quán về phát triển KTTN, đã đặc biệt chú trọng
đến khâu đột phá - hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa - để từng bước hồn thiện cơ chế, chính sách theo hướng
khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và
lĩnh vực kinh tế, trong đó chú trọng hồn thiện chính sách hỗ trợ cho sự phát
triển DNTN, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đóng vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế tư nhân.
Trong giai đoạn 2006 - 2016, so với khu vực kinh tế nhà nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngồi, khu vực KTTN đóng góp hơn 40% GDP cả
nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển
hàng hoá bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hoá và 100% giá trị sản
lượng hàng hoá vận chuyển. Đặc biệt, khu vực KTTN thu hút khoảng 51%
lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao
động mỗi năm v.v… Điều này chứng tỏ vai trị quan trọng, khơng thể thiếu
của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta


2
hiện nay. Chính vì vậy, khi đề cập đến vị trí, vai trị của KTTN, Báo cáo
Chính trị Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế”. Quan điểm mới này của Đảng cho thấy, KTTN
trong nền kinh tế đã có bước phát triển về chất, do đó vị trí, vai trị của nó
khơng những là “một trong những động lực của nền kinh tế” như đã khẳng
định ở Nghị quyết Đại hội XI và XII, mà thực sự là động lực “quan
trọng” trên thực tế hiện nay.
Theo số liệu thống kê của Phịng Cơng nghiệp và Thương mại Việt Nam,
đến cuối năm 2016 cả nước có gần 600 nghìn DNTN, chiếm gần 90% số doanh
nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, cũng theo số liệu thống kê này, về quy mơ của
DNTN ở nước ta hiện nay, có tới 96% doanh nghiệp có quy mơ nhỏ và siêu

nhỏ, 2% doanh nghiệp quy mơ vừa và chỉ có 2% doanh nghiệp lớn. Trình độ
cơng nghệ thấp và chậm đổi mới, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu
quả kinh doanh cịn thấp, trình độ quản trị, tính liên kết còn yếu; khả năng tham
gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế còn thấp. Tỷ lệ DNTN thua lỗ, phá sản
cịn khá cao, bình qn giai đoạn 2007 - 2015 là 45%. Cơ cấu ngành nghề của
KTTN còn bất cập, có đến 81% tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
trong khi chỉ có 1% đầu tư vào nông nghiệp, số lượng DNTN trong lĩnh vực
sản xuất, chế biến, chế tạo còn rất nhỏ. Hơn nữa, do chưa phát huy hết tiềm lực,
dư địa phát triển, cho nên đóng góp của DNTN cho nền kinh tế cịn thấp so với
khả năng vốn có. Mặt khác, đến nay ngồi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), chúng ta đã có hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần
60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai
lần được ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế. Điều này vừa tạo ra cơ hội
để KTTN nói chung và DNTN nước ta phát triển, nhưng cũng chứa đựng nhiều
thách thức nếu không tận dụng được những lợi thế để chuyển hoá thành cơ hội


3
đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Làm gì để hỗ trợ KTTN, nhất là doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá
thể tiểu chủ phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, góp phần tạo
động lực tăng trưởng bền vững, tăng cường sức mạnh nội sinh của nền kinh
tế? Nhận thức đúng đắn về vai trò của Nhà nước kiến tạo phát triển, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp Việt
Nam đến năm 2030. Theo tinh thần đó, Chính phủ sẽ làm hết sức mình để cải
thiện mơi trường đầu tư và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo
thuận lợi nhất cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp, mọi
chủ thể thị trường có điều kiện cạnh tranh lành mạnh với nhau theo quy định
của pháp luật để cùng phát triển. Đặc biệt, Chính phủ cũng đang xây dựng,

soạn thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để có thể hỗ trợ cho các
DNTN, doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam theo nguyên tắc không phân
biệt đối xử, phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm đạt được mục tiêu đến
2020 sẽ có ít nhất một triệu doanh nghiệp. Đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ năm (khóa XII) họp từ 5 đến 10/5/2017 đã đưa ra
những quan điểm và định hướng mới cho phát triển KTTN.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm
lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
Sau 30 năm đổi mới, 15 năm thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính
trị và gần 10 năm mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội,
góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Cũng như
thành phần kinh tế tư nhân của cả nước, KTTN trên địa bàn thành phố thời
gian qua từng bước khẳng định vai trò động lực quan trọng trong phát triển
kinh tế của Thủ đô. Theo số liệu của Viện Khoa học Quản trị doanh nghiệp


4
nhỏ và vừa (SISME), đến cuối năm 2016 Hà Nội có khoảng gần 115 nghìn
DNTN đăng ký kinh doanh. Về quy mô, DNTN của địa phương chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với loại hình được lựa chọn nhiều nhất là công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp
đang hoạt động thực tế, trong đó, doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh
nghiệp nhỏ chiếm 29,6%, còn lại 56,7% là doanh nghiệp siêu nhỏ. DNTN nhỏ
và vừa đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra sản phẩm
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, huy động vốn trong dân để phát
triển sản xuất, giải quyết nhiều cơng ăn việc làm, đóng góp ngày càng lớn cho
ngân sách thủ đô, tiếp cận với khoa học cơng nghệ mới, làm gia tăng tính
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Có được những chuyển biến đó là do Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ

ban nhân dân Thành phố Hà Nội rất quan tâm đến sự phát triển KTTN nhất là
DNTN. Cùng với thực hiện các chính sách khuyến khích của Trung ương, Hà
Nội đã xây dựng và thực hiện nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ
KTTN, như hỗ trợ về tín dụng, tài chính; khoa học cơng nghệ; đào tạo nguồn
nhân lực; xúc tiến đầu tư, thương mại; giải quyết mặt bằng sản xuất; thủ tục
pháp lý... Những chủ trương và chính sách đó đã góp phần rất quan trọng vào
sự phát triển của KTTN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
KTTN trên địa bàn thành phố đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách
thức về năng lực quản lý, công nghệ, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm,
thông tin thị trường...; thiếu vốn đầu tư vào các ngành sản xuất lớn, chưa
mạnh dạn liên kết với các thành phần kinh tế khác và cũng đã bộc lộ một số
yếu kém như: chỉ chạy theo lợi ích ngắn hạn, khai thác không hiệu quả nguồn
lực xã hội, hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh thấp, gây ơ nhiễm mơi
trường... Tình trạng trên địi hỏi thành phố Hà Nội phải có định hướng và các
giải pháp phù hợp để khuyến khích KTTN phát triển theo qui hoạch, kế hoạch


5
của Thành phố, phát huy được tiềm năng, thế mạnh sẵn có, thúc đẩy TPKT
này phát triển nhanh, bền vững, đóng góp ngày càng lớn cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của Thủ đơ.
Xuất phát từ tình hình đó, tơi lựa chọn đề tài “Kinh tế tư nhân trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, những vấn đề lý luận và thực tiễn về KTTN đã được quan
tâm nghiên cứu từ cuối thập niên 80. Đặc biệt, trong những năm gần đây,
nhiều cơng trình nghiên cứu, luận án, luận văn, các đề tài nghiên cứu về
KTTN dưới góc độ khác nhau đã được cơng bố. Có thể hệ thống hóa các cơng
trình nghiên cứu về KTTN và DNTN ở nước ta từ năm 2000 đến này theo hai
cấp độ:

- Những cơng trình nghiên cứu về KTTN ở Việt Nam;
- Những cơng trình nghiên cứu về KTTN ở Hà Nội.
2.1. Về những cơng trình nghiên cứu KTTN ở Việt Nam gồm có:
- Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2008 – 2016), Niên giám thống kê
năm 2008 – 2016.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết Hội nghị trung ương lần
thứ 5 khóa XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.


6
- Trần Quang Tuấn (2009), Hồn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhà
nước đối với KTTTN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ở TP. Hải Phòng,
Luận án tiến sĩ kinh tế.
- Nguyễn Thị Trang (2012), KTTN trong ngành thương mại ở tỉnh
Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
- Phát triển KTTN ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ
kinh tế chính trị.
- Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đến 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Kinh tế tư nhân và
quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân, Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ.
- Nguyễn Đình Hương (2002): Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Kỷ yếu hội thảo khoa học về phát

triển kinh tế tư nhân.
- Đặng Danh Lợi (2003), “Kinh tế tư nhân Việt Nam: những thuận lợi,
khó khăn trong q trình phát triển”, Tạp chí Phát triển Kinh tế.
- Đặng Hiển (2006), Kinh tế tư nhân - một trong những động lực của
nền kinh tế nước ta hiện nay, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
- Phan Thị Lệ Thủy – Đại học Ngoại thương, chuyên ngành kinh tế thế
thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế (2010), Phát triển các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện hội nhập, Luận văn
thạc sỹ.
- Quỹ Friedrich - Naumann Foundation for Freedom của Cộng hòa Liên
bang Đức và Trung tâm Nghiên cứu Năng lực cạnh tranh - Viện Kinh tế Việt
Nam (2014), Hoạt động doanh nghiệp tư nhân: Thực trạng, Vấn đề và Hàm ý
chính sách.


7
- Lê Xuân Tùng (2015), Phải chăng kinh tế tư nhân là nền tảng của
nền kinh tế quốc dân, Tạp chí Cộng sản, số 872 (6/2015).
Trong các cơng trình nghiên cứu này, các tác giả sau khi hệ thống hóa
một số khái niệm có liên quan đã khảo sát mơi trường kinh tế vĩ mơ, mơi
trường chính sách và tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh của thành
phần KTTN và bộ phận DNTN, đi vào phân tích các yếu tố tác động đến hoạt
động sản xuất - kinh doanh của DNTN. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu
đều cho rằng, trong các yếu tố tác động, yếu tố đóng vai trị sinh tử đến kết
quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là môi trường kinh tế
vĩ mơ. Cùng với đó là một loạt các yếu tố khác được chỉ ra bao gồm chất
lượng nguồn nhân lực, trình độ cơng nghệ, quy mơ doanh nghiệp, năng lực
tiếp cận đến tín dụng… Từ kết quả phân tích, các tác giả rút ra một số hàm ý
chính sách mà trong đó hàm ý quan trọng nhất là thực hiện các chính sách ổn
định kinh tế vĩ mơ, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNTN.
2.2. Về những cơng trình nghiên cứu kinh tế tư nhân ở Hà Nội gồm có:
- Lê Văn Tâm (1996), Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ
và vừa Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Nghiêm Xuân Đạt, TS. Nguyễn Minh Phong (đồng chủ biên)
(2002), Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- TS.Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS Tô Xuân Dân (chủ biên), Phát triển và
quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Khoa học và kỹ thuật.
- TS. Nguyễn Minh Phong (chủ biên) (2004), Phát triển kinh tế tư nhân
ở Hà Nội, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.


8
- ThS. Phạm Thị Minh Nghĩa và Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa - Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội (2016), Thực trạng và giải pháp
thúc đẩy phát triển có hiệu quả doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà
Nội đến năm 2020.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển KT – XH năm 2010, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp
chủ yếu năm 2016.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển KT – XH năm 2012, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp
chủ yếu năm 2013.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển KT – XH năm 2014, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp
chủ yếu năm 2015.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển KT – XH năm 2016, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp

chủ yếu năm 2017.
Các cơng trình trên đây qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
về phát triển KTTN đã tiến hành điều tra, đánh giá thực trạng phát triển
KTTN trên địa bàn thành phố Hà Nội bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuộc 3 nhóm ngành chính theo quy định tại Nghị định 59/2009/NĐ-CP là
nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ,
các tổ chức thực hiện chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý. Những số liệu về quy mơ, vốn, lao
động, ngành nghề, đóng góp cho ngân sách, năng lực cạnh tranh và các yếu tố
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa; về môi
trường kinh doanh; về các chính sách hỗ trợ và việc tiếp cận và tham gia vào
các chương trình hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức hỗ trợ KTTN; những giải


9
pháp phát triển có hiệu quả KTTN trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020 là
những tài liệu thứ cấp quý báu.
Tuy nhiên, phần lớn trong số đó đều nghiên cứu kinh tế tư nhân nói
chung ở Hà Nội dưới góc độ của khoa học quản lý kinh tế, quản lý và kinh
doanh hoặc khoa học kinh tế phát triển mà ít nghiên cứu dưới góc độ của khoa
học kinh tế chính trị. Hơn nữa tính cập nhật của nhiều đề tài còn hạn chế
trong khi cả lý luận và thực tiễn về KTTN có tốc độ phát triển khá nhanh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển kinh tế
tư nhân luận văn phân tích, đánh giá thực trạng, quán triệt một số quan điểm
và đề xuất giải pháp tiếp tục phát triển KTTN trên địa bàn thành phố Hà Nội
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số lý luận về kinh tế tư nhân.

- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển KTTN ở một số địa phương tương
đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trong nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KTTN trên địa bàn thành phố
Hà Nội giai đoạn 2007 – 2016.
- Quán triệt một số quan điểm và đề xuất giải pháp phát triển KTTN
trên địa bàn thành phố Hà Nội cho các năm tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị nên đối
tượng nghiên cứu được xác định là thành phần kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Hà Nội, trong đó chủ yếu là DNTN.


10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu thành phần kinh tế tư nhân,
bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân, trong đó chủ yếu
khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển DNTN trên địa bàn Hà Nội.
- Về thời gian: đề tài nghiên cứu KTTN trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2008 – 2016 và các năm tiếp theo.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị là phương pháp trừu
tượng hoá khoa học để làm rõ bản chất thành phần kinh tế tư nhân với các
loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau, nhất là KTTN và các mối
quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp tư nhân với các chủ thể khác.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp như điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, tư liệu, phân tích, tổng
hợp... để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, cơ sở lý luận và thực tiễn; đánh giá

thực trạng quá trình phát triển KTTN ở Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải
pháp phát triển TPKT này.
- Một số kết luận, kết quả nghiên cứu và kiến nghị của luận văn, có thể
là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu, cũng có thể là
những gợi ý chính sách cho các cấp, các ngành trong việc hoạch định chính
sách, quản lý kinh tế xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


11
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
1.1. Kinh tế tƣ nhân và vai trò của kinh tế tƣ nhân trong nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân và các loại hình tổ chức kinh
doanh của kinh tế tư nhân
1.1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Trong các tác phẩm kinh điển của Mác, Ăngghen và Lênin, thuật ngữ
“kinh tế tư nhân” chưa được sử dụng nhiều, mặc dù các ông đã dày công
nghiên cứu về chế độ tư hữu, về kinh tế cá thể, về sản xuất hàng hố nhỏ, đặc
biệt là về q trình sản xuất dựa trên sở hữu tư bản tư nhân... C.Mác cho rằng,
chế độ tư hữu, với tư cách là cái đối lập với chế độ sở hữu xã hội và tập thể,
chỉ tồn tại ở nơi nào... mà những điều kiện bên ngồi của lao động là của tư
nhân. Những hình thức của chế độ tư hữu thay đổi tuỳ theo những tư nhân ấy
là người lao động hoặc người không lao động.
Cũng theo C. Mác và Ăngghen, đặc trưng của kinh tế tư bản tư nhân là
người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, lao động của anh

ta thuộc về nhà tư bản. Nhà tư bản trông nom sao cho công việc được tiến
hành tốt và những tư liệu sản xuất được tiêu dùng một cách hợp lý, do đó, để
cho ngun liệu khơng bị lãng phí vơ ích và cơng cụ lao động được giữ gìn
cẩn thận, nghĩa là chỉ bị huỷ hoại theo mức độ cần thiết cho người tiêu dùng
chúng trong công việc mà thôi. Và thứ hai: sản phẩm là sở hữu của nhà tư bản
chứ không phải của người sản xuất trực tiếp, không phải của công nhân.
Như vậy, ưu điểm của doanh nghiệp tư bản tư nhân là tạo ra được một
lực lượng sản xuất tiến bộ hơn so với sản xuất tư nhân cá thể nhờ có quy mơ


12
lớn, tổ chức sản xuất hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, song mặt hạn chế
của doanh nghiệp tư bản tư nhân là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm
thuê. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ăngghen trong khi
chỉ ra nhiệm vụ phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản đã khẳng định không thể thủ
tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được, cũng như không thể làm cho lực lượng
sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền
kinh tế công hữu. Sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và
chỉ khi nào tạo nên một khối lượng lớn tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải
tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu.
Vận dụng những tư tưởng của C. Mác và Ăngghen trong điều kiện cụ
thể của nước Nga, V.I Lênin cũng cho rằng, trong thời kỳ quá độ từ nền tiểu
sản xuất lên CNXH, thì ở mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là khơng tránh
khỏi. Trong nền kinh tế thời kỳ q độ, vẫn cịn có những thành phần, những
bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Những
thành phần kinh tế trong kết cấu xã hội Nga thời kỳ q độ gồm có: kinh tế
nơng dân kiểu gia trưởng, nghĩa là phần lớn có tính chất tự nhiên; sản xuất
hàng hoá nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ
nghĩa xã hội.
Qua các thành phần kinh tế mà V.I Lênin đã kể ở trên, có thể thấy rằng

KTTN mà cơ sở của nó là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm các bộ
phận: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Từ thực tiễn áp dụng
Chính sách kinh tế mới (NEP) ở Nga, Lênin đã đánh giá vai trò của KTTN
như sau: “Họ đã nộp cho Nhà nước một cách thoải mái lạ thường và hầu như
khơng bị gị ép một số thuế lên đến hàng trăm triệu pút lúa;… đại đa số dân
cư mà sản xuất với qui mô rất nhỏ hẹp và nằm trong tay tư nhân, đem lại
những số lãi to lớn nhất. Nền sản xuất cơng nghiệp cung cấp những món lãi


13
cũng bằng như thế hay ít hơn một tí, nền sản xuất này một phần do những tư
nhân nắm” [10].
Theo V.I.Lênin, một trong những nội dung và biện pháp chủ yếu của
chính sách kinh tế mới là khơi phục và phát triển nền kinh tế hàng hoá trên cơ
sở sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần. Do đó, ông chủ trương “không
đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, mà là chấn hưng thương nghiệp, công
nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, bằng cách nắm vững những cái đó một cách
thận trọng và từng bước, hoặc bằng cách Nhà nước điều tiết những cái đó,
nhưng chỉ trong chừng mực làm cho chúng sẽ được phục hồi lại. Lênin cũng
chỉ rõ “Khơng thể tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Về phương diện kinh tế, đó là điều có thể thực hiện được” [10].
Tóm lại, trong tư tưởng kinh tế của các nhà sáng lập và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin có chung một quan điểm, rằng KTTN là sản vật tự nhiên
của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của
nó, khơng nên kỳ thị và khơng thể tuỳ tiện ngăn cấm hay xố bỏ nó một cách
duy ý chí. Cần nhìn nhận đúng vai trị đặc điểm và những hạn chế của nó thì
mới có thể đưa ra chính sách đúng về KTTN.
Ở Việt Nam, KTTN mặc dù vẫn tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế
quốc dân nhưng có một thời gian khá dài thành phần kinh tế này khơng cịn

tên gọi, bị cấm kỵ, thành kiến và trở nên xa lạ không chỉ trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước mà cả trong các phương tiện thông tin đại chúng và
trong cuộc sống đời thường. Nó được gọi dưới các tên hợp thời hơn như
kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế phi XHCN, kinh tế tư bản tư nhân… Tuy
nhiên, thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn của chân lý, tư duy lý luận và quan điểm
đường lối cũng không thể né tránh hiện thực xã hội, nên trước sự phát triển


14
khách quan của KTTN, các văn kiện của Đảng đã từng bước đề cập tới thành
phần kinh tế này.
Có thể nói, cho tới nay khơng cịn một người nào, dù là bảo thủ nhất,
còn nghi ngờ và phủ nhận vai trò của KTTN ở nước ta, nhưng những vướng
mắc một số vấn đề lý ‎ luận liên quan đến thành phần kinh tế này vẫn chưa
được làm sáng tỏ, giải quyết dứt điểm. Đây là vấn đề không đơn giản, bởi vì:
Thứ nhất, hiện nay, nhận thức và quan niệm về KTTN trong xã hội vẫn
còn chưa thống nhất. Mặc dù những thuật ngữ trước đây tới nay khơng cịn
phù hợp, như kinh tế ngoài quốc doanh hoặc kinh tế phi XHCN, nhưng trong
xã hội vẫn còn quan niệm cho rằng KTTN là kinh tế tư bản tư nhân, trong khi
chúng ta vẫn chưa xác định được thế nào là tư bản tư nhân, nên còn gây ra
mặc cảm đối với các chủ DNTN.
Thứ hai, phát triển KTTN với vấn đề bóc lột và bị bóc lột. Mục tiêu của
Đảng Cộng sản là xây dựng một chế độ xã hội ấm no, cơng bằng, văn minh,
khơng có người bóc lột người như Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tổng kết là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục tiêu bất di
bất dịch, cho cả trước đây, hiện nay và sau này. Trước đây, do những hạn chế
về lý‎ luận và nắm bắt thực tiễn, với tư duy đơn giản, chúng ta cứ nghĩ rằng cứ
xóa bỏ tư nhân là xóa được bóc lột, xây dựng kinh tế chỉ có quốc doanh, tập
thể là khơng có bóc lột và như vậy sẽ xây dựng thành cơng CNXH, do đó
đảng viên cộng sản khơng được làm KTTN vì như vậy là đi vào con đường

bóc lột. Hoặc tồn tại tư duy đơn giản là hễ làm chủ tư nhân là bóc lột, làm
thuê là bị bóc lột. Những cách suy nghĩ và tư duy máy móc như thế khơng
phải khơng cịn ở một số người hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước (sửa đổi 2013) và Nghị quyết Đại hội
Đảng XI, xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị


15
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn lại là
nền KTTT định hướng XHCN. Nền kinh tế gồm nhiều thành phần là đặc điểm
tổng quát bao trùm suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH, còn trong từng thời
điểm, số lượng thành phần kinh tế là có xác định. Cụ thể, hiện nay là 4 thành
phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi. Cũng theo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, KTTN là thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm: kinh tế cá thể,
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và lao động của bản thân người lao động và gia đình. Bộ phận này có
phạm vi hoạt động tương đối rộng, cả ở thành thị và nơng thơn, có vị trí quan
trọng lâu dài, có khả năng làm vệ tinh cho các tổ chức kinh tế của các thành
phần kinh tế khác để phát triển cao hơn. Hiện nay ở nước ta bộ phận kinh tế
cá thể còn được gọi là kinh tế hộ gia đình, hoạt động sản xuất kinh doanh dựa
trên tư liệu sản xuất và sức lao động của gia đình là chính, có quy mơ nhỏ,
trình độ thấp nhưng với số lượng lên tới hàng chục triệu hộ nên đang là bộ
phận chủ yếu của KTTN.
Có quy mơ sản xuất kinh doanh lớn hơn bộ phận kinh tế cá thể là bộ
phận kinh tế tiểu chủ. Bộ phận này quy mô tư liệu sản xuất và sức lao động
lớn hơn kinh tế cá thể hộ gia đình thơng qua tích tụ sản xuất và có sử dụng lao

động làm thuê dưới hai dạng thường xuyên và thời vụ. Kinh tế tiểu chủ có
mặt ở tất cả các ngành của nền kinh tế, từ nông thôn đến đô thị. Trong ngành
nông nghiệp và ở nơng thơn đó là các trang trại, gia trại. Trong ngành cơng
nghiệp, đó là các cơ sở sản xuất, gia công hoặc chế biến. Trong ngành dịch vụ
là các cơ sở kinh doanh như nhà hàng, nhà nghỉ, dịch vụ vận tải, du lịch…
Nói tóm lại, bộ phận này quy mơ lớn hơn kinh tế hộ gia đình nhưng chưa đạt


16
tới quy mơ DNTN nhưng có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng trong việc
tạo ra của cải vật chất cho xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. So
với bộ phận kinh tế cá thể, tiểu chủ, rõ ràng bộ phận này có nhiều điểm khác
biệt. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về quy mô tư liệu sản xuất và sức lao động đã đạt tới mức độ
đủ lớn (vốn pháp định), do đó được cấp Giấy phép thành lập doanh nghiệp để
được sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Do đó, có thể gọi kinh tế tư bản tư
nhân là DNTN.
Thứ hai, quan hệ sản xuất mang tính chất xã hội rộng lớn hơn kinh tế cá
thể, tiểu chủ.
Thứ ba, bộ phận này có vai trị to lớn trong phát triển lực lượng sản
xuất góp phần giải quyết vốn, việc làm cho người lao động, có nhiều kinh
nghiệm sản xuất và quản lý.
Tóm lại, mặc dù cịn có một số vấn đề lý luận về KTTN cần được làm
sáng tỏ, nhưng dựa vào những tích trên đây, cũng như dựa vào bản chất của
KTTN khi xem xét trên cả 3 mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ
về tổ chức, quản lý và quan hệ về phân phối, tác giả luận văn nêu quan niệm
của mình về KTTN như sau: “KTTN là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và tương ứng với cách quản lý, phân phối phù hợp

với các hình thức sở hữu đó”.
1.1.1.2. Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân
Thứ nhất, kinh tế cá thể
Loại hình kinh tế cá thể là những hộ kinh doanh nhỏ, bao gồm những
cá nhân kinh doanh và nhóm cá nhân kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh
của Nghị định 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là


17
Chính phủ), các hộ chun sản xuất nơng, lâm,ngư nghiệp có tính chất tự sản,
tự tiêu và các hộ bn bán hàng hóa nhỏ. Như vậy, kinh tế cá thể được quy
định bởi hai tiêu thức là trình độ thấp và sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Dưới góc
độ kinh tế chính trị có thể hiểu: Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế của một hộ
gia đình hay một cá nhân những người nông dân, thợ thủ công, những người
buôn bán kinh doanh, dịch vụ.. .hoạt động dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất và sức lao động chủ yếu của chính bản thân họ.
Thứ hai, kinh tế tiểu chủ
Kinh tế tiểu chủ là những hộ kinh doanh cá thể, nhỏ, khơng địi hỏi vốn
lớn, khơng đăng kí vốn pháp định, do vậy các hộ này khơng cần có mức vốn
cao hon mức vốn pháp định như các doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình
có tổ chức đơn giản, để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc đăng
kí kinh doanh cũng rất đơn giản, chỉ cần UBND xã, UBND huyện cấp giấy
phép kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các trang trại, các làng nghề
hoặc các hộ sản xuất kinh doanh cũng có thể th mướn thêm lao động, ngồi
số lao động trong gia đình. Loại hình này gần đây phát triển rất nhanh, một
phần vì nó phù hợp với nhiều ngành nghề, một phần vì nó khơng cần lượng
vốn lớn.
Thứ ba, kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật khơng cấm. Tạo mơi

trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước
ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động;
liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các doanh nghiệp hoạt động theo quy
định của nhà nước, mà ở đó khơng có vốn đầu tư của nhà nước và nước ngoài.


18
Cụ thể cá loại hình DN sau đây cấu thành kinh tế tư bản tư nhân:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh. Theo quy định, người muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân phải
có một số vốn nhất định, số vốn này không được thấp hơn số vốn quy định
đối với từng ngành nghề kinh doanh trong q trình hoạt động có thể th
mướn lao động hoặc thuê người khác quản lí, điều hành doanh nghiệp.
- Cơng ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình doanh nghiệp trong đó,
các thành viên là tư nhân cùng góp vốn để thực hiện việc kinh doanh, cùng
chia sẻ lợi nhuận, cùng chịu lỗ theo tỉ lệ tương ứng với phần góp vốn và chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của cơng ty trong phạm vi vốn góp của mình.
- Cơng ty cổ phần: Theo Điều 10 Luật Doanh nghiệp sửa đổi quy định:
“Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia làm nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần; cổ đơng có thể là tổ chức hay cá nhân, số
lượng cổ đông tối thiểu là ba, không hạn chế về số lượng tối đa; cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; cổ đơng có quyền chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác theo luật quy định”; Đây là loại
hình có tư cách pháp nhân và có quyền huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khốn.
Cơng ty hợp danh: Theo Điều 172 Luật Doanh nghiệp sửa đổi thì cơng

ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó: Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu chung của cống ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây
gọi là thành viên hợp danh), ngồi các thành viên hợp danh cịn có các thành
viên góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty; thành viên góp vốn chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của cơng ty trong phạm vi vốn đã góp vào


19
cơng ty [12].
Đây là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể tư ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, song khơng được phép phát hành
bất kì loại chứng khốn nào.
Khi nghiên cứu bản chất của KTTN phải xem xét trên 3 mặt của quan
hệ sản xuất, đó là quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức, quản
lý và quan hệ về phân phối. Vì thế, để phân biệt rõ kinh tế cá thể với kinh tế
tiểu chủ và kinh tế tư nhân tư bản phải dựa trên 3 mặt đó. Cụ thể như sau:
- Đối với quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: cả 3 hình thức đều dựa trên
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, song kinh tế cá thể dựa trên sở hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất, là hình thức sở hữu của người lao động tự do, sản xuất ra sản
phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình và gia đình. Kinh tế tiểu chủ
về cơ bản cũng dựa trên sở hữu nhỏ về tư tư liệu sản xuất, nhưng có th
mướn sức lao động ngồi sức lao động của chính mình. Kinh tế tư bản tư
nhân được tổ chức theo các hình thức doanh nghiệp, cơng ty, tập đồn, hoạt
động dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mướn lao động. Tuy
nhiên không phải ai thuê mướn lao động cũng trở thành nhà tư bản, vì thế sự
phân biệt giữa nhà tư bản và tiểu chủ là ở chỗ khi người chủ còn trực tiếp
tham gia lao động hay không và đã là đủ một số tiền để mua tư liệu sản xuất
cần thiết và thuê lao động, cũng như đã có lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh
để tiêu dùng gia đình và tích lũy để tái sản xuất mở rộng hay chưa.

- Đối với quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh tế cá thể và
tiểu chủ dựa vào sự tự điều hành, tổ chức quản lý và phân cơng cơng việc
trong gia đình. Quan hệ giữa những người trong gia đình khơng phải là quan
hệ bóc lột mà là quan hệ gia trưởng. Còn kinh tế tư bản tư nhân, đã hình thành
quan hệ bóc lột và bị bóc lột, người cơng nhân chịu sự quản lý, kiểm sốt và
phụ thuộc vào ơng chủ.


×