Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Công tác tổ chức biên tập trong tòa soạn hai phiên bản ở báo địa phương miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 117 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUN TRUYỀN
---------------

TẠ VĂN LỘC

CƠNG TÁC TỔ CHỨC BIÊN TẬP
TRONG TÒA SOẠN HAI PHIÊN BẢN
Ở BÁO ĐỊA PHƯƠNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Khảo sát các báo:Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, năm 2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUN TRUYỀN
---------------



TẠ VĂN LỘC

CƠNG TÁC TỔ CHỨC BIÊN TẬP
TRONG TÒA SOẠN HAI PHIÊN BẢN
Ở BÁO ĐỊA PHƯƠNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(Khảo sát các báo:Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, năm 2014)

Ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Quang Hòa

Hà Nội, 2015


3

Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

TS. Nguyễn Trí Nhiệm


4

LỜI CAM ĐOAN


Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Luận văn được
hồn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang Hòa. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và khơng trùng lặp với những
cơng trình đã được cơng bố trước đây.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Văn Lộc


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠNG TÁC TỔ CHỨC
BIÊN TẬP TRONG TỊA SOẠN 2 PHIÊN BẢN..................................... 12
1.1 Khái niệm về tòa soạn 2 phiên bản ...................................................... 12
1.2. Khái niệm về tổ chức biên tập ............................................................ 16
1.3. Khái niệm về công tác tổ chức biên tập báo chí.................................. 21
1.4 Truyền thơng đa phương tiện hội tụ, một xu hướng phát triển tất yếu ..... 26
Chương 2: MƠ HÌNH TỔ CHỨC BIÊN TẬP TRONG TỊA SOẠN BÁO
HAI PHIÊN BẢN Ở BÁO ĐỊA PHƯƠNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC....... 32
2.1. Giới thiệu tổng quan về 3 tòa soạn báo Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc
Kạn ........................................................................................................... 32
2.2. Khảo sát và phân tích mơ hình tổ chức biên tập trong tịa soạn hai phiên
bản Báo Thái Nguyên. .............................................................................. 40
2.3. Khảo sát và phân tích mơ hình tổ chức biên tập trong tòa soạn hai phiên
bản tòa soạn Báo Cao Bằng....................................................................... 51
2.4. Khảo sát và phân tích mơ hình tổ chức biên tập trong tòa soạn hai phiên

bản ở Báo Bắc Kạn ................................................................................... 62
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CƠNG TÁC TỔ
CHỨC BIÊN TẬP TRONG TỊA SOẠN HAI PHIÊN BẢN Ở CÁC BÁO
ĐỊA PHƯƠNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC .................................................... 74
3.1. Một số giải pháp................................................................................. 74
3.2. Một số kiến nghị ................................................................................ 84
KẾT LUẬN................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 90
Phụ lục. ....................................................................................................... 95


6

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Trang chủ Báo Thái Ngun điện tử.......................................... 33
Hình 2.2. Báo Cao Bằng số ra 3/10/2014. ................................................. 35
Hình 2.3. Giao diện trang chủ Báo Cao Bằng điện tử................................ 35
Hình 2.4. Giao diện trang chủ Báo Bắc Kạn điện tử.................................. 38
Hình 2.5. Giao diện các chuyên mục trên Báo Thái Nguyên điện tử. ........ 39
Hình 2.6. Sơ đồ công tác kế hoạch tuyên truyền Báo Thái Nguyên. .......... 41
Hình 2.7. Báo Thái Ngun ln nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Cấp
ủy. Ảnh: Đồng chí Lê Văn Tuấn, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy thăm và làm việc tại Báo. ..................................................... 44
Hình 2.8. Mơ hình cơng tác biên tập tại Báo Thái Ngun........................ 45
Hình 2.9. Chỉ đạo cơng tác chế bản tại Báo Cao Bằng. ............................. 52
Hình 2.10. Sơ đồ sử dụng tin, bài và ảnh trên báo in và báo điện tử .......... 53
tại Báo Cao Bằng năm 2014...................................................................... 53
Hình 2.11. Mơ hình tổ chức Báo Cao Bằng............................................... 54
Hình 2.12. Quy trình công tác lên kế hoạch tại Báo Cao Bằng. ................. 55
Hình 2.13. Mơ hình quy trình biên tập tin trên BáoCao Bằng điện tử........ 56

Hình 2. 14. Mơ hình tổ chức biên tập tin trên Báo in báo Cao Bằng.......... 56
Hình 2. 15. Mơ hình quy trình biên tập bài cho Báo Cao Bằng điện tử...... 57
Hình 2.16. Mơ hình quy trình biên tập bài viết trên Báo Cao Bằng. .......... 58
Hình 2.17. Mơ hình tổ chức Báo Bắc Kạn................................................. 63
Hình 2.18. Mơ hình quy trình xây dựng kế hoạch tại Báo Bắc Kạn........... 64
Hình 2.19. Mơ hình quy trình biên tập ở báo hai phiên bản Bắc Kạn ....... 66
Hình 3.1. Mơ hình quy trình tổ chức biên tập đề xuất. .............................. 77


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tỉnh miền núi phía Bắc (gồm 14 tỉnh) có một vị trí đặc biệt quan
trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đối với cả nước. Đây
là vùng đất rộng lớn có đơng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như: Dao,
Mông, Nùng, Tày, Cao Lan, Sán Dìu….Trong vùng có nhiều tỉnh đã từng là
căn cứ địa cách mạng, có nhiều tỉnh giáp biên giới như: Cao Bằng, Lạng Sơn,
Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên…
Báo chí có vai trị quan trọng trong cơng tác tư tưởng. Từ rất sớm, các
tỉnh miền núi phía Bắc đã thành lập và tạo điều kiện phát triển 3 loại hình báo
chí: Báo in, báo phát thanh và báo truyền hình. Trong những năm gần đây,
các cơ quan báo chí các tỉnh trong vùng nắm bắt xu hướng phát triển đã đầu
tư phát triển các phiên bản Báo điện tử. Đây là phiên bản chính thức của báo
in, báo phát thanh, báo truyền hình trên mạng internet, góp phần gia tăng
những giá trị thơng tin, đa dạng hóa cách thức truyền tin, đáp ứng nhu cầu
thông tin nhanh hơn, đa dạng hơn cho cơng chúng.
Với ý nghĩa, vai trị là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, các
cơ quan báo tại các địa phương trong vùng đã nỗ lực không ngừng nhằm thực
hiện tốt các chức năng của mình tuyên truyền chủ trương chính sách, pháp

luật của Đảng, Nhà nước và cấp ủy chính quyền địa phương, nhằm tạo ra sự
đồng thuận xã hội, góp phần vào mục đích chung là củng cố, phát triển kinh
tế, xã hội, an ninh chính trị, quốc phịng tại các địa phương. Báo chí các tỉnh
trong vùng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác đấu tranh với những
thế lực thù địch, các tổ chức phản động, các hành vi, những thói hư, tật xấu
đang tồn tại ở mỗi địa phương.
Các cơ quan báo tại địa phương miền núi phía Bắc cũng đã nhận được
sự quan tâm đặc biệt của cấp ủy, chính quyền địa phương, đã không ngừng
đổi mới, ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng nội dung và


2

hình thức, đáp ứng nhu cầu và mong muốn ngày càng cao của nhân dân, nâng
cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền.
Mặc dù thời gian thực hiện chưa dài, nhưng việc ra đời phiên bản báo
điện tử trong cơ quan báo in các tỉnh miền núi phía Bắc đã và đang chứng
minh tính đúng đắn và hiệu quả tuyên truyền, thơng qua khai thác tính thời sự
của thơng tin, khai thác thế mạnh loại hình, nhất là việc truyền thơng tin
nhanh đến công chúng. Các phiên bản báo điện tử đã và đang khắc phục
những hạn chế của báo in. Có thể nói việc song hành thực hiện hai phiên bản:
Báo in và Báo điện tử ở tòa soạn báo tại các địa phương miền núi phía Bắc đã
tạo ra hướng đi mới.
Trong xã hội hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình
báo chí, diện phủ sóng, cơng nghệ… đã đặt ra sự cạnh tranh giữa các cơ quan
báo chí trên địa bàn tỉnh này với các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh khác,
giữa cơ quan báo chí Trung ương với các cơ quan báo chí trong tỉnh, giữa các
loại hình báo chí, giữa các nhà báo với nhau…Cạnh tranh là động lực phát
triển, song cạnh tranh cũng đặt ra những bài toán cho cơ quan báo chí, cho
mỗi nhà báo. Nếu một tờ báo thiếu tính cạnh tranh sẽ dần dần mất cơng

chúng, uy tín và nguồn thu của báo cũng vì thế sẽ giảm. Ra đời phiên bản báo
điện tử giúp các cơ quan báo tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên điều kiện đặt ra
đối với các báo là phải có tính chuyên nghiệp, sản phẩm báo chí phải bảo đảm
chất lượng nội dung, hình thức đẹp
Có thể nói rằng cơng tác tổ chức biên tập trong tòa soạn hai phiên bản báo
in và báo điện tử ở các địa phương miền núi phía Bắc có một ý nghĩa vơ cùng
quan trọng, quyết định tính chuyên nghiệp, hiệu quả, quyết định việc thông tin
trung thực, thông tin trúng, hay, hấp dẫn và thơng tin nhanh chóng, kịp thời. Nói
cách khác, cơng tác tổ chức biên tập sẽ quyết định chất lượng nội dung và hình
thức, làm tăng hiệu quả hoạt động của cơ quan báo, hạn chế những sai sót, tăng
tính hấp dẫn và tính định hướng cho cả báo in và báo điện tử ...


3

Việc làm tốt công tác tổ chức biên tập sẽ góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị của các cơ quan báo chí trong vùng, bảo đảm sự phát triển đi lên
của các cơ quan báo chí, thậm trí còn quyết định đến sự tồn tại hay phát triển
của cơ quan báo in.
Đáng tiếc, bên cạnh một số kết quả đạt được ban đầu, nhìn chung cơng
tác tổ chức biên tập ở các cơ quan báo chí hai phiên bản (báo in và báo điện
tử) ở các địa phương miền núi phía Bắc hiện vẫn bộc lộ nhiều yếu kém dẫn
đến hiệu quả thông tin chưa cao, chưa hấp dẫn cơng chúng, thậm trí cịn để
xảy ra những sai sót. Một trong những tồn tại phải kể đến đó là: Bộ máy biên
tập còn cồng kềnh, nhưng áp lực công việc vẫn cao, kém hiệu quả, sự chồng
chéo giữa các bộ phận vẫn tồn tại, nhất là tác nghiệp của phóng viên giữa các
phịng, ban hay các loại hình ấn phẩm. Tình trạng tin, bài chữ nhiều nhưng ít
thơng tin, cịn nhiều sai sót về câu, ngữ pháp vẫn phổ biến, hình ảnh nhiều khi
khơng ăn nhập lời bình. Có q nhiều tin hội nghị, ít tin, bài mang hơi thở
cuộc sống.

Hiện nay việc tổ chức biên tập, vận hành sản xuất và xuất bản hai phiên
bản báo in và báo điện tử ở các tòa soạn báo các tỉnh miền núi phía Bắc đang
gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong tổ chức biên tập. Trên thực tế các cơ
quan báo đều tổ chức hai tòa soạn riêng biệt dẫn đến bộ máy cồng kềnh mà
vẫn xảy ra nhiều sai sót, thơng tin chậm, hiệu quả thơng tin khơng cao…
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng cơng tác biên tập tại các cơ quan báo
hai phiên bản: báo in và báo điện tử tại các địa phương miền núi phía Bắc trở
thành nhu cầu cấp thiết. Đó cũng là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “
Công tác tổ chức biên tập trong tòa soạn hai phiên bản ở báo địa phương miền
núi phía Bắc” để làm Luận văn Thạc sĩ chun ngành Báo chí học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong quá trình tiếp cận, tìm hiểu đề tài, tác giả đã cố gắng sưu tìm các
cơng trình nghiên cứu khoa học, các đề tài, bài viết, tư liệu…có liên quan đến


4

biên tập, quy trình biên tập nói chung và cơng tác tổ chức biên tập, quy trình
biên tập báo chí nói riêng… Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu liên quan
đến cơng tác tổ chức biên tập, quy trình cơng tác biên tập khá nhiều, nhưng chỉ
có một số ít đề tài, bài viết…có cách tiếp cận gần gũi với đề tài tác giả luận văn
thực hiện như:
- Claudia Mast, Công tác biên tập, NXB Thông tấn, 2003: Tác giả đã đề cập
đến nhiệm vụ cơng tác biên tập nói chung, những kỹ năng công tác biên tập…
- PGS,TS. Nguyễn Văn Dững, Cơ sở lý luận Báo chí, NXB Lao động:
Tác giả đề cập đến những nguyên lý chung nhất về lý luận, những quan niệm
chung về báo chí, tính giai cấp của báo chí, chức năng báo chí, các nguyên tắc
hoạt động báo chí, cơ sở về lý luận báo chí, bản chất của hoạt động báo chí, …
- PGS,TS. Nguyễn Văn Dững, Báo chí Truyền thơng hiện đại, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2011: Tác giả đề cập đến hệ thống khái niệm truyền

thông đại chúng, một số vấn đề đặt ra đối với báo chí, đối tượng, cơ chế tác
động của báo chí…
- Ths Hà Huy Phượng, Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in,
NXB Lý luận Chính trị, 2006: Tác giả đề cập đến việc tổ chức sản xuất nội
dung trong cơ quan báo, cơng tác trình bày báo…
- Tác giả Đức Dũng trong cuốn Viết Báo như thế nào, NXB Văn hóa –
Thơng tin, 2006: Tác giả đề cập đến cơng tác sáng tạo tác phẩm báo chí, những
kỹ năng sáng tạo tác phẩm báo chí, thể loại báo chí…
- Trong cuốn “Khám phá nghề biên tập”, NXB Trẻ, 2013, nhà báo Ngọc
Trân đã gọi nghề biên tập là nghề bí ẩn. Tác giả đã cung cấp các vấn đề chung
nhất của công tác biên tập, thế nào là một biên tập viên chuyên nghiệp..
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Tác phẩm báo chí (tập 2), NXB Lý
luận chính trị, 2006: Sách đề cập đến những loại hình báo chí, đặc điểm của từng
loại hình tác phẩm báo chí, kỹ năng sản xuất từng loại hình tác phẩm báo chí…


5

- TS. Nguyễn Quang Hịa, Biên tập báo chí, NXB Thông tin và Truyền
thông, 2015: Tác giả đề cập đến những nội dung liên quan đến công tác biên tập,
quy trình cơng tác biên tập, kỹ năng cơng tác biên tập báo chí…
- TS. Lê Thị Nhã, Lao động Nhà báo – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB
Thông tin và Truyền thông, 2010. Tác giả đã đề cập đến các khái niệm nhà báo,
các phẩm chất và năng lực nghề báo. Tác giả cũng đã đề cập sâu vai trị nhiệm vụ
của Tổng Biên tập, Phó Tổng Biên tập, Ban thư ký tòa soạn và Biên tập viên…
- TS. Nguyễn Thành Lợi, Tác nghiệp Báo chí trong mơi trường truyền thông
hiện đại, NXB Thông tin và Truyền thông, năm 2014. Tác giả đã đề cập đến lý
thuyết truyền thơng, hội tụ truyền thơng, tịa soạn hội tụ. Tác giải còn đề cập sâu
đến các yêu cầu đối với nhà báo trong môi trường truyền thông hội tụ…
- Michael Voirol, Hướng dẫn cách biên tập, NXB, 2004: Tác giả đề cập

đến thao tác công tác biên tập, đặc trưng công tác biên tập, cách thức thực hiện
tốt công tác biên tập…
- TS. Vũ Quang Hào, Ngơn ngữ báo chí, NXB Thông Tấn, 2012: Tác giả
đề cập đến những vấn đề chung nhất về ngôn ngữ, chỉ ra những nét đặc thù của
ngơn ngữ báo chí, hiệu quả của việc dùng ngôn ngữ…
- TS. Nguyễn Trường Giang, Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản,
NXB Chính trị Quốc gia, năm 2014: Tác giả đã đề cập những nét đặc trưng cơ
bản của báo mạng điện tử; mơ hình tịa soạn và quy trình sản xuất thơng tin của
báo mạng điện tử. Tác giả đã đề cập sâu đến những đặc trưng của Báo mạng
điện tử…
Bên cạnh đó cịn một số luận văn Thạc sĩ báo chí như:
- Phẩm chất năng lực của đội ngũ biên tập viên lý luận chính trị ở nước ta
giai đoạn hiện nay tác giả Nguyễn Hồng Mai, 2011.
- Cơng tác biên tập trong hoạt động liên kết xuất bản sách lý luận chính
trị Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính


6

- Mơ hình tổ chức tịa soạn báo in đối ngoại ở nước ta của tác giả Lê
Ngọc Diệp, Hoàng Trung Hiếu, 2011.
- Nhận diện sai phạm về nội dung thơng tin trên báo chí hiện nay của tác
giả Bùi Thị Thu Thanh, 2008.
- “Ngơn ngữ báo chí Internet” của tác giả Phạm Thu An – Khoa Báo chí,
ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
- Phát thanh trên mạng Internet của tác giả Nguyễn Sơn Minh – Khoa
Báo chí, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
- Đặc điểm cơng chúng độc giả báo chí Internet của tác giả Hà Thu Hương
– Phân viện Báo chí tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM.
- Kỹ năng tác nghiệp của Nhà báo trong tòa soạn có báo in và Báo mạng

điện tử ở Tây nam Bộ hiện nay của tác giả Nguyễn Quốc Doanh, 2015.
- Tịa soạn hội tụ ở nước ngồi và kinh nghiệm cho Việt Nam của tác giả
Lê Thị Hoàn, 2013.
- Tổ chức hoạt động cơ quan báo chí đa phương tiện tại Đài PT – TH
Quảng Ninh hiện nay của tác giả Trần Thị Thùy Liên, 2013.
- Thực trạng và giải pháp xử lý thơng tin trong tịa soạn báo mạng điện tử
Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Hồng Vân, 2007.
- Báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ của tác giả Hồ Thị Hiền, 2009.
Ở các đề tài này các tác giả có đề cập ít nhiều đến công tác biên tập, đặc
thù công tác biên tập của từng loại hình báo chí, việc nhận diện những sai sót từ
khâu biên tập, cách thức tổ chức mơ hình tịa soạn để nâng cao cơng tác biên tập,
những vấn đề lý luận về công tác tổ chức biên tập nói chung và biên tập báo chí
nói riêng nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu cơng tác tổ chức biên tập ở
tòa soạn hai phiên bản, đặc biệt là công tác tổ chức biên tập trong tòa soạn hai
phiên bản ở báo địa phương các tỉnh miền núi phía Bắc…


7

Tác giả luận văn hy vọng qua đề tài này sẽ góp thêm tiếng nói vào lý luận
chung về cơng tác tổ chức biên tập, công tác tổ chức biên tập trong tòa soạn hai
phiên bản nhằm nâng cao chất lượng thơng tin, đổi mới hình thức, tăng tính hấp
dẫn của thơng tin trên các sản phẩm báo chí, nhất là ở các cơ quan báo địa
phương các tỉnh miền núi phía Bắc. Đồng thời, hy vọng những kết quả của đề
tài nghiên cứu này cũng là tài liệu tham khảo đối với các cơ quan báo chí của
các tỉnh khác và cả nước, là tài liệu phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu
và giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo.
3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
3.1.Câu hỏi nghiên cứu
- Hiện nay việc phát triển các phiên bản báo điện tử, ở các cơ quan báo

in các tỉnh miền núi phía Bắc như thế nào?
- Công tác tổ chức biên tập hiện nay trong tịa soạn báo có hai phiên bản
Báo in và Báo điện tử? Những thuận lợi và khó khăn trong cơng tác tổ chức
biên tập?
- Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, tồn tại hiện nay trong công tác
tổ chức biên tập ở các cơ quan báo hai phiên bản tại các địa phương miền núi
phía Bắc?
- Những nhân tố nào sẽ tác động trực tiếp đến công tác biên tập trong
toà soạn hai phiên bản?
- Giải pháp nào để áp dụng mơ hình biên tập trong tịa soạn hai phiên
bản tại các cơ quan báo chí miền núi phía Bắc hiện nay?
3.2.Giả thuyết nghiên cứu
- Công tác tổ chức biên tập tại các tòa soạn báo hai phiên bản Báo in
và Báo điện tử ở các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn cịn gặp nhiều khó khăn,
đang là vấn đề đặt ra cần đổi mới. Do đó, cần nghiên cứu sâu vấn đề này để
đưa ra giải pháp phù hợp.


8

- Các biên tập viên, phóng viên biên tập cịn nhiều hạn chế trong tác
nghiệp, biên tập đối với loại hình báo chí đa phương tiện nếu khơng sớm được
tổ chức lại sẽ dẫn đến rối loạn.
- Lãnh đạo cơ quan báo chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa có chế
độ khuyến khích biên tập viên, phóng viên biên tập sáng tạo tác phẩm báo chí
đa phương tiện, đa loại hình.
- Tăng cường cơng tác đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội
ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, kỹ tuật viên đồ họa trong các cơ
quan báo chí địa phương có hai phiên bản nhằm nâng cao chất lượng thông
tin, tuyên truyền và hiệu quả hoạt động bộ máy.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
+ Khảo sát, phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về Cơng tác
tổ chức biên tập trong tịa soạn báo hai phiên bản ở địa phương khu vực miền
núi phía Bắc với đại diện khảo sát Báo Thái Nguyên, Báo Cao Bằng và Báo
Bắc Kạn. Từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những tồn
tại, hạn chế trong công tác tổ chức biên tập.
+ Từ kết quả khảo sát, phân tích trên, tác giả đặt ra những yêu cầu cho
công tác tổ chức biên tập, xây dựng quy trình cơng tác biên tập ở tồ soạn hai
phiên bản các cơ quan báo địa phương miền núi phía Bắc.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn xác định thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác biên tập và tổ chức biên
tập trong tòa soạn hai phiên bản báo in và báo điện tử .
- Làm rõ cơ sở lý luận về mơ hình tổ chức tịa soạn báo hai phiên bản.
- Khảo sát thực trạng công tác tổ chức biên tập trên Báo Thái Nguyên;
Báo Cao Bằng và Báo Bắc Kạn


9

- Phân tích, đánh giá những mặt đạt được, hạn chế trong công tác tổ
chức biên tập và chỉ ra nguyên nhân của những kết quả đạt được, hạn chế
thiếu sót đó.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng cơng tác biên tập báo chí nói chung, cơng tác tổ chức biên tập ở các
toàn soạn báo hai phiên bản miền núi phía Bắc nói riêng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu công tác tổ chức biên tập trên Báo Thái Nguyên , Báo Cao
Bằng và Báo Bắc Kạn. Tìm hiểu việc xây dựng kế hoạch của phóng viên, lập
kế hoạch tuyên truyền của Ban Biên tập, tổ chức thực thiện, quy trình biên
tập, trình độ Biên tập viên, công tác xuất bản.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thực tế tại ba cơ quan: Báo Thái Nguyên , Báo Cao Bằng và
Báo Bắc Kạn trong năm 2014.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tham khảo thêm mo hình tổ chức
biên tập các cơ quan báo khác.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhất là những nội dung liên quan
đến cơng tác tư tưởng và báo chí; các cơng trình nghiên cứu khoa học đã được
công bố; các tài liệu khoa học phục vụ công tác giảng dạy tại các nhà trường…
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa
học xã hội như: Phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp phỏng vấn sâu;
các phương pháp: thống kê, so sánh, tổng hợp; quan sát thực tiễn; thảo luận


10

nhóm… để thu thập những cứ liệu đa dạng, phong phú và khách quan về đối
tượng nghiên cứu. Sau khi thu thập được thông tin, tác giả sẽ tiến hành xử lý
và phân tích nhằm đạt những mục đích đã đề ra.
7. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đánh giá đúng thực trạng công tác tổ chức biên tập ở tòa soạn
hai phiên bản Báo Thái Nguyên , Báo Cao Bằng và Báo Bắc Kạn, từ đó đề ra

những giải pháp, kiến nghị mơ hình tổ chức mới nhằm nâng cao chất lượng
công tác biên tập và tổ chức biên tập cho các báo trong vùng.
Những kết quả nghiên cứu sẽ giúp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức
biên tập, đồng thời giúp các các tác phẩm báo của các cơ quan báo ở địa
phương các tỉnh miền núi phía Bắc, hấp dẫn hơn, tăng tính cạnh tranh và phát
triển mạnh hơn nữa góp phần hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
8.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là cơng trình ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ về cơng tác tổ chức biên
tập trong tịa soạn hai phiên bản ở báo địa phương các tỉnh miền núi phía
Bắc, khảo sát đại diện các báo: Báo Thái Nguyên, Báo Cao Bằng và Báo
Bắc Kạn. Luận văn sẽ làm sáng tỏ thực trạng, tìm hiểu các nguyên nhân,
khẳng định vị trí, vai trị, đặc điểm, quy trình cơng tác biên tập, đồng thời
cung cấp những giải pháp có tính khả thi để nâng hiệu quả công tác tổ chức
biên tập, từ đó nâng cao chất lượng cơng tác tổ chức biên tập, nêu lên
những đề xuất, kiến nghị cấp ủy chính quyền địa phương, các cơ quan báo,
Hội Nhà báo.
Luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của cơng tác tổ chức biên tập báo nói chung và
cơng tác tổ chức biên tập trong tịa soạn báo hai phiên bản tại các cơ quan báo
ở các địa phương nói riêng trên địa bàn cả nước nói chung.


11

8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, luận văn đề ra một số giải pháp cho
cơng tác tổ chức biên tập trong tịa soạn hai phiên bản ở các báo khảo sát nhằm
góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả công tác biên tập trước yêu cầu mới. Với
kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng công tác tổ chức biên tập trên Báo Thái

Nguyên, Báo Cao Bằng và Báo Bắc Kạn, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho
các nhà lãnh đạo và quản lý báo chí tại các địa phương hiện nay, là tài liệu phục
vụ công tác giảng dạy cho các nhà trường, các cơ sở đào tạo.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
các nội dung chính của luận văn được bố trí trong 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác tổ chức biên tập trong tịa
soạn hai phiên bản.
Chương 2: Mơ hình tổ chức biên tập trong tòa soạn báo hai phiên bản ở
các địa phương miền núi phía Bắc.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị về công tác tổ chức biên tập
trong tòa soạn hai phiên bản ở các địa phương miền núi phía Bắc.


12

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC BIÊN TẬP
TRONG TÒA SOẠN 2 PHIÊN BẢN
1.1 Khái niệm về tòa soạn 2 phiên bản
1.1.1 Khái niệm tòa soạn
Cơ quan báo chí thường gọi là tịa soạn báo. Thuật ngữ này được dùng
phổ biến nhất đối với các cơ quan báo in. Tịa soạn thường mang hai ý nghĩa
chính đó là: Tịa soạn có nghĩa là tu sửa, điều chỉnh, gọt rũa; là sự sắp xếp,
sắp đặt, sửa soạn theo trật tự, nề nếp và quy củ.
Trên thực tế có một số quan niệm khác nhau về tòa soạn báo chí:
Ở các nước tư bản chủ nghĩa cho rằng tịa soạn báo chí cũng như các
cơ quan, xí nghiệp đầu vào thông tin, đầu ra thông tin nhưng phải mang lại
lợi nhuận.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa cho rằng: Tịa soạn báo chí phải phục vụ

lợi ích nhân dân đặc biệt là nhân dân lao động. V.I. Lenin đã khái quát về tòa
soạn báo như sau: “ Tòa soạn báo chí phải là những người tuyên truyền tập
thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể”.
Theo PGS. TS Đinh Văn Hường thì: Tịa soạn báo chí là cơ quan do
Đảng, Chính quyền, các tổ chức và đồn thể xã hội lập ra để xuất bản báo chí
theo quy định của pháp luật. Đó là cơ qua ngơn luận của mỗi tổ chức nhất
định, thực hiện tơn chỉ mục đích, nhiệm vụ do tổ chức đó đặt ra bằng những
phương tiện và biện pháp đặc biệt”. [ 19, tr12].
Một số ý kiến khác cho rằng, tòa soạn báo là việc biên tập, sửa soạn, tổ
chức trang báo…
Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về báo chí và từ các khái
niệm nêu trên chúng ta có thể rút ra điểm chung nhất về tồn soạn báo: Tịa soạn
báo là cơ quan báo chí. Đây là cơ quan ngơn luận của Đảng, của chính quyền và


13

các tổ chức, đoàn thể xã hội lập ra để xuất bản báo theo quy định của pháp luật.
Đó là cơ quan ngôn luận của một tổ chức nhất định, thực hiện tơn chỉ, mục đích,
nhiệm vụ do tổ chức đó đặt ra bằng những phương tiện và biện pháp đặc biệt.
1.1.2. Khái niệm về tịa soạn 2 phiên bản
Tồn soạn hai phiên bản là tịa soạn có hai loại hình báo chí có thể là
Báo in và Báo mạng điện tử, có thể báo phát thanh và Báo mạng điện tử.... Bộ
máy hoạt động trong tòa soạn đồng thời tổ chức thực hiện tuyên truyền trên
hai loại hình báo chí, có thể là báo in và báo mạng điện tử; có thể là báo phát
thanh và báo mạng điện tử; Báo truyền hình và báo mạng điện tử…
Tịa soạn Báo in: Là tịa soạn có tổ chức bộ máy hoạt động báo chí và
truyền tải thơng tin thơng qua sản phẩm in ấn.
Tòa soạn Báo điện tử: Là tòa soạn có bộ máy hoạt động báo chí truyền
tải thơng tin thơng qua hệ thống internet, có ưu thế trong chuyển tải thơng tin

nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện và tương tác cao.
Tịa soạn báo in có báo báo mạng điện tử là tịa soạn có hai phiên bản,
hai loại hình báo chí gồm báo in và báo mạng điện tử cùng tồn tại và hoạt
động trong cùng cơ quan báo in. Nói theo cách khác đó là tịa soạn báo chí đa
phương tiện.
Theo quan điểm của TS. Hà Huy Phượng trong tham luận “ Sáu vấn đề
về báo chí đa phương tiện” tại Hội thảo khoa học “ Bồi dưỡng các kỹ năng
cho người làm báo đa phương tiện” thì: “ Về góc độ ngơn ngữ, đa phương
tiện được phân tích ở dạng sử dụng đa mã ngơn ngữ để biểu đạt thơng tin.
Trong mơ hình truyền thơng truyền thống, nội dung thông điệp đưa ra được
biểu đạt bằng đơn mã ngôn ngữ như: Văn bản, âm thanh, hình ảnh ( tĩnh hoặc
động)…để phù hợp với từng loại hình và kênh truyền tải khác nhau. Trong
truyền thơng đa phương tiện, nội dung thông điệp đưa ra được biểu đạt bằng
sự tích hợp đa mã ngơn ngữ như: Văn bản, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, âm


14

thanh và các chương trình cơng tác để phù hợp với từng loại hình và kênh
truyền tải khác nhau. [14, tr12].
Cũng về nội dung này, TS. Đỗ Trung Tuấn (Đại học Quốc gia Hà Nội),
nêu quan điểm: “ Đa phương tiện có nghĩa rộng, là tổ hợp của văn bản, hình,
hoạt hình, âm thanh và video. Các loại hình đa phương tiện có tương tác với
nhau. Ba loại đa phương tiện tương tác thông dụng là: Thể hiện tuần tự; theo
các nhanh chương trình hóa; siêu đa phương tiện”. [5, tr180].
Còn theo TS. Nguyễn Trường Giang trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Bồi dưỡng các kỹ năng cho người làm báo đa phương tiện thì: Đa phương tiện
trên báo mạng điện tử là việc sử dụng nhiều loại phương tiện ( ngôn ngữ văn
tự và phi văn tự) để thực hiện và tạo nên một sản phẩm báo chí. Một sản
phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện khi nó tích hợp nhiều

trong số các phương tiện truyền tải thơng tin sau: Văn bản, hình ảnh tĩnh, hình
ảnh động, đồ họa, âm thanh, video và các chương trình tương tác. [14, tr64]
Nhận thấy thế mạnh của Báo mạng điện tử, hàng loạt các cơ quan báo
đã tiến hành đầu tư và chạy thử nghiệm phiên bản báo điện tử. Ngày
21/6/1998, Báo nhân dân điện tử ( http:\\nhandan,vn) chính thức phát hành
trên mạng internet. Ngày 3/2/1999, Đài tiếng nói Việt Nam hịa mạng với tên
miền http:\\vovnews.vn….
Theo Bộ Thơng tin và Truyền thơng cả nước hiện có hàng chục báo điện
tử, hàng trăm trang điện tử đang hoạt động.
Lâu nay các tịa soạn báo thực hiện một loại hình báo chí là báo in, hoặc
báo mạng điện tử. Do vậy phạm vi thơng tin, chất lượng và hình thức truyền
tải thơng tin cịn gặp khá nhiều khó khăn, những hạn chế của loại hình báo chí
khơng được bù đắp, những thế mạnh loại hình báo chí khơng được phát huy,
sức mạnh công nghệ không được khai thác…
Tuy nhiên trong xu hướng phát triển mới ngày nay, nhiều tòa soạn báo
trên thế giới và trong nước đã xây dựng mô hình tịa soạn đa phương tiện


15

trong đó có ít nhất hai loại hình báo chí trong một tòa soạn lấy báo mạng điện
tử là trung tâm sự phát triển. Từ hình thức chuyển đổi này đã làm xuất hiện
khái niệm tòa soạn hội tụ.
Tòa soạn hai phiên bản là tòa soạn hội tụ hai loại hình báo chí. Đây là
tịa soạn trên cơ sở một bộ máy nhưng thực hiện cung cấp thông tin cùng lúc
cho hai loại hình báo chí là Báo in và Báo mạng điện tử.
Theo TS Trương Thị Kiên thì tịa soạn hội tụ là một trung tâm sản xuất
và phân phối tin tức cho đa phương tiện.
Theo PS Nguyễn Thị Trường Giang trong một cơng trình nghiên cứu
thì: Tịa soạn hội tụ là nơi gặp gỡ các loại hình truyền thơng trong cùng trong

một tịa soạn …
Thực ra, từ đầu những năm 1980, các chuyên gia về truyền thông trên
thế giới đã bắt đầu đặt ra khái niệm “tòa soạn hội tụ”. Người ta cũng sớm dự
báo đây sẽ là xu hướng tất yếu khi công nghệ thông tin phát triển, truyền
thơng số “qua mặt” báo chí truyền thống nhờ vào ưu thế vượt trội về không
gian và tốc độ.
Trên cơ sở phân tích quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu chúng ta có
thể rút ra: Tịa soạn hai phiên bản là tịa soạn có hai loại hình báo chí trở lên
gồm báo in và báo mạng điện tử hoặc hai loại hình báo chí khác.
1.1.3. Đặc trưng của Tịa soạn hai phiên bản
Tịa soạn hai phiên bản có chức năng phát hành được hai sản phẩm báo
chí là báo in, báo mạng điện tử …
Với Tòa soạn hai phiên bản có thể sử dụng đa loại hình sản phẩm báo chí
để cung cấp thơng tin cho cơng chúng: Đưa tin bằng chữ, bằng ảnh, bằng video,
bằng âm thanh…tùy thuộc vào nội dung, tính chất sự kiện để đáp ứng thông tin
đa dạng, phong phú, dễ tiếp nhận cho nhiều đối tượng công chúng khác nhau.


16

Tịa soạn báo hai phiên bản ở đó có sự kết hợp linh hoạt các loại hình
báo chí để tạo ra những sản phẩm báo chí phù hợp cho từng loại hình và
hướng đến nhu cầu và thị hiếu cao nhất của cơng chúng.
Khi nói đến tịa soạn báo hai phiên bản, người ta nghĩ đến tịa soạn có hai
hình thức truyền tải thông tin khác nhau, nhưng được tổ chức trong cùng bộ
máy, hạ tầng kỹ thuật dựa trên nền tảng của mơ hình tịa soạn báo có trước ( báo
in). Ví dụ tịa soạn báo hai phiên bản: Báo Cao Bằng và Báo Cao Bằng điện tử
được phát triển và tổ chức thực hiện trên nền tảng Báo in tỉnh Cao Bằng – Cơ
quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng.
Tòa soạn hai phiên bản buộc bộ máy làm việc chun biệt cho một loại

hình trước đó phải làm việc bằng hai. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên phải
thay đổi tư duy, phương thức làm việc theo kiểu truyền thống chuyên biệt cho
báo in sang phương thức làm việc năng động, đa năng, sử dụng nhiều phương
tiện kỹ thật hiện đại, đa kỹ năng tác nghiệp cho hai loại hình báo chí: Báo in
và Báo mạng điện tử.
Ví dụ: Khi phóng viên, biên tập viên làm việc trong Tịa soạn báo in thì
chỉ cần kỹ năng viết tin, bài, chụp ảnh cho báo in. Khi có thêm phiên bản điện
tử, phóng viên, biên tập viên cần biết thêm các kỹ năng viết tin, bài chụp ảnh
cho báo in, viết tin, bài, chụp ảnh, quay phim, dẫn hiện trường, đọc lời bình,
ghi âm, dựng hình cho Báo điện tử…
1.2. Khái niệm về tổ chức biên tập
1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ Biên tập là tổ chức biên soạn, sửa sang nội
dung và hình thức diễn đạt, tổ chức trình bày hình thức để hồn thành bản
thảo đưa in. Biên tập viên là người làm công tác biên tập, tổ chức biên soạn,
góp ý kiến với tác giả, kiểm tra những sai sót của bản thảo, tài liệu đưa xuất
bản” [ 69, tr.63].


17

Tổ chức biên tập là bố trí bộ máy vận hành theo quy trình làm cơng tác
biên tập nhằm sửa soạn nội dung và hình thức tác phẩm báo chí nhằm cung
cấp thông tin đầu ra tốt nhất cho công chúng.
1.2.2.Vai trò và nhiệm vụ biên tập và biên tập viên
Biên tập có vai trị quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch tun
truyền, bố trí bộ máy làm cơng tác biên tập sửa sang bài viết, thiết kế trang
báo để đưa sản phẩm báo chí đến vối cơng chúng là sản phẩm tinh, khơng
có sạn.
Trong tịa soạn báo có khá nhiều biên tập viên: Biên tập viên văn bản,

biên tập viên ảnh, biên tập viên hình…. Các biên tập viên được phân cấp theo
chức vụ: Biên tập viên, Trưởng Phịng Thư ký Tịa soạn, Phó Tổng Biên tập,
Tổng Biên tập. Mỗi người có trách nhiệm khác nhau. Tổng Biên tập là người
có quyền cao nhất. Tuy nhiên nhiệm vụ của các biên tập viên đều có nét
tương đồng. Sự phân biệt chức danh nhiều khi chỉ là hình thức, không phải
dựa trên nội dung công việc. Thực tế nhiệm vụ của những người có chức danh
khác nhau là hồn toàn giống nhau.
Các biên tập viên thường khác nhau về trình độ, kinh nghiệm và mức độ
chịu trách nhiệm. Tuy nhiên trong cùng một ṭa soạn họ cùng gánh vác và chia
sẻ một nhiệm vụ chung: Lên kế hoạch, tổ chức thực hiện và bảo đảm chất
lượng của tin, bài. Sau mỗi bài báo đều có bàn tay của biên tập. Biên tập viên
là người tổ chức thực hiện, họ giám sát, thẩm định, định hướng hỗ trợ cho
phóng viên. Biên tập viên là người quyết định bài báo trình bày như thế nào.
Biên tập viên tham gia nhiều vào hoạt động sửa chữa bài vở, cân nhắc việc
dùng ảnh hay đồ họa như thế nào cho phù hợp với bài báo.
Trong cuốn “ Cơ sở lý luận báo chí”, PGS, TS Nguyễn Văn Dững cho
rằng: Lao động biên tập khơng nên coi đó là hoạt động sửa chữa tin, bài, biên tập
kịch bản,…của biên tập viên hay cán bộ quản lý phịng, ban chun mơn nghiệp
vụ của tịa soạn, tham gia hồn thiện, nâng cấp tác phẩm báo chí trước khi lên


18

trang in hay phát sóng. Trên thực tế, lao động biên tập thể hiện ở nhiều khâu
công việc quan trọng khác nữa .Ví dụ xây dựng kế hoạch, nhất là chiến dịch
thông tin, truyền thông ( Bao gồm kế hoạch dài hạn, ngắn hạn và xử lý tình
huống đột xuất); chủ động thiết lập và duy trì các mối quan hệ với phóng viên,
cộng tác viên và các đối tác của tịa soạn…; xây dựng chủ đề thơng tin của trang
báo, số báo hay chương trình phát thanh, truyền hình; xử lý các sự kiện, vấn đề
và khủng hoảng. Như vậy, sửa chữa tin bài, tham gia hoàn thiện tác phẩm báo

chí chỉ là một trong nhiều cơng việc của lao động biên tập. [ 19, tr.269].
Biên tập viên tạo ra mơi trường để sản phẩm báo chí ra đời một cách
thuận lợi và tốt nhất. Họ tổ chức các trang báo để làm sao cho các bài báo trở
nên hấp dẫn với bạn đọc.
Biên tập viên sẽ quan tâm đến mọi chi tiết. Đối với biên tập viên chuyên
nghiệp và yêu nghề họ thường nghĩ đến công chúng, uy tín tờ báo và làm sao
trong tương lai gần và xa mình ngày càng biên tập tốt hơn.
Vai trị của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát
triển của truyền thơng nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của
biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết
giản dị, dễ hiểu. Để làm cơng việc vừa nói một cách hồn mỹ, người biên tập
cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được
sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn
chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dịng thời sự chủ lưu, có trí phán đốn, sự
un bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức
tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Khác với
phóng viên, Biên tập viên là người trực tiếp quyết định nội dung và hình thức
đưa đến cơng chúng.
Trong cuốn “ Lao động nhà báo – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản”, tác giả
Lê Thị Nhã cho rằng: “…Biên tập là những người được tin cậy để các tác giả
có thể trao gửi “ đứa con tinh thần” mà mình thai nghén với hy vọng tác phẩm
ra đời sẽ “ mẹ trịn, con vng”. Biên tập viên là một trong những cánh tay


19

nối dài của Ban Biên tập. Họ giúp cho tác phẩm đúng hơn, hay hơn, đến với
công chúng dễ dàng hơn…[45, tr.53].

1.2.3.Yêu cầu đối với biên tập viên

Người biên tập viên phải có đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng.
V.I.Lenin, nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp cơng nhân thế giới coi báo chí
cách mạng là vũ khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân và u cầu mỗi cơ quan
báo chí phải là một pháo đài tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn
hóa thế giới, vị lãnh tụ kính u của chúng ta thì khẳng định: Cán bộ báo chí
cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Vì
trách nhiệm lớn lao đó, để hồn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo
chí phải tu dưỡng đạo đức cách mạng. [59, tr.243].
Tóm lại người biên tập phải có đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vảng
mới hồn thành được nhiệm vụ. Hơn thế đạo đức và bản lĩnh chính trị của người
biên tập phải hịa quyện vào đạo đức nghề nghiệp và đạo đức cách mạng.
Người biên tập phải am hiểu cuộc sống sâu sắc: Như chúng ta được biết
báo chí ln phản ánh thực tiễn mà người biên tập vừa có nhiệm vụ lên kế
hoạch tuyên truyền, vừa có nhiệm vụ biên tập, tổ chức trang báo, số báo do
vậy để hồn thành tốt vai trị, chức năng của mình địi hỏi mỗi biên tập viên
phải am hiểu cuộc sống sâu sắc.
Đề cập đến vấn đề này Nhà báo Hữu Thọ trong cuốn “Công việc của
người viết báo” đã nêu quan điểm: Đã làm báo trước hết phải gắn với các vấn
đề thời sự…Tính thời sự của báo là vấn đề quan trọng số một. Để đảm bảo
tính thời sự, chúng ta phải thơng tin cho bạn đọc cái gì xảy ra hơm nay trên
đất nước ta, trên thế giới. Nếu nhà báo không gắn với cuộc sống thì làm sao
trả lời được câu hỏi: Cái gì xảy ra hơm nay trong cuộc sống và ý nghĩa của nó
như thế nào để thơng tin đến cơng chúng. [62, tr.58-59].


×