MỤC LỤC
M C L C ................................................................................................................. i
1.3 Kinh nghi m v các th t c soát xét trong quy trình ki m toán báo cáo
t i chính t i m t s công ty ki m toán c l p t i Vi t Namà ....................29
BẢN PHÊ CHUẨN ĐỐI VỚI VIỆC LẬP, SOÁT XÉT VÀ PHÁT HÀNH BÁO
CÁO ................................................................................................... 55
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. ACCA : Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh
2. BCTC : Báo cáo tài chính
3. IAS : Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế
4. IFC : Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính quốc tế
5. PwC : Công ty TNHH Pricewaterhouse Coopers Việt nam
6. TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
7. VACPA : Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
8. VAS : Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TRANG
I. CÁC BẢNG
Bảng số 2.1: Mẫu giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 44
Bảng số 2.2: Bản phê duyệt tiếp tục thực hiện cung cấp dịch vụ cho
khách hàng của Công ty IFC
46
Bảng số 2.3: Mẫu bảng tổng hợp kết quả soát xét 52
Bảng số 2.4: Mẫu bản phê chuẩn đối với việc lập, soát xét và phát hành
báo cáo
54
II.SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1 Ba giai đoạn trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính 8
Sơ đồ 1.2 Lập kế hoạch kiểm toán 10
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Công ty IFC 37
Sơ đồ 2.2: Quy trình kiểm toán tại Công ty IFC với thủ tục soát xét 39
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu nhân sự cho một cuộc kiểm toán 41
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt
Nam đã từng bước hội nhập và phát triển trên tất cả các lĩnh vực trong đó có kiểm
toán. Sự phát triển của nền kinh tế là tiền đề cho sự phát triển của kiểm toán đồng
thời kiểm toán cũng góp phần vào việc lành mạnh hoá thông tin tài chính, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Vì vậy có thể nói kiểm toán, đặc biệt kiểm toán độc lập phát
triển là một xu thế tất yếu của nền kinh tế hoạt động theo quy luật của nền kinh tế thị
trường. Trong xu thế đó, số lượng các công ty kiểm toán độc lập được thành lập và
hoạt động tại Việt Nam liên tục tăng nhanh trong thời gian gần đây. Số lượng kiểm
toán viên cấp quốc gia (CPA) và cấp quốc tế cũng tăng nhanh tương ứng. Các loại
hình kiểm toán, đặc biệt kiểm toán báo cáo tài chính ngày càng được mở rộng.
Để các cuộc kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán tài chính đạt được hiệu quả cao
đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý của các công ty kiểm toán thì các thủ tục
soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính là các thủ tục hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, do vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tế của một số công ty kiểm toán còn
hạn chế nên không phải công ty kiểm toán nào cũng thực hiện được một cách đầy đủ và
hợp lý các thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán.
Bằng kinh nghiệm làm việc thực tế tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính
quốc tế-IFC, tôi nhận thấy việc hệ thống hoá và cụ thể hoá vấn đề xây dựng và thực
hiện thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán tại Công ty nhằm phục vụ cho công
việc kiểm toán hàng ngày của Công ty, cung cấp tài liệu đào tạo nội bộ trong Công ty
là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện thủ
tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán và
Tư vấn tài chính Quốc tế- IFC” làm đề tài Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản
về các thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính trong các công ty
kiểm toán độc lập.
1
Trên cơ sở đó, Tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các thủ tục soát
xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty kiểm toán và Tư vấn tài
chính Quốc tế -IFC, đảm bảo các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của Công ty đều
được thực hiện theo chuẩn mực nghề nghiệp, giảm thiểu rủi ro kiểm toán qua đó giúp
Công ty nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, duy trì và nâng cao danh tiếng của
Công ty trong lĩnh vực kiểm toán tại Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Vấn đề
được nghiên cứu được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các sự vật hiện tượng liên
quan và được nghiên cứu trên quan điểm lịch sử cụ thể. Bên cạnh đó, Luận văn sử
dụng các phương pháp kỹ thuật chủ yếu trong nghiên cứu khoa học như phương pháp
điều tra, quan sát, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, kiểm chứng, so sánh, đối chiếu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài: Thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo
cáo tài chính
Phạm vi nghiên cứu của Đề tài: Đề tài chỉ nghiên cứu thủ tục soát xét trong phạm
vi quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính
quốc tế-IFC đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm tại một số công ty kiểm toán độc lập
khác tại Việt Nam.
5. Đóng góp của Luận văn
Đề tài khái quát hoá các vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục soát xét, thủ tục quan
trọng trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính. Đồng thời trên cơ sở tham khảo thủ
tục, yêu cầu, kinh nghiệm của các Công ty kiểm toán có uy tín khác đang hoạt động tại
Việt Nam, Tác giả đưa ra các ý kiến kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các thủ tục soát
xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty IFC, phù hợp với quy mô, đặc
điểm của Công ty. Ngoài ra, đây cũng là tài liệu đào tạo nội bộ cho Công ty, là tài liệu
tham khảo cho các cá nhân và cơ quan quan tâm đến vấn đề này.
6. Tên và kết cấu của Luận văn
2
Với tên gọi “Hoàn thiện thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo
cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính quốc tế- IFC”, ngoài
phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm có ba phần chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài
chính do các công ty kiểm toán độc lập thực hiện.
Chương 2: Thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty
Kiểm toán và Tư vấn tài chính quốc tế- IFC.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện thủ tục soát xét trong quy trình
kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn chính quốc tế-IFC.
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC SOÁT XÉT TRONG QUY TRÌNH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH DO CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP THỰC HIỆN
1.1 Thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Ý nghĩa và mục tiêu của các thủ tục soát xét
Từ “soát xét” được dịch bắt nguồn từ từ gốc tiếng Anh “review”. Theo từ
điển Lạc Việt soát xét, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, có thể được sử dụng trong các ngữ
cảnh khác nhau. Theo nghĩa pháp lý, soát xét là “sự xem lại, sự cân nhắc, sự suy tính
lại (một bản án…) [3]. Dùng trong phê bình, soát xét là “sự phê bình, bài phê bình
(về một cuốn sách…) [3]. Soát xét là có thể là “sự ôn tập lại (bài đã học)” [3]. Trong
tiếng Việt, “soát” nghĩa là “xem kỹ để có gì không đúng hoặc không bình thường thì
sửa, xử lý” [8], “soát xét” nghĩa là “soát kỹ, tỷ mỉ, kỹ lưỡng” [8].
Thuật ngữ soát xét được sử dụng nhiều trong kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán
báo cáo tài chính. Soát xét trong kiểm toán được hiểu là việc các nhân viên kiểm toán
ở cấp bậc cao hơn xem xét lại công việc của các nhân viên kiểm toán ở cấp bậc thấp
hơn mình nhằm đánh giá công việc đó đã được thực hiện theo đúng kế hoạch, các
công việc được thực hiện và kết quả được lưu lại hồ sơ đầy đủ, các vấn đề trọng yếu
phát sinh trong cuộc kiểm toán đã được xử lý hoặc trình bày rõ trên ý kiến kiểm toán,
mục tiêu của các thủ tục kiểm toán đã đạt được và các kết luận kiểm toán đưa ra là
phù hợp với kết quả công việc thực hiện bởi các kiểm toán viên. Các thủ tục soát xét
được thực hiện nhằm kiểm soát chất lượng kiểm toán nói riêng cũng như phục vụ cho
công tác quản lý (nắm lấy, điều hành) nói chung của các công ty kiểm toán độc lập.
Ý nghĩa của các thủ tục soát xét
Hoạt động kiểm toán, đặc biệt kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động có rủi ro
cao, kết quả của kiểm toán báo cáo tài chính được nhiều người quan tâm và các quyết
định quan trọng của họ nhiều khi hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kiểm toán. Vì vậy,
vấn đề kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán vừa là yêu cầu, đòi hỏi về mặt pháp
lý đồng thời cũng xuất phát từ chính nhu cầu của các công ty kiểm toán là tự bảo vệ
mình khỏi các rủi ro kiện tụng, tạo lập và duy trì hình ảnh của công ty.
4
Theo quy định tại Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 220-Kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán, “Công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện các chính
sách và thủ tục kiểm soát chất lượng để đảm bảo tất cả các cuộc kiểm toán đều được
tiến hành phù hợp với Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán
quốc tế được Việt Nam chấp nhận nhằm không ngừng nâng cao chất lượng của các
cuộc kiểm toán” [2]. Các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng của các công ty
khác nhau có thể khác nhau song về cơ bản các chính sách sau được kết hợp áp
dụng:
• Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp ;
• Kỹ năng và năng lực chuyên môn ;
• Giao việc;
• Hướng dẫn và giám sát;
• Tham khảo ý kiến;
• Duy trì và chấp nhận khách hàng;
• Kiểm tra.
Để thực hiện các chính sách trên, các công ty xây dựng các thủ tục thích hợp
trong đó thủ tục soát xét là thủ tục thường được các công ty áp dụng, nhất là trong
việc thực hiện các chính sách: hướng dẫn và giám sát, duy trì và chấp nhận khách
hàng, kiểm tra.
Như vậy, để thực hiện chuẩn mực “kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán”
đồng thời cũng xuất phát từ chính nhu cầu thực tế về việc kiểm soát chất lượng của các
công ty kiểm toán độc lập nhằm giảm thiểu rủi ro kiểm toán, nâng cao chất lượng dịch
vụ, nâng cao vị thế của công ty trong thị trường kiểm toán thì các công ty cần xây dựng
và thực hiện các thủ tục soát xét thích hợp trong quy trình trình kiểm toán.
M ục tiêu của các thủ tục soát xét
Các mục tiêu chung của thủ tục soát xét bao gồm:
• Đảm bảo công việc kiểm toán được thực hiện theo đúng chuẩn mực nghề
nghiệp (chuẩn mực kiểm toán quốc tế, quốc gia và công ty), các quy định pháp
lý có liên quan nhằm tránh rủi ro cho các công ty kiểm toán trong việc gặp
phải các vụ kiện tụng;
• Đưa ra các báo cáo của kiểm toán viên phù hợp trong từng trường hợp;
5
• Nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ kèm
theo, nâng cao sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ kiểm toán báo cáo
tài chính;
• Đánh giá và phát triển nhân viên kiểm toán. Qua thủ tục soát xét có thể xác
định và đào tạo thêm các nhân viên tiềm năng để có thể đảm nhiệm các vị trí
cao hơn;
• Củng cố và nâng cao uy tín và danh tiếng của công ty kiểm toán trong thị
trường kiểm toán tại nội địa và thế giới.
Để đạt được các mục tiêu chung trên, các thủ tục soát xét cần được thực hiện để đảm
bảo các mục tiêu cụ thể sau:
• Kế hoạch kiểm toán được lập một cách phù hợp, được thực hiện một cách đầy
đủ và đúng đắn;
• Cuộc kiểm toán được thực hiện theo đúng các chính sách của công ty và các
quy định pháp lý của từng nước;
• Các rủi ro kiểm toán nói chung, rủi ro chi tiết đã được xác định cho các tài
khoản và các rủi ro tiềm tàng được xác định;
• Các công việc kiểm toán đã thực hiện được thể hiện rõ trên giấy tờ làm việc là
cơ sở đầy đủ cho các ý kiến kiểm toán trên báo cáo của kiểm toán viên;
• Tất cả các giải trình cần thiết đã được thu thập;
• Các số liệu kiểm toán trên báo cáo tài chính phù hợp với số liệu trình bày trên
giấy tờ làm việc của kiểm toán viên và số liệu kế toán tại đơn vị;
• Báo cáo tài chính được lập theo đúng chuẩn mực kế toán được áp dụng;
• Các nội dung trên báo cáo của kiểm toán viên được trình bày một cách rõ
ràng, tuân thủ theo các chuẩn mực kiểm toán trong nước và quốc tế và phù
hợp với từng cuộc kiểm toán;
• Báo cáo của kiểm toán viên đã được thảo luận đầy đủ với tất cả các cấp lãnh
đạo liên quan;
• Các vấn đề quan trọng nảy sinh trong quá trình kiểm toán đã được nêu lên cho
hội đồng quản trị, ban giám đốc của khách hàng xem xét.
6
1.1.2 Nguyên tắc, yêu cầu thực hiện các thủ tục soát xét
Để đạt được các mục tiêu của của kiểm toán nói chung cũng như mục tiêu của
thủ tục soát xét nói riêng, các thủ tục soát xét cần được thực hiện theo các nguyên tắc
và đáp ứng các yêu cầu sau :
Nguy ên tắc thực hiện thủ tục soát xét
• Các thủ tục soát xét được phân quyền thực hiện theo cấp độ soát xét (thành
viên ban giám đốc, chủ nhiệm kiểm toán, kiểm toán viên chính…);
• Việc thực hiện các thủ tục soát xét được thực hiện trên nguyên tắc trọng yếu,
các nội dung kiểm toán có rủi ro cao, có ảnh hưởng trọng yếu đến thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính được kiểm toán cần được tập trung soát xét;
• Các thủ tục soát xét được thực hiện cần có kết quả cụ thể bao gồm sự phù hợp
và đầy đủ của các thủ tục kiểm toán đã được thực hiện, các kết luận kiểm toán
cũng như kết quả cuối cùng của cuộc kiểm toán là báo cáo kiểm toán, các vấn
đề phát sinh cần hoàn thiện, các kinh nghiệm cần thiết cho các cuộc kiểm toán
sau. Kết quả của việc soát xét được thể hiện trên bảng tổng hợp kết quả soát
xét;
• Kết quả soát xét phải được thể hiện trên các giấy tờ làm việc (chữ ký của người
soát xét trên giấy tờ làm việc của các kiểm toán viên khác đã được soát xét, các
bản soát xét tổng hợp với đầy đủ nội dung và được ký bởi người soát xét);
• Các tài liệu liên quan đến việc soát xét phải được lưu lại hồ sơ kiểm toán, là
minh chứng cho việc soát xét đã được thực hiện;
• Kết quả soát xét phải được thảo luận và được các thành viên tham gia kiểm
toán đồng ý. Tất cả các bất đồng cần được thống nhất giải quyết trước khi đưa
ra kết quả soát xét cuối cùng;
• Kết quả soát xét cần được xử lý đầy đủ, nghiêm túc và có hiệu quả.
Y êu cầu đối với thủ tục soát xét :
• Các thủ tục soát xét ở từng mức độ khác nhau phải được thực hiện bởi thành
viên ban giám đốc, chủ nhiệm kiểm toán, kiểm toán viên có kinh nghiệm và
năng lực phù hợp. Tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro và phức tạp của từng cuộc
kiểm toán báo cáo tài chính cụ thể mà các thủ tục soát xét cần được thực hiện
bởi các cấp bậc phù hợp;
7
• Thủ tục soát xét thực hiện bởi các cấp bậc khác nhau theo đúng trách nhiệm
của mình, không bỏ qua công đoạn soát xét nào (ví dụ: Hồ sơ kiểm toán đã
được chủ nhiệm kiểm toán soát xét thì thành viên ban giám đốc vẫn phải soát
xét, không thể bỏ qua việc soát xét của bất cứ cấp bậc nào nếu việc soát xét
của cấp bậc đó là cần thiết);
• Thủ tục soát xét cần được thực hiện với tất cả các nội dung, thông tin liên
quan đến cơ sở dẫn liệu mà kiểm toán viên phải dựa vào đó để đưa ý kiến.
1.1.3 Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính
Mỗi cuộc kiểm toán cần được thực hiện theo một quy trình khoa học nhằm thu
thập được đầy dủ các bằng chứng kiểm toán cần thiết với chi phí và thời gian hợp lý,
giảm thiểu rủi ro kiểm toán, đảm bảo tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp cũng như các
quy định pháp lý có liên quan. Mặc dù mỗi công ty có thể xây dựng cho mình hệ
thống quy trình kỹ thuật, thủ tục kiểm toán với tên gọi, mức độ chi tiết khác nhau
song đều phải thể hiện được các công việc cần thực hiện và phải đảm bảo tuân theo
chuẩn mực kiểm toán.
Nhìn chung, quy trình kiểm toán thường được thực hiện qua ba giai đoạn cơ
bản: giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, giai đoạn thực hiện kiểm toán, giai đoạn kết
thúc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán.
Sơ đồ 1.1 Ba giai đoạn trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính
8
Giai đoạn I
Lập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn II
Thực hiện kiểm toán
Giai đoạn III
Kết thúc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Theo quy định tại Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 300-Lập kế hoạch kiểm toán: “Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho
mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm
đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận,
rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng
thời hạn. Kế hoạch kiểm toán trợ giúp kiểm toán viên phân công công việc cho trợ lý
kiểm toán và phối hợp với kiểm toán viên và chuyên gia khác về công việc kiểm
toán” [2].
Như vậy, việc lập kế hoạch kiểm toán là yêu cầu bắt buộc đã được quy định
trong chuẩn mực kiểm toán, song đồng thời thực tế, kế hoạch kiểm toán là thực sự
cần thiết trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm giúp cho việc thực hiện cuộc kiểm toán
được thuận lợi, hiệu quả.
Kế hoạch kiểm toán cũng có thể phân loại theo các tiêu thức khác nhau thành
kế hoạch kiểm toán tổng thể, kế hoạch kiểm toán chi tiết hoặc theo Chuẩn mực Kiểm
toán Việt nam số 300-Lập kế hoạch kiểm toán, kế hoạch kiểm toán gồm kế hoạch
chiến lược, kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán.
“Kế hoạch chiến lược: Là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương
pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu biết về
tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán” [2].
“Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và
phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các
thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể
thực hiện công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời gian dự
kiến” [2].
Chương trình kiểm toán: Là những hướng dẫn cụ thể cho kiểm toán viên và
trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc kiểm toán thực hiện công việc được phân
công. Các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên chỉ cần thực hiện đầy đủ chương
trình kiểm toán là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chương trình kiểm toán còn là
phương tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán vì các công
việc chi tiết khi hoàn thành đều được tham chiếu lên chương trình kiểm toán. Mỗi
9
chương trình kiểm toán đều chỉ dẫn cụ thể mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội
dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần
thiết cho từng phần hành. Chương trình kiểm toán thường do kiểm toán viên chính
của cuộc kiểm toán lập và được soát xét, hỗ trợ bởi các cấp quản lý cao hơn. Trong
một số công ty kiểm toán, một phần việc soát có thể được thực hiện bởi sự hỗ trợ của
phần mềm máy tính.
Kế hoạch kiểm toán phải được lập với đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy
định của mỗi công ty đồng thời đối với từng khách hàng cụ thể, kế hoạch kiểm toán
được chi tiết bổ sung thông tin phù hợp. Việc lập kế hoạch kiểm toán có thể được
thực hiện với sự hỗ trợ của hệ thống tin học nhằm tiết kiệm thời gian đồng thời kết
quả xử lý được thống nhất chính xác hơn. Các kiểm toán viên tham gia thực hiện
kiểm toán phải hiểu rõ, tuân thủ theo kế hoạch kiểm toán đã được lập và phê duyệt.
Trong trường hợp có sự thay đổi trong kế hoạch kiểm toán do thực tế công việc phát
sinh thì kế hoạch kiểm toán có thể được sửa đổi song kế hoạch sửa đổi phải được phê
duyệt bởi những người có trách nhiệm liên quan trước khi thực hiện.
Lập kế hoạch kiểm toán gồm các bước công việc cơ bản như mô tả trong sơ
đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.2 Lập kế hoạch kiểm toán
10
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thực hiện các thủ tục phân tích
Đánh giá tính trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát
Soạn thảo chương trình kiểm toán
Trong bước chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán, công ty kiểm toán thực hiện
đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán, nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng,
lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và thực hiện ký kết hợp đồng kiểm toán.
Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, trong bước thu thập thông tin cơ sở, kiểm
toán viên thực hiện thu thập thông tin về ngành nghề, hoạt động kinh doanh của
khách hàng, nhận diện các bên liên quan, xem xét lại hồ sơ kiểm toán của các năm
trước (nếu có), thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng: giấy phép
thành lập, điều lệ công ty, các báo cáo tài chính năm hiện hành, báo cáo kiểm toán,
quyết toán thuế năm trước, biên bản họp hội đồng quản trị, ban giám đốc…
Trên cơ sở các thông tin có được, kiểm toán viên thực hiện các thủ tục phân
tích phù hợp nhằm thu thập hiểu biết về nội dung báo cáo tài chính, các biến động
quan trọng, tăng cường sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh của khách hàng, đánh
giá khả năng hoạt động liên tục của khách hàng, khả năng các sai sót trên báo cáo…
Bước tiếp theo, kiểm toán đánh giá tính trọng yếu và rủi ro. Đây là công việc
rất quan trọng trong kế hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên cần đưa ra ước lượng ban
đầu về mức độ trọng yếu và phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các
khoản mục. Đây là chỉ số tương đối và mỗi công ty kiểm toán có hướng dẫn riêng cụ
thể về việc xác định chỉ số này. Kiểm toán viên cũng thực hiện đánh giá rủi ro kiểm
toán nhằm xây dựng các thủ tục kiểm toán cụ thể trong chương trình kiểm toán một
cách phù hợp.
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát: Đây là cũng
là công việc rất quan trọng trong việc lập kế hoạch kiểm toán, làm cơ sở để xác định
phạm vi thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản trong quá trình
kiểm toán.
Chương trình kiểm toán: Thiết kế chương trình kiểm toán là thiết kế các trắc
nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích, trắc nghiệm trực tiếp các số dư cho từng
chu kỳ nghiệp vụ và các khoản mục trên báo cáo tài chính, trợ giúp các kiểm toán
viên trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.
11
Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Đây là giai đoạn thu thập, đánh giá, phân tích
các bằng chứng, thông tin, dữ liệu kiểm toán nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính
trung thực và hợp lý của đối tượng kiểm toán.
Việc thực hiện kiểm toán là quá trình triển khai thực hiện kế hoạch kiểm toán
đã đề ra. Bằng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán phù hợp, các kiểm toán viên thực
hiện kế hoạch kiểm toán để thu thập các bằng chứng kiểm toán cần thiết cho việc đưa
ra ý kiến kiểm toán. Việc thực hiện kiểm toán cần tuân thủ theo đúng kế hoạch,
chương trình đã được xây dựng. Đồng thời, kế hoạch kiểm toán cũng có thể được sửa
đổi bổ sung cho phù hợp trong quá trình thực hiện kiểm toán, nghĩa là kế hoạch kiểm
toán được triển khai một cách linh hoạt nhằm đạt được kết quả cao nhất. Tuy nhiên,
tất cả các thay đổi trong kế hoạch kiểm toán cần được giải trình đầy đủ và chứng
minh được sự hợp lý của sự thay đổi, tuyệt đối không được tuỳ tiện sửa đổi kế hoạch
kiểm toán trong quá trình thực hiện. Các thủ tục kiểm toán được thực hiện trong quá
trình này gồm:
Thực hiện thử nghiệm kiểm soát (kiểm tra hệ thống kiểm soát -test of
control): Mức độ thực hiện thử nghiệm kiểm soát đã được xác định trong quá trình
lập kế hoạch kiểm toán. Tuỳ thuộc vào việc đánh giá có tin tưởng vào hệ thống kiểm
soát nội bộ hay không và có rủi ro chi tiết được phát hiện hay không thử nghiệm
kiểm soát được thực hiện ở các mức độ khác nhau. Nếu không tin tưởng vào hệ thống
kiểm soát nội bộ thì không thực hiện thử nghiệm kiểm soát hoặc thực hiện ở mức độ
thấp, nếu tin tưởng hệ thống kiểm soát nội bộ thì thực hiện thử nghiệm kiểm soát ở
mức độ cao hơn. Trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ được tin học hoá với mức độ
cao thì cần xem xét sử dụng các chuyên gia trong lĩnh vực này để đánh giá hiệu quả
của hệ thống kiểm soát nội bộ. Các thử nghiệm kiểm soát được thực hiện nhằm có
được đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trên các
phương diện:
Thiết kế: Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế sao cho có đủ khả năng
ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
Thực hiện: Hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động một cách hữu
hiệu trong suốt thời kỳ xem xét.
12
Các bước thực hiện và kết quả thực hiện thử nghiệm kiểm soát, các bằng chứng
thu thập được cần được thể hiện đầy đủ trên các giấy tờ làm việc của kiểm toán viên.
Các phương pháp kỹ thuật sử dụng trong việc thực hiện thử nghiệm kiểm soát
bao gồm: phỏng vấn, kiểm tra các tài liệu, quan sát, thực hiện lại trong đó phương
pháp được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất là phỏng vấn. Việc phỏng vấn có thể
được thực hiện với các cá nhân trực tiếp tham gia vào việc kiểm soát nội bộ đồng
thời có thể phỏng vấn các cá nhân không trực tiếp tham gia vào quy trình kiểm soát
nội bộ nhưng họ ở vị trí có thể đánh giá được hệ thống kiểm soát nội bộ có đang
được thực hiện tốt hay không. Nhìn chung, việc thực hiện thử nghiệm cơ bản tuỳ
thuộc vào các yếu tố sau:
• Bản chất của hoạt động kiểm soát, kiểm soát thực hiện thủ công hay được lập
trình sẵn;
• Sự sẵn có của các bằng chứng về việc hệ thống kiểm soát nội bộ được tuân
thủ đầy đủ và hữu hiệu;
• Hiệu quả của mỗi phương pháp kỹ thuật sử dụng trong thực hiện thử nghiệm
cơ bản;
• Năng lực của các cá nhân trong hệ thống kiểm soát nội bộ;
• Giai đoạn thực hiện kiểm tra;
• Việc sử dụng các dịch vụ bên ngoài;
• Các quy định và môi trường pháp lý tương ứng.
Thực hiện thử nghiệm cơ bản là các thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên
thực hiện nhằm đạt được độ tin cậy chi tiết.
Độ tin cậy chi tiết là độ tin cậy mà kiểm toán viên đạt được thông qua việc
thực hiện các thủ tục đã được thiết lập nhằm phát hiện các sai sót tiềm tàng (nếu có)
nhưng không được phát hiện bởi các thủ tục kiểm soát của khách hàng.
Thử nghiệm cơ bản gồm thủ tục phân tích chi tiết và thủ tục kiểm tra chi tiết
đến chứng từ.
Ph ân tích chi tiết là việc so sánh số liệu của khách hàng với số ước tính của
kiểm toán viên từ các nguồn dữ liệu độc lập nhằm khẳng định số liệu của khách hàng
không có sai sót trọng yếu. Các bước thực hiện:
• Xác định số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng cần được kiểm tra;
13
• Xây dựng mô hình ước tính;
• Xác định chênh lệch tối đa có thể chấp nhận được (Threshold);
• Xác định chênh lệch cần kiểm tra;
• Kiểm tra chênh lệch trọng yếu;
• Đánh giá kết quả kiểm tra.
Ki ểm tra chi tiết đến chứng từ (gọi tắt là kiểm tra chi tiết) là việc kiểm tra các
bằng chứng chứng minh cho số liệu trong tổng thể nhằm xem xét tổng thể được kiểm
tra có sai sót trọng yếu hay không. Các bước thực hiện:
• Xác định số dư và sai sót tiềm tàng cần được kiểm tra;
• Lựa chọn phương pháp kiểm tra thích hợp;
• Xác định số mẫu cần kiểm tra;
• Chọn mẫu;
• Kiểm tra các mẫu đã chọn;
• Đánh giá kết quả kiểm tra.
Mức độ thực hiện các thử nghiệm này cũng được xác định cụ thể trong kế
hoạch kiểm toán và có quan hệ mật thiết với các thử nghiệm kiểm soát trên. Nếu các
thử nghiệm kiểm soát không được thực hiện hoặc được thực hiện ở mức độ thấp thì
thử nghiệm cơ bản được thực hiện ở mức độ tập trung, cao hơn và ngược lại nếu thử
nghiệm kiểm soát được thực hiện đầy đủ thì thử nghiệm cơ bản chỉ thực hiện ở mức
độ cơ bản.
Các thử nghiệm cơ bản được thực hiện ở mức độ chi tiết theo từng tài khoản,
nghiệp vụ. Tuỳ thuộc vào bản chất của các tài khoản, nghiệp vụ mà lựa chọn thực
hiện thủ tục phân tích chi tiết hay thủ tục kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp cả hai thủ tục
này.
Các phương pháp kỹ thuật thường được sử dụng trong quá trình thực hiện các
thủ tục này để thu thập bằng chứng kiểm toán gồm phương pháp kiểm toán chứng từ
(kiểm toán các cân đối kế toán, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic) và kiểm toán
ngoài chứng từ (kiểm kê, điều tra, thực nghiệm, quan sát, phỏng vấn).
Các công việc được kiểm toán viên thực hiện trong quá trình này được thể
hiện đầy đủ trên các giấy tờ làm việc, là bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho việc
đưa ra các ý kiến về báo cáo tài chính trên báo cáo của kiểm toán viên.
14
Giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo: Trên cơ sở kết quả thực hiện
kiểm toán trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, các bằng chứng, dữ liệu kiểm toán đã
được thu thập và đánh giá được tiếp tục phân tích đánh giá để đưa ra kết luận tổng
hợp về tính trung thực và hợp lý, xét trên các khía cạnh trong yếu của báo cáo tài
chính. Kết luận đó được trình bày trên Báo cáo của kiểm toán viên.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo trong kiểm toán báo cáo tài
chính, các công việc chủ yếu được thực hiện bao gồm:
• Xem xét tính liên tục hoạt động của đơn vị được kiểm toán: Một đơn vị
được coi là hoạt động liên tục trong một tương lai gần có thể dự đoán được (ít
nhất là một năm kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán) khi không có ý định hoặc
yêu cầu phải giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt
động, tìm kiếm sự bảo hộ từ các chủ nợ theo pháp luật và các quy định hiện
hành. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp
đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong
tương lai gần trừ khi doanh nghiệp có ý định giải thể hoặc bị buộc phải ngừng
hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường
hợp có các vấn đề không chắc chắn trọng yếu nào liên quan tới các sự kiện có
thể gây ra nghi ngờ đáng kể về khả năng tiếp tục hoạt động, thì các vấn đề
không chắc chắn này phải được trình bày trên báo cáo tài chính. Trường hợp
báo cáo tài chính không được lập dựa trên cơ sở hoạt động liên tục thì đơn vị
phải trình bày cơ sở áp dụng trong việc lập báo cáo tài chính cùng các lý do
đơn vị không được đánh giá là có khả năng hoạt động liên tục.
• Kiểm tra các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán: Là các sự
kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính bao gồm những
sự kiện có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã phát sinh trong khoảng thời
gian từ sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính để kiểm toán đến ngày
ký báo báo cáo kiểm toán và những sự kiện được phát hiện sau ngày ký báo
cáo kiểm toán. Các sự kiện trên gồm hai loại: những sự kiện cung cấp thêm
bằng chứng về các sự việc đã tồn tại vào ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài
chính và những sự kiện cung cấp dấu hiệu về các sự việc đã phát sinh tiếp sau
ngày khoá sổ kế toán lập Báo cáo tài chính. Kiểm toán viên cần xem xét các
15
sự kiện trên để có các điều chỉnh hợp lý về số liệu báo cáo tài chính cũng như
các nội dung cần thiết khác phải trình bày trên báo cáo tài chính.
• Thu thập các giải trình của ban giám đốc và các giải trình có liên quan
khác: Kiểm toán viên phải thu thập bằng chứng về việc giám đốc đơn vị
được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập và trình bày
báo cáo tài chính trung thực, hợp lý, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành (hoặc được chấp nhận) và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Kiểm
toán viên thu thập bằng chứng nói trên trong các biên bản họp hội đồng quản
trị (hoặc ban giám đốc) liên quan đến vấn đề này, hoặc bằng cách yêu cầu
giám đốc cung cấp bản giải trình, bản báo cáo của giám đốc hoặc báo cáo tài
chính đã được giám đốc ký duyệt.
• Phân tích, đánh giá khái quát báo cáo tài chính: Các kiểm toán viên thực
hiện phân tích báo cáo tài chính sau kiểm toán nhằm chứng minh sự hiểu biết
một cách đầy đủ về tình hình kinh doanh và lĩnh vực hoạt động của khách
hàng, xem xét các biến động lớn, bất thường đã được giải thích đầy đủ và
trình bày phù hợp với chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận. Nếu
phát hiện vẫn còn có những nghi ngờ về số dư tài khoản hoặc thông tin nào
trên báo cáo tài chính thì sẽ xem xét giải thích và nếu cần thiết thì để thực hiện
các thủ tục kiểm toán bổ sung nhằm đạt được sự đảm bảo hợp lý cho những
nghi ngờ đó.
• Lập bản tổng hợp kết quả kiểm toán, bảng tổng hợp ảnh hưởng của các bút
toán không điều chỉnh: Đây là cơ sở để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
vấn đề phát sinh đối với báo cáo kiểm toán, là căn cứ để đưa ra ý kiến kiểm
toán và các vấn đề nêu trên thư quản lý.
• Lập báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán được lập bởi kiểm toán viên
chính, dưới dự giám sát của chủ nhiệm kiểm toán. Kiểm toán viên chính khi
lập xong báo cáo phải thực hiện soát xét lại báo cáo của mình đã lập. Bản dự
thảo báo cáo sau đó có thể được soát xét bởi một kiểm toán viên khác có trình
độ chuyên môn phù hợp, độc lập với cuộc kiểm toán đang thực hiện. Sau đó
việc soát xét được thực hiện bởi các cấp soát xét cao hơn (chủ nhiệm kiểm
16
toán hoặc ban giám đốc). Trong một số trường hợp, báo cáo còn được soát xét
bởi các chuyên gia.
Ngoài ra, sau khi kết thúc kiểm toán và báo cáo đã được phát hành, cần tiếp
tục thực hiện theo dõi sau cuộc kiểm toán, thu thập ý kiến phản hồi của khách hàng
nhằm mục đích đánh giá sự phù hợp của kết quả cuộc kiểm toán cũng như tạo lập cơ
sở cho các cuộc kiểm toán sau được thực hiện tốt hơn.
Đây là quy trình chung cho các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên,
việc phân chia các giai đoạn chỉ mang tính chất tương đối, tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ
thể của từng cuộc kiểm toán, quy trình trên được cụ thể hoá với các nội dung chi tiết
có thể khác nhau và các nội dung công việc thực hiện trong mỗi giai đoạn có thể có
sự kế tiếp nhau, không nhất thiết phải kết thúc giai đoạn này mới chuyển sang giai
đoạn sau của quy trình kiểm toán.
1.1.4 Phân loại thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính
Thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính có thể được phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: theo nội dung soát xét, theo hình thức soát xét,
theo đối tượng soát xét, theo cấp bậc soát xét, theo quy trình kiểm toán. Cụ thể các
cách phân loại như sau:
Ph ân loại thủ tục soát xét theo nội dung soát xét
Theo nội dung soát xét, thủ tục soát xét gồm soát xét chi tiết và soát xét tổng hợp.
Soát xét chi tiết là việc soát xét toàn bộ giấy tờ làm việc của kiểm toán viên và
được thực hiện bởi người khác với người lập giấy tờ làm việc được soát xét. Người
thực hiện soát xét chi tiết thực hiện việc soát xét giấy tờ làm việc của kiểm toán viên
ở cấp bậc thấp hơn mình. Thông thường, kiểm toán viên chính là người thực hiện
soát xét chi tiết công việc của các kiểm toán viên khác và trợ lý kiểm toán viên trong
cuộc kiểm toán đồng thời có thể phân công cho kiểm toán viên cấp dưới thực hiện
soát xét giấy tờ làm việc của trợ lý kiểm toán viên. Cần đảm bảo tất cả giấy tờ làm
việc đều được soát xét, các công việc cần thiết đã được thực hiện và trình bày đầy đủ
trên các giấy tờ làm việc. Thủ tục soát xét này nên được thực hiện ngay tại văn phòng
của khách hàng, nhờ đó có thể kịp thời phát hiện kịp thời các sai sót, bổ sung các thủ
tục kiểm toán phù hợp cho các vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm toán. Đồng thời,
việc thực hiện soát xét chi tiết một cách thường xuyên cũng là cách thức đào tạo nhân
17
viên trong công việc một cách hiệu quả. Việc thực hiện soát xét chi tiết được thực
hiện trước khi kết thúc việc lập báo cáo kiểm toán dự thảo và kết quả soát xét chi tiết
là cơ sở để việc thực hiện soát xét tiếp theo được thực hiện có hiệu quả hơn.
Soát xét tổng hợp là việc soát xét có trọng tâm, thường chỉ chú trọng vào các
khoản mục, tài khoản có vấn đề trọng yếu phát sinh, đặc biệt vùng có các rủi ro chi
tiết đã phát hiện, soát xét sự đầy đủ của các thủ tục soát xét thực hiện bởi các cấp bậc
nhân viên và thường được thực hiện bởi cấp soát xét cao (chủ nhiệm kiểm toán, thành
viên ban giám đốc). Khi thực hiện soát xét tổng hợp, không nhất thiết phải soát xét
toàn bộ giấy tờ làm việc của kiểm toán viên. Việc soát xét tổng hợp phải được thực
hiện đầy đủ trước khi phát hành báo cáo kiểm toán.
Ph ân loại thủ tục soát xét theo hình thức soát xét
Theo hình thức soát xét, thủ tục soát xét gồm soát xét nội bộ và soát xét từ bên
ngoài. Soát xét nội bộ là việc soát xét do chính công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán
soát xét công việc của mình. Tất nhiên, trong mỗi cuộc kiểm toán cụ thể, công ty kiểm
toán có thể bố trí các bộ phận, các cá nhân khác trong công ty độc lập với nhóm kiểm
toán thực hiện soát xét công việc của nhóm kiểm toán. Như vậy, các cá nhân thực hiện
soát xét đều là các thành viên trong nội bộ công ty, không phân biệt có độc lập với
nhóm kiểm toán hay không. Còn soát xét từ bên ngoài là việc soát xét được thực hiện
bởi tổ chức, cá nhân không chịu ảnh hưởng bởi sự quản lý của công ty kiểm toán. Đó
có thể là các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp, các công ty kiểm toán khác, các chuyên
gia.
Ph ân loại thủ tục soát xét theo đối tượng soát xét
Tuỳ theo từng nhóm khách hàng, các thủ tục soát xét được quy định khác nhau
với yêu cầu về việc soát xét khác nhau. Có thể phân loại hai nhóm khách hàng chính:
Thứ nhất: Nhóm khách hàng được đánh giá có rủi ro kiểm toán ở mức độ
trung bình hoặc thấp, các khách hàng đã được công ty kiểm toán nhiều năm, có quy
mô nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh ít đặc thù…
Thứ hai: Nhóm khách hàng được đánh giá có rủi ro kiểm toán cao hơn trung
bình. Thông thường, đây là các khách hàng có quy mô lớn, có nhiều đơn vị phụ thuộc
hoặc công ty con hoạt động tại nhiều địa điểm khác nhau, tính chất hoạt động kinh
doanh phức tạp như các tổng công ty lớn, công ty đa quốc gia, các ngân hàng, công ty
18
tài chính, bảo hiểm, công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, các cuộc kiểm
toán cho nhiều năm.
Đối với nhóm khách hàng thứ nhất, nhóm kiểm toán tham gia cuộc kiểm toán
thường là nhóm nhỏ, thời gian thực hiện kiểm toán ngắn và mức độ tham gia của các
cấp bậc cao như thành viên của ban giám đốc là ít. Thủ tục soát xét trong quy trình
kiểm toán báo cáo tài chính của các khách hàng này đơn giản hơn. Việc thực hiện
soát xét chủ yếu do kiểm toán viên- trưởng nhóm kiểm toán thực hiện, chủ nhiệm
kiểm toán soát xét công việc của trưởng nhóm. Về cơ bản, thành viên ban giám đốc
phụ trách khách hàng chỉ kiểm tra lại sự đầy đủ và thích hợp của các bảng tổng hợp
kết quả soát xét, báo cáo kiểm toán mà không cần thực hiện soát xét chi tiết.
Đối với nhóm khách hàng thứ hai, tuỳ theo mức độ rủi ro cụ thể của từng cuộc
kiểm toán, nhóm kiểm toán sẽ gồm nhiều người có kinh nghiệm hơn, đảm nhận các
phần công việc trọng yếu. Việc soát xét vẫn theo nguyên tắc cấp trên soát xét giấy tờ
làm việc của nhân viên ở cấp bậc dưới mình. Ngoài ra, có thể có thêm việc soát xét
của các chuyên gia trong các lĩnh vực cụ thể, có sự soát xét của thành viên ban giám
đốc kiểm soát chất lượng (là người không trực tiếp tham gia phụ trách khách hàng
đó, thực hiện soát xét hồ sơ kiểm toán và báo cáo kiểm toán trước khi phát hành).
Việc soát xét của thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng cũng được thực hiện
chi tiết hơn trong cả ba giai đoạn của quy trình kiểm toán.
Ph ân loại thủ tục soát xét theo cấp bậc soát xét
Soát xét của kiểm toán viên chính: (trưởng nhóm kiểm toán) và soát xét của
kiểm toán viên khác: Kiểm toán viên chính chịu trách nhiệm soát xét toàn bộ giấy tờ
làm việc của các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên trong nhóm kiểm toán mà
mình phụ trách. Kiểm toán viên chính có thể phân công cho kiểm toán viên khác
trong nhóm kiểm toán soát xét một phần hoặc toàn bộ giấy tờ làm việc của trợ lý
kiểm toán viên. Nhìn chung, công việc soát xét của cấp bậc này thường được thực
hiện ngay tại khách hàng và thực hiện thường xuyên trong thời gian thực hiện kiểm
toán (ví dụ soát xét hàng ngày). Việc soát xét tập trung vào việc đánh giá công việc
của người được soát xét đã được thực hiện theo đúng theo chương trình kiểm toán đã
xây dựng, các bằng chứng kiểm toán thu được là thích hợp và đầy đủ đối với các cơ
sở dẫn liệu của mỗi phần hành kiểm toán, giấy tờ làm việc được trình bày rõ ràng,
19
theo đúng quy định của công ty (có đầy đủ thông tin về người lập, ngày lập, nội dung
công việc thực hiện, cách thức thực hiện, kết luận, tham chiếu…). Người thực hiện
soát xét phải ký trên các giấy tờ làm việc đã soát xét, thể hiện việc soát xét đã được
thực hiện đầy đủ.
Soát xét của chủ nhiệm kiểm toán: Chủ nhiệm kiểm toán thực hiện soát xét
các công việc được thực hiện bởi kiểm toán viên chính bao gồm soát xét kế hoạch
kiểm toán, soát xét các phần hành kiểm toán do kiểm toán viên chính thực hiện, soát
xét các công việc thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo như:
đánh giá tính liên tục hoạt động của khách hàng, sự kiện sau ngày khoá sổ, tổng hợp
kết quả kiểm toán, báo cáo kiểm toán và thư quản lý... Ngoài ra, tuỳ thuộc vào mức
độ trọng yếu và rủi ro của các khoản mục được kiểm toán, chủ nhiệm kiểm toán cần
thực hiện soát xét lần hai đối với giấy tờ làm việc của các kiểm toán viên khác và trợ
lý kiểm toán viên.
Soát xét của các chuyên gia (nếu có): Trong trường hợp cần thiết, một số
cuộc kiểm toán cần có sự soát xét của các chuyên gia trong các lĩnh vực đặc thù
ngoài lĩnh vực kiểm toán. Ví dụ: lĩnh vực thuế, pháp luật, định giá tài sản… khi trên
báo cáo tài chính được kiểm toán có thông tin liên quan đến các lĩnh vực trên và các
thông tin đó là trọng yếu, có tính chất phức tạp, có rủi ro kiểm toán cao.
Soát xét của thành viên ban giám đốc kiểm soát chất lượng kiểm toán (nếu
có): Đối với các cuộc kiểm toán có quy mô lớn, địa bàn rộng, kiểm toán nhiều năm,
cuộc kiểm toán được đánh giá là có độ rủi ro cao, cuộc kiểm toán cho các công ty
niêm yết hoặc các công ty hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù như hàng không,
ngân hàng, bảo hiểm… thì hồ sơ kiểm toán cần được soát xét bởi thành viên ban
giám đốc kiểm soát chất lượng kiểm toán. Đây là thành viên ban giám đốc hoàn toàn
độc lập với nhóm kiểm toán và thực hiện soát xét toàn bộ hồ sơ kiểm toán. Thành
viên ban giám đốc kiểm soát chất lượng kiểm toán không nhất thiết phải soát xét toàn
bộ tài liệu trong hồ sơ kiểm toán mà có thể chỉ thực hiện soát xét các phần hành được
đánh giá là có rủi ro cao và có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, soát xét sự
đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng kiểm toán, sự phù hợp của kết luận kiểm
toán với kế hoạch kiểm toán, với kết quả của các công việc thực hiện, soát xét báo
cáo kiểm toán.
20
Soát xét của thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng: Tất cả các
cuộc kiểm toán đều phải được một thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng
phụ trách và thành viên đó là một trong hai người ký báo cáo kiểm toán. Vì vậy,
thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng có trách nhiệm soát xét đối với tất cả
các cuộc kiểm toán do mình phụ trách, cụ thể kế hoạch kiểm toán phải được thành
viên ban giám đốc phụ trách khách hàng soát xét, phê duyệt trước khi thực hiện kiểm
toán tại khách hàng, báo cáo kiểm toán phải được thành viên ban giám đốc soát xét,
phê duyệt trước khi phát hành. Tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán cụ thể, mức độ
thực hiện soát xét của cấp bậc này có thể khác nhau. Ví dụ, với những cuộc kiểm toán
quy mô nhỏ, đã kiểm toán nhiều năm và rủi ro thấp thì thành viên ban giám đốc phụ
trách khách hàng có thể chỉ soát xét tổng hợp kết quả kiểm toán, báo cáo kiểm toán
và thư quản lý. Với các khách hàng có quy mô lớn, rủi ro cao hoặc kiểm toán năm
đầu tiên… thì mức độ soát xét có thể chi tiết hơn.
Như vậy, trong mỗi cuộc kiểm toán cụ thể, việc soát xét được thực hiện bởi
nhiều cấp bậc soát xét khác nhau với công việc soát xét và trách nhiệm soát xét của
mỗi cấp bậc khác nhau là khác nhau tuỳ thuộc vào quy mô, đặc điểm, tính chất phức
tạp của từng cuộc kiểm toán cụ thể.
3.2 Các thủ tục soát xét trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại các
công ty kiểm toán độc lập
Trong mỗi giai đoạn của quy trình kiểm toán, các thủ tục soát xét được thực
hiện bởi các cấp bậc khác nhau, thời gian soát xét khác nhau và nội dung soát xét là
khác nhau.
1.2.1 Soát xét trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Do kế hoạch kiểm toán gồm nhiều nội dung và yêu cầu đối với kế hoạch kiểm
toán là rất cao nên kế hoạch kiểm toán cần được soát xét một cách đầy đủ, thận trọng
trước khi tiến hành kiểm toán để đảm bảo kế hoạch kiểm toán có thể được thực hiện
khả thi và hiệu quả.
Kế hoạch kiểm toán phải được soát xét đầy đủ và được thành viên ban giám
đốc phụ trách khách hàng phê duyệt trước khi thực hiện kiểm toán.
Tuỳ theo đặc điểm về của từng cuộc kiểm toán cụ thể về mặt rủi ro, tính chất
phức tạp, thời gian kiểm toán…, kế hoạch kiểm toán được soát xét bởi các cấp bậc
21