Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản chất của Đảng và mục tiêu, lý
tưởng của Đảng.
MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi
thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính,
hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công
nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam
suốt 90 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con
đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính ngun tắc trong cơng
tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên”. Vấn đề đặt ra hiện nay là, mọi tổ chức đảng từ
Trung ương đến địa phương, cán bộ, đảng viên phải nắm vững toàn bộ nội dung
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo;
đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ,
thiết thực, nói đi đơi với làm; qn triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về: “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó phải ln nắm
vững và nhớ rõ về bản chất giai cấp công nhân của Đảng và về mục tiêu, lý
tưởng của Đảng.
Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận cán bộ đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Xa rời tơn chỉ, mục đích của Đảng; khơng kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận
chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Để làm
rõ hơn về bản chất, mục tiêu, lý tưởng của Đảng em xin chọn đề tài tiểu luận:
“Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản chất của Đảng và mục tiêu, lý
tưởng của Đảng”
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1; TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT, MỤC
TIÊU VÀ LÝ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về
xây dựng Đảng của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để
giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Đảng; bảo
đảm cho Đảng, mặc dù sinh trưởng trong hồn cảnh một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, nơng dân chiếm số đông trong dân số, giai cấp công nhân cịn nhỏ
bé, nhưng vẫn ln ln mang trong mình bản chất cách mạng và khoa học thuộc tính căn bản nhất của một đảng Mácxít.
Với nhận thức sáng suốt và sâu sắc rằng: Chỉ có sự lãnh đạo của một
Đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước mình, đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách
mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công, Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu để
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước
ta, Người luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng lớn mạnh về mọi mặt. Nội
dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chăm lo cho công tác xây dựng
Đảng rất phong phú. Về bản chất giai cấp công nhân của Đảng, được Người nêu
lên rõ nét, nhất quán thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lê nin về Đảng Cộng sản trong điều kiện Việt Nam
Trước hết, Người khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam.
Trong "Điều lệ tóm tắt" của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại
Hội nghị hợp nhất 3 đảng năm 1930 đã nêu: Đảng là đội tiên phong của đạo
quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp cơng nhân và làm cho họ có đủ năng
lực lãnh đạo quần chúng.
Đại hội II của Đảng năm 1951 đã khẳng định "Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và nhân dân lao động Việt
Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân của Đảng tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt
Nam”.
Đại hội II kết luận: Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động Việt Nam, nói cách khác, Đảng Lao động Việt Nam
là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Về bản chất,
Đảng Lao động Việt Nam mang bản chất công nhân, là đảng cách mạng kiểu
mới của giai cấp cơng nhân, vì Đảng Lao động Việt Nam có đủ những tính chất
căn bản của một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng;
- Đảng lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức;
- Đảng lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm về Đảng (tại Bài nói chuyện tại
Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tâp họp vào tháng 1 năm
1965): Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng ta đã biết vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta một cách sáng tạo để nêu ra đường lối,
chính sách đúng đắn, đảm bảo cho cách mạng phát triển thắng lợi. Cán bộ, đảng
viên ta nói chung là những người cộng sản chân chính, trung thành với lợi ích
của giai cấp, của nhân dân và được dân mến, dân tin.
Trong tác phẩm; “Đạo đức cách mạng" Người viết: "Để giành thắng lợi,
cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên
tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ
nhất. Mà Đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Cách mạng ở
Liên Xô và ở các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa đã chứng thực điều đó,
khơng ai chối cãi được”.
Trong tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân tích những nhân tố đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Người viết: “Ngay từ lúc đầu, Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc
dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lúc đó giai cấp tư sản
non yếu chỉ mong thoả hiệp với đế quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu
tư sản tuy là sơi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, khơng có đường ra. Chỉ có giai cấp
cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu với
bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của
phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng
đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”
Nói bản chất cơng nhân của Đảng hồn tồn khơng có nghĩa là xem nhẹ
vấn đề dân tộc, bởi vì trong thời đại ngày nay, khi mà chủ nghĩa đế quốc còn tồn
tại và dùng danh nghĩa như: "khai hoá văn minh" trước đây và "bảo vệ nhân
quyền" ngày nay để đàn áp các dân tộc, ép buộc dân tộc này hay dân tộc khác
phải nghe theo chúng thì chỉ có thể đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
hiện đại với lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác - Lênin với thế giới quan khoa
học và phương pháp luận biện chứng thì mới có thể có đường lối, chính sách
đúng đắn, bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài của dân tộc mình một cách chắc
chắn nhất.
Trong Báo cáo chính trị tại đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng lao động Việt Nam tháng 2-1951, Chủ tịch hồ Chí Minh đã nêu về mục
tiêu đấu tranh của Đảng chỉ khi nào phù hợp với nguyện vọng, với lợi ích của
nhân dân thì cách mạng thành cơng: việc gì đúng với nguyện vọng của nhân dân
lao động thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như
vậy mới thật là một phong trào quần chúng. Cũng trong Báo cáo nêu trên đã nêu
quyền lợi giai cấp, nhân dân lao động và của cả dân tộc phải được Đảng quan
tâm, thống nhất các quyền lợi đó như nhau: Trong giai đoạn này, quyền lợi của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
cho nên nó phải là đảng của cả dân tộc".
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một quan điểm rất rõ ràng, dễ hiểu, đó
là: “tất cả những việc Đảng và chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho
nhân dân. Làm gì mà khơng nhằm mục đích ấy là không đúng.
Chính xuất phát từ những quan điểm Đảng đại diện cho lợi ích của nhân
dân, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên hoạt động bất
kỳ ở đâu, ở cương vị nào cũng đều phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên
trên hết. Người viết trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, 3-2-1969: “mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng,
của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải cương quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh
thần đồn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi
quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân,
phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi
nhiệm vụ”
Biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết rõ nhất cụ thể
nhất là Đảng ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, vì chỉ có giai cấp cơng nhân mới có thể “đưa cách mạng giải phóng dân tộc
đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành cơng”.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, lý tưởng của Đảng
Ngay sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vì từ đó, Đảng
lãnh đạo cách mạng trong điều kiện đã có chính quyền. Trong tác phẩm “Đường
cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu đấu tranh của Đảng là lãnh
đạo nhân dân giành lấy chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền mang lại lợi ích
cho dân tộc, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng không
phải là một tổ chức tự thân, vì vậy mục đích, tơn chỉ của Đảng là “tận tâm”, “tận
lực”, “phụng sự” và “trung thành với lợi ích của dân tộc Việt Nam”.
Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không thay đổi bản chất, khơng thay đổi
mục đích lý tưởng của mình. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng cương
lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách, các định hướng về chủ trương công tác;
bằng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng lựa chọn, giới thiệu những đảng viên ưu tú có
đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực vào trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền
theo đúng quy trình, thủ tục và pháp luật của Nhà nước. Đảng hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân và luôn luôn
chịu sự giám sát của nhân dân.
Là lực lượng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử,
trước nhân dân về sự bảo vệ toàn vẹn độc lập dân tộc, về sự phát triển của đất
nước, về hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đảng cầm quyền
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong Di chúc, Người viết "Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân". Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự vận
dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin về Đảng vô sản kiểu mới. Người
nhấn mạnh “việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”. Mỗi cán bộ, đảng
viên “đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân…”.
Đảng cầm quyền, dân là chủ, Đảng phải lấy “dân làm gốc”. Dân chỉ có thể
làm chủ thực sự khi có sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi người dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh là để bảo đảm quyền làm chủ thực sự
của mình.
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam là đường hướng, phương châm khoa học, cách mạng, để Đảng và nhân
dân Việt Nam xây dựng Đảng trở thành Đảng cách mạng chân chính, vững
mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam đi tới thành công.
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ BẢN
CHẤT, MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản chất của Đảng
Từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta luôn khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc” (Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo xây
dựng, phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Việc khẳng định bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng khơng có nghĩa là
tách rời Đảng, giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động, với tồn thể dân tộc,
mà cịn khẳng định một cách sâu sắc Đảng ta là người đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Bản chất
đó xuyên suốt, thấm sâu vào tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ
chức. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện không phải chỉ ở số lượng
nhiều hay ít đảng viên xuất thân từ thành phần cơng nhân, mà cịn gồm cả lập
trường, tư tưởng, quan điểm, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức của Đảng
và việc thực hiện các vấn đề này còn thể hiện ở quan điểm của giai cấp công
nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để giành thắng lợi, cách mạng nhất
định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất và tổ
chức chặt chẽ nhất”. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng khơng hề đối lập với
tính dân tộc, mà còn thấm đượm tinh thần dân tộc, nâng dân tộc lên tầm cao
mới. Khi nói đến lợi ích của giai cấp cơng nhân trong tình hình cụ thể của nước
ta, là nói đến sự thống nhất giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; sự đồng thuận
giữa lợi ích của dân tộc và tồn thể nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Hơn 90 năm ra đời, tồn tại và phát triển, Đảng ta đã phấn đấu cho lợi ích
giai cấp và lợi ích dân tộc, không ngừng đấu tranh giành từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, đưa sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc và nhân
dân ta tiến lên, tiếp tục cơng cuộc đổi mới tồn diện xây dựng và phát triển đất
nước ta giàu mạnh, văn minh, hiện đại; nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng, trong Văn kiện Đại
hội X rồi đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại
hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân
tộc”(2). Thể chế hóa tư tưởng của Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013, tại
Điều 4 đã hiến định bản chất và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội”(3).
Diễn đạt như trên vừa thể hiện tính phổ biến và tính đặc thù trong bản
chất của Đảng ta. Là Đảng Cộng sản chân chính, Đảng ta mang bản chất GCCN
theo chủ nghĩa Mác-Lênin (tính phổ biến); cịn nét đặc thù của Đảng ta theo sự
phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đồng thời là của nhân dân
lao động, của dân tộc, phù hợp với thực tế Việt Nam và đáp ứng được nguyện
vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt về bản chất của Đảng ta như trên là biện
chứng, khoa học, phù hợp với thực tế, khắc phục được cả hai cực đoan: (1) phủ
nhận, xóa nhịa bản chất GCCN của Đảng, rơi vào quan điểm “Đảng toàn dân”,
và (2) hiểu bản chất GCCN của Đảng theo nghĩa hẹp hòi, biệt phái, tách rời
GCCN khỏi nhân dân lao động và dân tộc. Điều đó địi hỏi Đảng ta chẳng những
phải trung thành với GCCN, nâng cao lập trường, tư tưởng của GCCN, mà còn
phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, sức mạnh đại đồn kết tồn
dân tộc, phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp và dân tộc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, mặc dù các thế lực thù địch chống phá điên
cuồng, nhưng nhờ thường xuyên giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, nên Đảng ta tiếp tục khẳng
định và được hiến định vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, đưa đất
nước không ngừng phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng cịn
nhiều hạn chế, trong đó có những khuyết điểm ảnh hưởng đến bản chất của
Đảng. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ ra: “…công tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng
ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lịng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu khơng được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Với các giải pháp cụ thể, thiết thực, sau gần 4
năm thực hiện, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng bước đầu như Dự
thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Nghị quyết Trung
ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần siết lại kỷ
luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh báo, răn đe, cảnh tỉnh và ngăn chặn các hành vi
tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh cơng tác xây dựng Đảng, đưa tự phê bình và phê
bình trở thành cơng việc thường xun trong Đảng” 3. Đồng thời, Dự thảo tiếp
tục đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính
tiên phong, sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ,…”. Như vậy, tăng cường bản chất giai cấp công nhân được
Đảng ta xác định là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh hiện nay.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện
tốt những nội dung đã xác định từ Đại hội VIII của Đảng: “Trong điều kiện hiện
nay, giữ vững và tǎng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là phải: Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ tình huống khó
khǎn nào cũng khơng dao động, xa rời mục tiêu đó…”. Đặc biệt, Đại hội XII của
Đảng vừa được tổ chức thành công mới đây đã một lần nữa khẳng định: “tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch…”, rằng: “Giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên”. Quán
triệt tinh thần đó thời gian tới, phải tiếp tục bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng
cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, về
yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, v.v.
Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng khơng dao động, xa rời mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì nó chính là mục tiêu, lý tưởng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của Đảng ta. Đồng thời, phải lấy chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng; ra sức học tập để nắm vững bản chất cách mạng, khoa học
và biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn, làm cho Đảng có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành trọng trách mà lịch sử giao phó. Cùng
với việc coi trọng cơng tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nâng cao trình
độ trí tuệ của Đảng, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống mọi thủ đoạn, luận
điệu xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, hoặc tư tưởng giáo điều, xét lại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Khi nói: “Đảng của dân tộc Việt
Nam”, thì việc gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân đã được Đảng ta coi là
quy luật tồn tại, phát triển, là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng. Xa rời
nhân dân là Đảng làm phai nhạt bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng và xa
rời cơ sở chính trị - xã hội cho sự tồn tại, phát triển của mình. Là đảng cầm
quyền, Đảng phải luôn coi trọng liên hệ chặt chẽ với nhân dân thông qua các
mối quan hệ: giữa chính quyền với nhân dân; giữa Mặt trận Tổ quốc với các
đoàn thể nhân dân; giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân, v.v. Chính
điều tưởng đơn giản đó đã làm nên sự vĩ đại của Đảng, như Bác Hồ đánh giá:
“Đảng vừa lo tính cơng việc lớn..., đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những
việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân
dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận
trong lịng của mỗi đồng bào ta”. Sự khẳng định đó vẫn đúng trong cả hiện tại và
tương lai nếu Đảng ta vẫn kiên trì thực hiện. Vì vậy, để có đủ năng lực lãnh đạo
đất nước vững vàng phát triển trong thời kỳ hội nhập, Dự thảo Báo cáo Chính trị
trình Đại hội XII xác định, thực hiện tốt vấn đề này là một trong những nội dung
quan trọng của công tác xây dựng Đảng thời gian tới: “Tiếp tục đổi mới, nâng
cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân”.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa X)
về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", tiếp tục khẳng định giai cấp công nhân Việt
Nam là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, bản chất giai cấp công nhân của Đảng
gắn liền với bản chất của giai cấp cơng nhân. Theo đó, trong tình hình mới cần
đặc biệt coi trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là đảng viên trong công
nhân. Bởi lẽ, bản chất giai cấp công nhân của một Đảng Cộng sản, suy đến cùng
thì vẫn do chất lượng đội ngũ đảng viên quyết định. Vì vậy, để kết nạp được
những đảng viên ưu tú, vấn đề đặt ra là phải tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện để
có đội ngũ đồn viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn kết nạp vào Đảng. Đó là người có giác
ngộ chính trị cao, tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu, lý tưởng, đường lối của
Đảng; biết đặt lợi ích cá nhân trong quan hệ hài hịa với lợi ích tập thể; phấn đấu
hết mình vì lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
khi cần, dám hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Đảng, của dân tộc; có đạo
đức, lối sống lành mạnh và phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Cùng với việc tổ
chức kết nạp đúng quy trình, thủ tục, quy định, phải coi trọng việc bồi dưỡng,
thử thách đối tượng, kịp thời phát hiện, loại bỏ những người có động cơ vào
Đảng khơng đúng.
Từ thực tiễn của cách mạng nước ta, có thể khái quát về bản chất giai cấp
công nhân của Đảng ở một số nội dung chủ yếu sau:
- Là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, Đảng có nhiệm vụ đề ra mục tiêu, phương hướng, đường
lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển khách quan của đất
nước. Đồng thời, giáo dục, tổ chức, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
- Đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân
tộc khi thắng lợi cũng như lúc gặp khó khăn, thách thức, khi thành cơng cũng
như khi có sai lầm, khuyết điểm ln tự phê bình và phê bình, dũng cảm đấu
tranh để vượt qua, thể hiện được bản lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân
trong từng giai đoạn của cách mạng.
- Đảng ta đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới nhằm tạo ra bước
ngoặt lịch sử đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo đói và bước
vào thời kỳ phát triển mới phù hợp với lợi ích chính đáng và nguyện vọng thiết
tha của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ
chức của giai cấp công nhân, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan
điểm của giai cấp công nhân. Giữ gìn sự đồn kết để Đảng ln là một khối
thống nhất về ý chí và hành động, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật sinh hoạt
Đảng.
- Đảng gắn bó “máu thịt” với nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, tổ chức nhân dân tiến hành
công cuộc đổi mới để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đồn
kết tồn dân tộc, tơn trọng và phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội; dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. “Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân
là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của
Đảng”.
- Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội của nhân dân thế
giới. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác,
tiến bộ và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác khu vực, cộng đồng
ASEAN và quốc tế.
Để tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng gắn với đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của cơng đồn Việt Nam, góp phần xây
dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ mới, theo chúng tôi cần thực
hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, cần phải tiếp tục
đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng cách không ngừng tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn sinh động đang nảy sinh trong đời sống xã hội và phong
trào công nhân lao động ở nước ta và trên thế giới; tiếp thu có chọn lọc những
thành tựu, trí tuệ, tinh hoa của nhân loại. Trên cơ sở đó, hồn chỉnh và phát triển
đường lối, chính sách phù hợp với lợi ích của giai cấp cơng nhân lao động, của
dân tộc và của nhân dân ta. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện
tiên quyết bảo đảm thành cơng của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chủ động hội nhập quốc tế.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh phải gắn kết hữu
cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng là một nhiệm vụ xuyên suốt, thường xuyên của công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.
Ba là, chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt
chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và
chăm lo xây dựng giai cấp cơng nhân; có cơ chế, chính sách đảm bảo hài hịa lợi
ích giữa cơng nhân lao động, người sử dụng lao động, nhà nước và toàn xã hội;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân lao động,
quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, thiết thực của công nhân lao
động như: trình độ học vấn, chun mơn, cơng nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, tiền
lương, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao
động, mơi trường lao động, vệ sinh, an tồn lao động và mơi trường sinh hoạt
văn hóa tinh thần. Sự chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp cơng nhân
cịn được Đại hội XII của Đảng xác định rõ “ …Phải bảo đảm việc làm, nâng
cao thu nhập,…các cơng trình phúc lợi phục vụ cơng nhân…”
Bốn là, chăm lo xây dựng giai cấp cơng nhân có trình độ, giác ngộ về
chính trị, tư tưởng xứng đáng vai trị tiên phong. Phát triển giai cấp cơng nhân
về số lượng phải đi đôi với chất lượng. Đẩy mạnh việc phát triển Đảng trong
công nhân, trong doanh nghiệp; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ
công nhân lao động; vận dụng đúng đắn quan điểm giai cấp công nhân của Đảng
trong công tác cán bộ của thời kỳ mới phải phù hợp với lập trường và lợi ích của
giai cấp cơng nhân, của nhân dân và của dân tộc. Đảng ta đã chỉ rõ: “Xây dựng
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ phải trên cơ sở giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng, có chính sách đồn kết, tập hợp rộng rãi các
loại cán bộ, trọng dụng hiền tài”. Thể chế hoá, cụ thế hoá các nguyên tắc về:
Quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và
chính sách đại đồn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn
và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất
của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính
trị, trong đó có Cơng đồn Việt Nam.
Năm là, xây dựng giai cấp cơng nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và của toàn xã hội cũng như nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi
người công nhân và sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động;
trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trị quyết định.
Cơng đồn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân có vai
trị quan trọng trong việc tăng cường và phát huy bản chất giai cấp công nhân
của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với việc xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò tiên phong, gương
mẫu của giai cấp công nhân rèn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật trong lao động và
phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối làm việc của người
công nhân trong môi trường công nghiệp với khoa học công nghệ hiện đại.
Sáu là, tăng cường và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Cơng
đồn Việt Nam để thu hút, tập hợp cơng nhân lao động vào tổ chức cơng đồn;
cơng đồn phải là người đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho đồn viên, cơng nhân lao động. Chú trọng cơng tác phát triển đồn viên và
xây dựng, củng cố tổ chức cơng đồn cơ sở trong các khu kinh tế, khu cơng
nghiệp, khu chế xuất hoạt động có chất lượng, có hiệu quả thiết thực, thực sự là
tổ chức của công nhân lao động. Quan tâm xây dựng và phát huy vai trị của đội
ngũ cán bộ cơng đồn các cấp, nhất là cán bộ cơng đồn cơ sở chun trách có
trình độ chun mơn về nghề nghiệp, hiểu biết về chính sách, pháp luật; có năng
lực về quản lý lao động, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, tài chính, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế….và có năng lực làm việc, đối thoại với chủ doanh
nghiệp và công nhân lao động trong thương lượng ký thoả ước lao động và xây
dựng mối quan hệ hài hoà trong lao động.
Bảy là, thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng giai cấp công nhân lao
động và xây dựng tổ chức cơng đồn Việt Nam vững mạnh. Đồng thời, bản thân
tổ chức cơng đồn phải thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của
Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Cơng đồn và
Điều lệ Cơng đồn Việt Nam. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát
và phản biện xã hội của cơng đồn đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức,
các doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách đối với cơng nhân lao động và
hoạt động của cơng đồn. Xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cơng
đồn với Đảng và giai cấp cơng nhân, góp phần vào sự nghiệp phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mục đích, lý tưởng của
Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Bởi vậy, Đảng khơng có mục đích nào
khác ngồi mục đích bảo vệ lợi ích hợp pháp và đem lại quyền làm chủ cho
Nhân dân, đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Bảo vệ lợi ích chính
đáng của Nhân dân cũng là để đảm bảo quyền con người được thực thi trong
cuộc sống. Kể từ khi Đảng ta thành lập cho đến nay, các quan điểm, chủ trương
của Đảng luôn nhất quán trong việc bảo đảm quyền con người, xem quyền con
người là bản chất của chế độ XHCN; là lý tưởng, mục tiêu, động lực của sự phát
triển. Đảng đã khơng ngừng bổ sung, hồn thiện chính sách ấy trong các văn
kiện Đại hội Đảng gần đây.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đã chỉ rõ rằng mục đích lâu dài của
Đảng là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xã hội gồm 6
đặc trưng: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu; có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đến Đại hội X của Đảng (2006), sáu đặc trưng này đã được sửa đổi và bổ
sung một số điểm:
Về việc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Cương lĩnh viết: “Mục
tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị
và tư tưởng, văn hố phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh”.
Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định xã hội
xã hội chủ nghĩa có 8 đặc trưng: (1) dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; (2) do nhân dân làm chủ; (3) có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; (8) có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới. Tám đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và khát vọng của dân
tộc Việt Nam, vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại và tầm nhìn của thời đại.
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
có một số điểm mới:
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là những giá trị tiến bộ
phổ quát mà nhân loại đang hướng tới; là khát vọngphát triển của mọi dân tộc,
nhất là ở những nước đi sau, đồng thời là việc cụ thể hố mơ hình chủ nghĩa xã
hội chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra phù hợp với logic của thực tiễn và logic
của phát triển.
Thứ hai, đề cao dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta đã cho thấy điểm mới trong nhận
thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu dân chủ tư sản là bước tiến bộ
so với chế độ phong kiến, đảm bảo cho chế độ tư bản phát triển, thì dân chủ xã
hội chủ nghĩa là nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa, là điều kiện giải phóng
triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tiến bộ và
tốt đẹp hơn.
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của mơ hình xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Cách diễn đạt này phản ánh đúng quy
luật cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thay vì tập trung vào việc đảm bảo chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, điều này địi hỏi phải khơng ngừng
hoàn thiện quan hệ sản xuất một cách đồng bộ, toàn diện (chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản phẩm), vừa tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là một bổ sung quan trọng về
đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Thứ năm, nhấn mạnh vấn đề phát triển con người. Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Điều đó chứng tỏ rằng, lý luận của
chủ nghĩa Mác để giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đúng, đồng
thời càng khẳng định lý tưởng nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội mà Mác
đã nêu ra vẫn giữ nguyên giá trị: đó là vì con người, phát triển và giải phóng con
người mà trước hết là những người lao động.
KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn phát huy bản chất
giai cấp công nhân, đặt niềm tin vào giai cấp công nhân, quan tâm lãnh đạo xây
dựng, phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng,
tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức
cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học,
ln gắn bó với nhân dân”. Nhờ đó, Đảng đã vững vàng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thách thức, đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong tình hình hiện nay, khi nước ta đang hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá thì việc tăng
cường bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng càng trở nên quan trọng, cấp thiết.
Ngoài ra, cần phải giữ vững cả mục tiêu, lý tưởng của Đảng.Có như thế mới xây
dựng được thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, giữ vững
mục tiêu, lý tưởng của Đảng là vấn đề đặc biệt quan trọng trong mọi giai đoạn
của cách mạng, là những vấn đề cốt lõi, có tính ngun tắc, đảm bảo cho Đảng
ta thực sự là đảng mác-xít chân chính; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao, trung thành phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc Việt Nam, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang do nhân
dân giao phó
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS Trần Thị Anh Đào: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, Hà Nội, 2016
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII
của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh
và tương đương), tháng 4-2015
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời
kỳ đổi mới, Phần I, Nxb CTQG, H. 2010
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011
6. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011
7. Hồ Chí Minh: Giai cấp cơng nhân và Cơng đồn, Nxb Lao động, H.
1985
8. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011
9. TS. Nguyễn Văn Hùng, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương,
Tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong giai đoạn
hiện nay, Tạp chí Dân vận số 8/2015