Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐỀ tài NGHIÊN cứu QUÁ TRÌNH đổi mới tư DUY của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về CÔNG NGHIỆP hóa xã hội CHỦ NGHĨA GIAI đoạn 1991 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.76 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính tương đối. Trong mỗi thời kỳ
lịch sử khác nhau, trong mỗi nước với điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác nhau
thì nội dung công nghiệp hoá khác nhau. Nhưng với mọi nước, công nghiệp hoá
đều có một vai trò chung hết sức quan trọng: là con đường tất yếu để đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, trở thành nước có nền kinh tế văn minh hiện đại.
Với nước ta công nghiệp hoá là cách thức duy nhất để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo
đảm cho thời kỳ quá độ được vững chắc, đúng hướng. Với ý nghĩa đó Đảng ta
luôn xác định: Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ.
Ngày nay, tình hình thế giới đang có nhiều biến đổi hết sức phức tạp.
Đặc biệt với sự tác động mạnh mẽ của xu thế hội nhập và những thành tựu to
lớn do cuộc cách mạng khoa học công nghệ mang lại đã làm thay đổi nội
dung của công nghiệp hoá. Các nước hoàn toàn có thể thay đổi tư duy về công
nghiệp hoá với xu hướng rút ngắn, thực hiện những bước nhảy vọt để đạt
được mục tiêu công nghiệp hoá mà không phải trải qua những bước tuần tự từ
nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính vì vậy, về
mặt lý luận cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung phát triển những vấn đề mới
về công nghiệp hoá để cho phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế.
Đồng thời qua dó rút ra được những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau.
Mặt khác để thấy rõ quá trình đổi mới tư duy của Đảng về công
nghiệp hoá là hoàn toàn phù hợp và kịp thời. Trên cơ sở đó, nhận thức rõ
hơn về vai trò của việc tiếp tục đổi mới tư duy về công nghiệp hoá trong
giai đoạn mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh.
Với ý nghĩa đó chúng tôi chọn chuyên đề “Quá trình đổi mới tư duy của
Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ 1991 đến
2001. Thành tựu và kinh nghiệm”.


Phần 1:


QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TỪ 1991 ĐẾN 2001

I. Tính tất yếu đổi mới tư duy về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
1. Xuất phát từ vai trò của đổi mới tư duy
Trong suốt nửa thế kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến những nỗ lực phi
thường của cộng đồng quốc tế trong việc thúc đẩy sự phát triển của những
nước nghèo, nhiều nước đã nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng nghèo đói
kém phát triển vươn lên đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội. Những nỗ lực này đều dựa trên nền tảng của những
tiền hoá, những đổi mới trong tư duy về phát triển kinh tế. Những thay đổi
mạnh mẽ trong nhận thức và tư duy về vấn đề phát triển kinh tế xã hội trong
những năm qua trên thế giới có thể coi là một cuộc cách mạng về tư duy. Qua
đó ta có thể thấy được vai trò to lớn của vấn đề đổi mới tư duy đối với sự phát
triển của một đất nước, đó là công cụ sắc bén trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội.
Xét theo nghĩa chung nhất, tư duy là quá trình nhận thức phản ánh gián
tiếp và khái quát các thuộc tính, cái mới liên hệ có tính quy luật của sự vật
hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư duy có vai trò to lớn đối với thực
tiễn cuộc sống, nhờ có tư duy mà con người có thể nắm bắt được bản chất,
quy luận vận động, diễn biến tình hình của thực tiễn, từ đó có biện pháp phù
hợp với thực tế khách quan để nâng cao hiệu quả hoạt động của con người.
Tư duy về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một biểu hiện cụ thể
trong nhận thức, trong tư duy của Đảng về một lĩnh vực cụ thể trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong những năm qua, những thành tựu đạt
được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội là kết quả của những chủ


trương đường lối đúng. Hay nói cách khác đó là kết quả tất yếu của quá trình
tư duy và liên tục đổi mới tư duy của Đảng về thời kỳ quá độ và con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó có vấn đề công nghiệp hoá.
Tuy nhiên cần thấy rằng nội hàm của công nghiệp hoá luôn có sự thay
đổi cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học va công
nghtrong thời đại cuộc cách mạng khoa học công nghệ phat triển như vũ bão.
Chính vì vậy, nhận thức, tư duy chỉ thực sự phù hợp và kịp thời khi dựa trên
thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn. Muốn vậy, chỉ có cách duy nhất là phải
thường xuyên đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, làm cho chủ trương chính
sách không bị lạc hậu so với thực tiễn. Có vậy mới đảm bảo cho đường lối
của Đảng luôn luôn đúng, luôn hợp quy luật, thuận lòng người để nhanh
chóng đi vào cuộc sống, góp phần quyết định vào thắng lợi của công cuộc
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa xây dựng cơ sở vật chất thời kỳ quá độ.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với những thành tựu to lớn của khoa
học mang lại, chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện đi tắt đón đầu, từng bước
rút ngắn về khoảng cách trình độ phát triển kinh tế so với các nước phát triển
trên thế giới. Nhưng với điều kiện phải đổi mới tư duy về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước một cách phù hợp và kịp thời. Điều đó đặt ra yêu cầu
công tác tư tưởng lý luận của Đảng là phải liên tục tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận, đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội nói chung và về công nghiệp hoá xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội nói riêng.
2. Xuất phát từ thực trạng tư duy về công nghiệp hoá của Đảng Cộng
sản Việt Nam trước 1991
Nhận thức rõ được vai trò của đổi mới tư duy đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã xác
định; phải đổi mới; và sự nghiệp đổi mới đó phải bắt đầu từ đổi mới tư duy,


trước hết là tư duy kinh tế. Song đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận
những thành tựu lý luận đã đạt được mà trái lại chính là phải bổ sung và phát
triển những thành tựu ấy. Đại hội cũng nhấn mạnh: phải đẩy mạnh công tác

nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, từ đó rút ra những kết luận đúng đắn, khắc phục những quan niệm sai lầm
hoặc lỗi thời.
Như vậy trên thực tế, quá trình đổi mới tư duy của Đảng về công nghiệp
hoá chỉ thực sự diễn ra từ Đại hội VI. Trước đó không phải Đảng ta chưa có
tư duy về công nghiệp hoá. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
(1960) của Đảng, những nội dung về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta xác lập trong đường lối xây dựng đất nước.
Đến Đại hội VI, những nhận thức đó tuy có được bổ sung phát triển thêm
những vẫn còn rất chậm, chưa thoát khỏi sự hạn chế của lối tư duy cũ về
công nghiệp hoá ở các nước Liên Xô, Đông Âu và có phần dập khuôn
máy móc duy ý chí, một số nội dung còn tỏ ra lạc hậu về nhận thức lý
luận. Đại hội V bổ sung nhận thức công nghiệp hoá với chủ trương tập trung
sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh
sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng
quan trọng.Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý.Tuy nhiên trên thực tế, việc
tổ chức thực hiện không đúng, mắc nhiều sai lầm khuyết điểm, chưa thực sự
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Về hạn chế đó Đại hội VI đánh giá
như sau: Trong nhiều năm nay, trong nhận thức của cán bộ đảng viên về
chủ nghĩa xã hội có nhiều quan điểm lạc hậu, nhất là những quan niệm về
cải tạo xã hội chủ nghĩa; về cơ chế quản lý kinh tế; về công nghiệp hoá;
về phân phối lưu thông....Đó cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến


những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã xác định nội dung công
nghiệp hoá trong những năm còn lại của chặng đường trước mắt là tập trung
vào ba chương trình kinh tế lớn: lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu

dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, căn cứ vào tình hình thế giới và
trong nước, Đại hội VI xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Đại hội đã đề
ra nhiều phương hướng, nội dung quan trọng. Trong đó nhấn mạnh: Trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5
năm 1986 - 1990 phải thực sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện
cho được ba chương trình, mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Những chương trình mục tiêu trên được Đại hội xác định
chính là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường đầu tiên. Với nội dung công nghiệp hoá nói trên, Đại hội
VI đã đánh dấu một bước mới nhận thức về tư duy về công nghiệp hoá hết
sức quan trọng của Đảng ta. Trong đó quan trọng nhất là đổi mới tư duy về
nông nghiệp, về vai trò của nông nghiệp trong việc đáp ứng những nhu cầu
cấp bách về lương thực thực phẩm và trong việc thực hiện ba chương trình
mục tiêu kinh tế lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu một bước quan
trọng trong tư duy của Đảng về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ. Đó là kết quả quá trình không ngừng tìm tòi thử nghiệm của Đảng ta từ
giai đoạn trước 1986. Cùng với những quan điểm trước trong các kỳ đại hội, đây
thực sự là nền tảng để Đảng ta tiếp tục hoàn chỉnh đường lối đổi mới nói chung và
tư duy về công nghiệp hoá nói riêng trong giai đoạn tiếp theo.
3. Xuất phát từ đặc điểm yêu cầu của tình hình trong giai đoạn mới


Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự hình
thành xã hội thông tin đã tác động mạch mẽ đến đời sống kinh tế xã hội của
mọi nước trên thế giới. Mặt khác,quá trình toàn cầu hoá kinh tế gắn với quá

trình tiếp xúc giao lưu đối thoại giữa các nền văn hoá là một xu thế khách quan và
phổ biến.Đặc điểm này đặt ra yêu cầu đối với mọi quốc gia cần phải liên tục thay
đổi quan niệm về sản xuất , quản lý hoạt động kinh tế cho phù hợp, không ngừng
đổi mới công nghệ, phản ứng linh hoạt với những thay đổi của tình hình thế giới.
Chủ nghĩa tư bản do có lợi thế về kinh tế nên trong xu thế mới họ tỏ ra
có nhiều lợi thế hơn hẳn trong việc nhanh chóng ứng dụng những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất, điều chỉnh thích nghi
và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trong bối cảnh đó, các nước xã hội chủ nghĩa đã cố gắng và liên tục cải cách
nền kinh tế của mình. Nhưng đều mang tính cục bộ trên cơ sở giữ nguyên
khuôn khổ của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì vậy, trong những năm
từ 1989 đến 1991 Liên Xô - Đông Âu đã nhanh chóng sụp đổ.
Đối với nước ta, trước 1986 Đảng ta chủ yếu đổi mới từng phần nền kinh
tế đất nước, các chủ trương mang tính cực bộ thiếu tính chiến lược toàn diện.
Hơn nữa do mắc phải một số sai lầm khuyết điểm nên nền kinh tế nước ta rơi
vào khủng hoảng trầm trọng. Đến 1986, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng đã đưa ra được đường lối đổi mới toàn diện. Tuy nhiên cũng cần
phải có một khoảng thời gian để đường lối đó đi vào thực tế. Chính vì vậy, từ
1986 - 1990 tình hình kinh tế ở Việt Nam vẫn hết sức khó khăn. Chỉ số lạm
phát năm 1988 vẫn ở mức 500,8%, đời sống nhân dân vẫn gặp nhiều khó
khăn, nhất là ở nông thôn, vùng núi.
Tình hình trong nước và trên thế giới diễn ra hết sức phức tạp đòi hỏi
Đảng ta cùng với quá trình đổi mới tư duy phát triển kinh tế đất nước phải
liên tục đổi mới quan niệm về công nghiệp hoá đất nước cả về nội dung cũng


như cách thức thực hiện sao cho phù hợp, kịp thời phục vụ đắc lực cho xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tháo gỡ những khó khăn

trước mắt đưa nước ta từng bước phát triển đi lên thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội.
II. Đại hội lần thứ VII (6/1991) của Đảng và quá trình đổi mới tư
duy về công nghiệp hoá từ 1991 đến 1996
1. Đại hội lần thứ VII của Đảng quan niệm về công nghiệp hoá
Bước vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 sự khủng hoảng và đi
đến sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã
có sự ảnh hưởng xấu đến tình hình đất nước ta. Cùng với đó chủ nghĩa đế
quốc vẫn tiếp tục chống phá điên cuồng trên nhiều lĩnh vực đã gây cho chúng
ta những khó khăn nhất định. Mặc dù vậy với đường lối đúng đắn của Đại hội
VI tình hình kinh tế xã hội đã từng bước đi vào ổn định. Mọi mặt đời sống
kinh tế xã hội đã có bước phát triển, vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của Nhà nước được tăng cường. Trước những biến đổi mau lẹ và phức tạp
của tình hình tư duy lý luận cũng phải được bổ sung, phát triển cho phù hợp.
Trên cơ sở những nhận thức trước đó, Đại hội VII tiếp tục bổ sung, phát triển
đường lối đổi mới của Đại hội VI trên nhiều lĩnh vực trong đó có công nghiệp
hoá. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công nghiệp hoá đối với quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII tiếp tục khẳng định công nghiệp
hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, coi đây là điều kiện, con đường
để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Bằng quan niệm
đúng đắn như vậy, Đảng ta khẳng định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân”. Sự khẳng định đó cho thấy nhận thức của


Đảng ta về công nghiệp hoá ngày càng sáng tỏ và đúng đắn hơn, đây chính là
sự kế thừa, phát triển những nhận thức trước đó về công nghiệp hoá.
Nội dung nhiệm vụ trọng tâm được Đại hội xác định:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất: Đây là nhiệm vụ trung tâm hàng

đầu, nhiệm vụ cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Hai là, công nghiệp hoá đất nước phải theo hướng hiện đại để tạo ra
những tiền đề cần thiết, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất.
Ba là, phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Công nghiệp hoá không
thể tách khỏi nông nghiệp đó là một quan niệm đúng đắn và mang tính bền
vững
Quan niệm của Đảng ta công nghiệp hoá theo hướng hiện đại gắn với
phát triển nền nông nghiệp toàn diện là một nhận thức rất mới so với trước kia
của Đảng ta về công nghiệp hoá. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ chi
phối cho nhau trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không chỉ
dừng lại ở đó, Đại hội VII còn xác định nội dung yêu cầu của công nghiệp
hoá trong những năm 1991 - 1995 là “Đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với
những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế theo yêu
cầu công nghiệp hoá”. Tiếp tục khẳng định tính đúng đắn do Đại hội VI đề ra
với 3 chương trình kinh tế lớn và nâng lên một bước cao hơn. Để đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi phải có chính sách công
nghệ thích hợp tận dụng được lợi thế của nước đi sau trong điều kiện mới của
cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nếu như trước đó chúng ta
mới chỉ đề ra phải tập trung sức vào thực hiện cho được ba chương trình kinh
tế lớn thì Đại hội VII đã chỉ ra hình thức và bước đi thích hợp của công
nghiệp hoá. Để phát triển công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa
xã hội cần phải mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu trao đổi công nghệ từng


bước hiện đại hoá nền sản xuất của mình. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng ta chủ trương như vậy là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình. Điều đó sẽ cho phép nước ta
khai thác tối đa tiềm năng của đất nước đồng thời tận dụng được những tiến
bộ của khoa học công nghệ thế giới tạo ra.

Về mặt lý luận, có thể nói Đại hội VII đã thể hiện một tư duy rất mới về
công nghiệp hoá. Không chỉ kế thừa những nhận thức đúng đắn trước đó mà
còn có sự bổ sung, phát triển làm cơ sở cho những nhận thức tiếp theo. Trên
thực tế những nhận thức đó đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, từng bước đưa mục tiêu đến thắng lợi.
2. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994)
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới và tư duy mới của Đảng về công
nghiệp hoá của Đại hội VII, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá
VII (1/1994) đã chủ trương “đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát
triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Lần đầu tiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn liền với nhau, đây là
sự phát triển của Đảng ta. Hội nghị đề ra chủ trương thúc đẩy sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nghị khẳng định
trong những năm tới, trong khi tiếp tục chăm lo củng cố và ổn định đời sống
kinh tế xã hội, chúng ta cần và có điều kiện đưa đất nước chuyển dần sang thời
kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều kiện mà hội
nghị chỉ ra đó là do yêu cầu thực hiện nghị quyết đại hội VII nhất là mục tiêu
đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nước. Đồng thời trong 3 năm
liền, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế tạo ra tiền đề quan
trọng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm của hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ là nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, không
tách rời trong quá trình phát triển của đất nước. Chính vì vậy, nhiệm vụ công


nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà là
sự chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân theo hướng công nghiệp tiến bộ; không chỉ đi những bước tuần tự
mà còn kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, có những mũi
nhọn có thể đi tắt đón đầu, không chỉ áp dụng công nghệ tiên tiến của thế giới

mà còn biết kết hợp công nghệ truyền thống. Có thể nói rằng hội nghị giữa
nhiệm kỳ là bước phát triển tư duy mới về công nghệ hoá gắn liền với hiện
đại hoá. Đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến cũng phải tính đến
cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu đồng thời trong hình thức bước đi theo
hướng tận dụng lợi thế của đất nước vừa có bước tuần tự , vừa có những bước
nhảy vọt đi tắt đón đầu, từng bước theo kịp công nghệ tiên tiến, hiện đại của
thế giới. Chính vì vậy, Hội nghị cũng cho rằng những năm tới chưa phải là
thời kỳ triển khai đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà mới
chỉ là thời kỳ “đẩy tới một bước”. Trong điều kiện nước ta, muốn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có thời gian và những tiền đề vật chất cần
thiết. Để thực hiện được bước chuyển dịch này cần phải thấu suốt và vận
dụng đúng đắn 6 quan điểm lớn trong hoạt động thực tiễn.Có như vậy mới
khắc phục được những khuynh hướng sai lầm hoặc chủ quan nóng vội, chần
chừ do dự không có quyết tâm cao, nỗ lực lớn. Nhờ đó mà vừa ổn định được
vững chắc tình hình kinh tế - xã hội, vừa đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu, bảo
đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2000 và tạo đà cho
bước phát triển về sau.
Mặt khác, phát triển nông nghiệp vẫn là một trong những quan tâm hàng
đầu có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo cơ
sở cho phát triển công nghiệp song đó là một nền nông nghiệp toàn diện,
không phải thuần nông, không phải lạc hậu. Chính vì vậy, hội nghị cho rằng
không thể thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu không đẩy
tới một bước quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế


nông thôn. Hội nghị xác định “Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển
toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với nông nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng
thương nghiệp, du lịch, dịch vụ...xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công

nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có
điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có
hiệu quả cao”. Thực hiện chủ trương, phương hướng trên nhằm tạo cơ sở cho
các bước tiếp theo đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn. Hội nghị còn xác định các yêu cầu và giải pháp cụ thể về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian 1994 đến cuối thập kỷ 90.
3. Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(7/1994)
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII về
đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ ngày 25 đến 30/7/1994
Hội nghị Trung ương lần thứ VII tập trung bàn về chủ trương, chính sách phát
triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân nhằm đẩy tới
một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị đã nhất trí thông
qua nghị quyết “Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong
giai đoạn mới”.
Điểm mới trước tiên phải nói đến lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đó là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa


trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
Trên cơ sở phân tích tình hình công nghiệp, công nghệ và giai cấp công
nhân trong mấy chục năm qua, hội nghị đã xác định mục tiêu và đưa ra các
quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nghị khẳng định “Mục tiêu
lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,

quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển sản xuất, mức sống
vật chất, tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh”.
Đến năm 2000 đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đạt và
vượt mục tiêu xác định (1991 - 2000) đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn
định kinh tế - xã hội vượt qua tình trạng nước nghèo kém phát triển”. Điểm
đáng chủ ý ở đây không phải Đảng đưa ra mục tiêu về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá mà tư duy mới ở chỗ mục tiêu xác định toàn diện và bao quát, phản
ánh đầy đủ tiến trình vận động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác
chúng ta đã loại bỏ tư duy “ngắn hạn” của những năm trước đây với việc xác
định mục tiêu dài hơn cho cả thời kỳ quá độ và đến năm 2000. Đây là một
điểm rất quan trọng mà trước đó Đảng ta chưa làm được.
Bên cạnh đó, các quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng
ta xác định tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1/1994) tiếp tục được bổ sung, phát
triển trên nhiều điểm. Trên cơ sở kế thừa có điều chỉnh, Đảng ta xác định 6
quan điểm chỉ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.Hội nghị cũng chỉ
ra trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng, thực hiện quản lý của Nhà nước phát huy vai trò của
mặt trận và các đoàn thể nhân dân.


Như vậy, cùng với quá trình hoàn chỉnh đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn 1991 - 1996 Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát
triển những nhận thức của mình về công nghiệp hoá bảo đảm cho hoạt động
thực tiễn luôn được soi sáng và chỉ đạo bởi lý luận đúng đắn sáng tạo. Những
nhận thức đó là hoàn toàn phù hợp với lý luận và đặc điểm tình hình đất nước.
Chính vì vậy, nó đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới nói chung, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng.
III. Sự bổ sung phát triển tư duy của Đảng về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá xã hội chủ nghĩa từ 1996 đến 2001

1. Đại hội lần thứ VIII (6/1996) của Đảng nhận thức về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ phát triển mới
Đến giữa những năm 90 tình hình kinh tế - xã hội đất nước có nhiều biến
đổi to lớn. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn cho phép chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh đó, Đại hội VIII của
Đảng đã diễn ra, đánh dấu một mốc mới trong tiến trình phát triển của cách
mạng, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đại hội cho rằng nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã cơ bản hoàn
thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Điều dó cho thấy tư tưởng về sự phân kỳ quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ngày càng được phát triển hơn. Sự phát triển đó không chỉ
dừng lại ở chỗ khẳng định sự kết thúc của chặng đường đầu, bước vào chặng
đường tiếp theo mà còn thể hiện ở chỗ làm rõ nội dung cơ bản của chặng
đường mới này. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Đại hội
VIII của Đảng xác định được cụ thể hoá bằng hệ thống các mục tiêu, quan


điểm chỉ đạo, nội dung và các giải pháp chủ yếu. Trước hết mục tiêu cần đạt
tới là “xây dựng nước ta t thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh”. Bên cạnh việc xác định mục tiêu cơ bản lâu dài của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Đại hội cũng xác định mục tiêu đến năm 2020 đó là “đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Đặc biệt Đại hội đã xác
định những tiêu chí có bản cần phải đạt tới. Đây là vấn đề hết sức cơ bản quan
trọng để định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà các văn
kiện, nghị quyết trước của Đảng chưa chỉ ra được. Đó là các tiêu chí cơ bản

về lực lượng sản xuất, khoa học tự nhiên và công nghệ, quan hệ sản xuất, về
cơ cấu kinh tế và về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân. Các tiêu chí nêu
ra phù hợp với khả năng có thể đạt tới và phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Đảng ta khẳng định “Điều cần quan tâm ở đây chính là tính toàn diện của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không chỉ là quá trình kinh tế - kỹ thuật đơn thuần mà là quá trình xây dựng
toàn diện một xã hội mới cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ
tầng làm kiến trúc thượng tầng...” Làm được những việc nói trên là một bước
tiến lớn trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá do
Hội nghị giữa nhiệm kỳ và Hội nghị Trung ương 7 khoá VII, Đại hội VII đã
bổ sung và hoàn thiện 6 quan điểm chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá:
Một là: giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là
chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh


tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
Hai là: công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo.
Ba là: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất
nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế
gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Bốn là: khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Kết hợp công nghiệp truyền thống với công nghiệp hiện đại; tranh
thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.

Năm là: lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển, lưạ chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu
để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có.
Sáu là: kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
. Mỗi quan điểm được Đại hội bổ sung phát triển có ý nghĩa chỉ đạo,
định hướng cho các lĩnh vực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Thực hiện đúng các quan điểm sẽ là điều kiện tiên quyết để huy động
sức mạnh tổng hợp của cả đất nước vào thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Các quan điểm lại có sự tác động qua lại lẫn nhau trong một
chỉnh thể thống nhất của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do
vậy, trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải quán
triệt và thực hiện đầy đủ các quan điểm chỉ đạo mới đưa sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đến thành công, thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại
hội đề ra.


Về nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho những năm còn lại của
thập kỷ 90 lần đầu tiên được Đảng ta xác định. Đó là “đặc biệt coi trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo mở
rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở
những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có
điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu
quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông,
lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu - khí, một số ngành cơ khí chế tạo,
công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”.

Chủ trương coi trọng nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn đã phản ánh đúng nhu cầu và thực tiễn nước ta. Bởi vì
chúng ta đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, dân cư phần lớn tập
trung ở nông thôn, những vấn đề khó khăn phức tạp cũng thường nảy sinh từ
đó. Làm như vậy sẽ rút ngắn được khoảng cách nông thôn và thành thị đồng
thời tạo cơ sở tiền đề, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các ngành và
lĩnh vực khác... Đảng cũng đề ra các gaỉi pháp chủ yếu để thực hiện thắng lợi
mục tiêu, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá Đảng ta tiếp tục có những bổ sung, từng bước hoàn chỉnh những nhận thức về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (12/1996) đã có nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển khoa học,
công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm


2000. Đây là chủ trương kịp thời trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi bức thiết của tình hình. Nghị quyết đã
mang đến một luồng sinh khí mới tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển khoa
học công nghệ nói riêng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung.
Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII với việc ra hai nghị quyết quan trọng
đó là Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh và nghị
quyết “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”. Với hai nghị quyết này Đảng ta đã nhạy bén trong việc xác định
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Con người luôn là nhân tố trung tâm, quyết định đến sự phong trào của lực
lượng sản xuất. Vì vậy muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
phát huy nguồn lực con người, khai thác tiềm năng gắn liền với chăm lo, bảo
đảm các lợi ích cho họ, phát huy quyền làm chủ trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.

Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (12/1997) đã ra một
nghị quyết quan trọng “tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000”. Trên cơ sở
kế thừa những nhận thức trước đó, Nghị quyết đưa ra tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt với 6 chủ trương giải pháp lớn.Sự ra đời của Nghị quyết đã đánh dấu một
bước chuyển rất lớn, bao quát được những đặc điểm mới tích cực góp phần
vào quá trình chỉ đạo thực hiện các mục tiêu lớn của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Nghị quyết thể hiện quá trình không ngừng đổi mới cả nhận thức và
hành động của Đảng ta.
2. Đại hội IX (4/2001) của Đảng bổ sung phát triển tư duy về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá


Trải qua quá trình nhận thức lâu dài, đến đại hội IX tư duy của Đảng về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từng bước được phát triển, đi vào quá trình
tổ chức thực hiện. Những thành tựu quan trọng đạt được vào cuối những năm
90 đã chứng minh cho sự đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế xã hội.
Với ý nghĩa đó, Đại hội IX tiếp tục trung thành với đường lối đổi mới, khẳng
định phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển kinh tế và chiến
lược kinh tế - xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Đại hội khẳng định “phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nhiệm vụ trung tâm “tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” tiếp tục phát triển và đưa
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới”.
Đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội IX xác định: "Đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc
phòng - an ninh"


Như vậy, có thể thấy, nhận thức của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ngày càng được bổ sung cụ thể hoá. Đến cuối những năm 90 nhận thức
đó được hoàn chỉnh và không ngừng phát triển trong những năm tiếp theo. Đó
là một quá trình lâu dài từ chỗ chưa đúng đến đúng đắn, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Đến Đại hội IX Đảng ta đã cụ thể hoá trong các chiến lược
phát triển làm cơ sở để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Phần 2
THÀNH TỰU VÀ KINH NGHIỆM

I. Thành tựu của quá trình đổi mới tư duy của Đảng về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Thành tựu quan trọng nổi bật nhất trong thời kỳ này đó là đã xây dựng
được một số cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho chủ nghĩa xã hội. Đây là
thành tựu hết sức to lớn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm được và
cũng là mục tiêu quan trọng nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực
chất tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, các cơ sở hạ tầng, đặc biệt là điện
khí hoá đã cung cấp nguồn điện đáng kể cho phát triển công nghiệp và các

lĩnh vực quan trọng khác. Hệ thống giao thông vận tải được đầu tư nâng cấp,
cải tạo ngày càng hiện đại đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông không ngừng phát triển
mạnh mẽ. Công tác thăm dò, khai thác khoáng sản, công nghiệp chế tạo, cơ


khí, phân bón, xây dựng có nhiều tiến bộ góp phần quan trọng nâng cao tiềm
lực kinh tế và an ninh quốc phòng.
Cùng với việc xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, quá trình công nghiệp đã tạo ra sự chuyển dịch mạnh
mẽ cơ cấu kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,
miền, cơ cấu trình độ tổ chức, quy mô sản xuất đều có bước phát triển mới.
Trong cơ cấu vùng từng bước có sự chuyển dịch hợp lý hơn giữa các khu vực
thành thị, nông thôn và miền núi theo hướng gắn kết chặt chẽ với nguyên liệu
đồng thời đáp ứng theo nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong cơ cấu ngành, tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh
tế không ngừng được tăng lên, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và lao động
tham gia trong các lĩnh vực đó. Sự chuyển dịch này còn thể hiện chất lượng
và nhu cầu cuộc sống của nhân dân ngày một cao, khẳng định sự phát triển đi
lên của đất nước và đúng đắn của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cùng với đó, trình độ năng lực quản lý kinh tế có bước phát triển mới đáp ứng
ngày càng cao đối với công nghệ tiên tiến hiện đại. Có được thành tựu to lớn
đó chính là nhờ vào quá trình không ngừng đổi mới, phát triển tư duy lý luận
và tổ chức hoạt động thực tiễn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thúc đẩy khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo có bước phát triển vượt bậc. Bởi vì muốn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá một yêu cầu hết sức quan trọng là phải phát
triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo để phục vụ cho quá trình đó.
Khoa học tự nhiên có bước phát triển mạnh và được ứng dụng có hiệu quả
trong sản xuất. Đây là điểm mấu chốt để từng bước nội địa hoá công nghệ của

đất nước. Thông qua quá trình giao lưu, hợp tác đào tạo và phát triển khoa
học công nghệ để từng bước tiếp cận với công nghệ tiên tiến khoa học hiện
đại của thế giới. Khoa học xã hội và nhân văn không ngừng được đầu tư


nghiên cứu mang lại hiệu quả thiết thực đó là cung cấp những luận cứ khoa
học cho việc hoạch định chủ trương đường lối chính sách của Đảng. Cùng với
khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo đã trở thành quốc sách hàng đầu,
không ngừng góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
ngày càng dồi dào về số lượng, có chất lượng cao góp phần đẩy mạnh phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nhờ có quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà kinh tế đối ngoại được
tăng cường và phát triển. Với đặc điểm tình hình đất nước đi lên từ một nền
nông nghiệp lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề của chiến tranh muốn tiến nhanh
chúng ta phải mở rộng các hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế về khoa học công
nghệ để tận dụng được tối đa nguồn vốn và kỹ thuật của các nước đi trước nhằm
đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, kim
ngạch xuất khẩu ngày một tăng lên, giảm tối đa của các mặt hàng nhập khẩu mà
chúng ta có khả năng sản xuất. Chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ và
các nước phương Tây tạo ra thị trường rộng lớn và những bạn hàng tin cậy. Đây
là một thành tựu quan trọng, đặc biệt chúng ta đã tham gia vào các tổ chức quốc
tế, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung vì hoà bình và ổn định.
Như vậy với sự nỗ lực cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Đất nước từng bước vượt qua những khó khăn thử thách đạt tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định. Nền kinh tế có sức cạnh tranh khá trên thị trường quốc
tế, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng hiện đại, hợp lý. Nền công
nghệ được từng bước đổi mới theo hướng hiện đại; các cân đối chủ yếu trong
nền kinh tế có sự điều chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế
và ổn định đời sống nhân dân; kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển, sự nghiệp

giáo dục đào tạo có bước phát triển mới về quy mô, chất lượng và hình thức
đào tạo và cơ sở vật chất. Các lĩnh vực khác như văn hoá xã hội, quốc phòng


an ninh không ngừng được củng cố và tăng cường. Những thành tựu trên đây
tiếp tục tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong giai đoạn tiếp theo.
II. Những kinh nghiệm
1. Nắm vững lý luận và thực tiễn đất nước thế giới trong xây dựng các
mục tiêu, quan điểm, nội dung biện pháp tiến hành sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta xuất phát từ thực
tiễn, trong xác lập đường lối cũng như tổ chức thực hiện đòi hỏi phải thường
xuyên quan tâm đến những tác động mới của tình hình thực tiễn cả bên ngoài
cũng như bên trong, trong đó yếu tố bên trong là quyết định. Chỉ trên cơ sở
xuất phát từ thực tiễn và nắm vững tình hình thay đổi của thực tiễn đất nước
mới có được những điều chỉnh phù hợp kịp thời về phương pháp, cách thức
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng giai đoạn. Đặc biệt ngày
nay dưới tác động của cách mạng khoa học, kỹ thuật và xu thế hội nhập quốc
tế, nước ta đang hàng ngày, hàng giờ chịu ảnh hưởng của tình hình quốc tế và
khu vực. Những đòi hỏi của đất nước và của nền kinh tế không phải thời gian
nào cũng giống nhau, ngược lại nó luôn thay đổi theo nhu cầu của thực tiễn
đất nước và xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, những vấn đề thuộc về
nguyên tắc, những quan điểm lý luận cơ bản đảm bảo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá thì phải luôn kiên định. Không
phải bằng bất cứ giá nào để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, trái lại cách
thức, bước đi, phương pháp đi đến mục tiêu công nghiệp hoá phải đảm bảo
giữ đúng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, Đảng ta
luôn quan tâm bám sát thực tiễn đất nước để có những điều chỉnh thích nghi



phù hợp. Mặt khác Đảng ta luôn giữ vững được nguyên tắc, mục tiêu chiến
lược của cách mạnh, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Không ngừng tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển đường lối
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Đảng ta. Trong đó lĩnh vực công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi
phải được quan tâm thường xuyên. Vì đây là lĩnh vực chịu tác động sâu sắc
của tình hình kinh tế chính trị, khoa học trên thế giới. Tổng kết thực tiễn giúp
cho Đảng ta tránh được những sai lầm khuyết điểm trong hoạch định chính
sách, phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời qua đó bổ sung
phát triển thêm những vấn đề mới cho phù hợp với tình hình trong nước và
quốc tế nhằm hoàn chỉnh đường lối đổi mới.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhất là trong thời kỳ 1991 đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến công tác
nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn. Do vậy, nhận thức về công nghiệp hoá
của Đảng ngày càng rõ ràng và đúng đắn hơn.
3. Nắm vững mục tiêu của cách mạng và định hướng xã hội chủ
nghĩa trong xác lập phương hướng tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Trong quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một
trong những nguyên tắc hàng đầu là phải nắm vững mục tiêu cách mạng Việt
Nam và những quyên tắc cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là yếu tố bảo đảm cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đạt được mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Đảng ta đã
xác định trong các kỳ đại hội. Trong bất kỳ tình huống nào, nội dung, phương
pháp tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải xuất phát từ mục tiêu chiến
lược của cách mạng Việt Nam, phải hướng vào thực hiện mục tiêu đó và phải
đảm bảo giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa.



Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mục tiêu của cách mạng đòi hỏi
phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân và giữ vững vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.Giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đòi hỏi phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá tốt
đẹp của dân tộc. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải giữ vững độc
lập tự chủ đi đôi với mở rộng đoàn kết hợp tác quốc tế, đồng thời phải bảo
đảm tăng cường quốc phòng - an ninh của đất nước.
4. Mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ, động viên khai thác mọi lực
lượng, mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân và toàn xã hội để
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Một trong những quan điểm xuyên suốt của Đảng ta về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là: công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của
các thành phần kinh tế, lấy việc phát huy nhân tố con người là động lực cho
sự phát triển. Chính vì vậy việc mở rộng dân chủ, phát huy trì trệ, động viên
toàn dân tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nguyên tắc,
đồng thời là sự bảo đảm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được giữ
vững theo sự lãnh đạo của Đảng.
Để khai thác mọi nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đặt ra cho Đảng và nhân dân ta cần phải huy động nhiều nguồn vốn bao
gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn từ nước ngoài; phát triển và sử dụng
có hiệu quả nguồn nhân lực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.


KẾT LUẬN


Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn trong đường lối của
Đảng ta. Trong giai đoạn 1991 - 2001, tư duy về công nghiệp hoá không
ngừng được đổi mới, phát triển và hoàn thiện đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở kế thừa lý luận và kinh
nghiệm qua nhiều năm, Đảng ta luôn có quan điểm, chủ trương, chính sách
luôn đề ra đúng đắn, khoa học, mục tiêu phù hợp với tình hình đất nước.
Quá trình đổi mới tư duy là một quá trình diễn ra lâu dài, trải qua nhiều
khó khăn phức tạp phải không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển. Chính
vì vậy, để có được một quan niệm đúng đắn không phái là dễ dàng. Từ khi
Đảng ta đưa ra quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến khi đẩy mạnh
sự nghiệp đó luôn là sự đấu tranh lý luận gay gắt để có được nhận thức đúng
nhất. Thấy được vai trò to lớn của tư duy lý luận đối với việc chỉ đạo toàn bộ
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu được những thành tựu quan trọng,
có tính chất bước ngoặt của sự nghiệp này. Đây chính là cơ sở để Đảng ta tiếp
tục có những bước chỉ đạo tiếp theo, thực hiện thắng lợi mục tiêu lâu dài của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


×