Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Axít folic docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.96 KB, 8 trang )


Axít folic

Axít folic (hay Vitamin M và Folacin), và
Folat (dạng anion) là các dạng hòa tan trong
nước của vitamin B9, cần thiết cho dinh dưỡng
hằng ngày của cơ thể người để phục vụ các quá
trình tạo mới tế bào. Nhu cầu về chất này tăng
cao ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh. Chất này
có mặt tự nhiên trong thức ăn và cũng có thể thu
từ thuốc uống bổ trợ.


Axít folic


Thông tin chung
Danh pháp IUPAC
N-[4(2-Amino-4-hydroxy-
pteridin-6-ylmethylamino)-
benzoyl]-L(+)-glutamic acid.

Tên khác
Axít pteroyl-L-glutamic,
Vitamin B9, Vitamin M,
Folacin
Công thức C
19
H
19
N


7
O
6

SMILES
C1=CC(=CC=C1C(=O)NC
(CCC(=O)O)C(=O)O)
NCC2=CN=C3C(=N2)
C(=O)N=C(N3)N
Phân tử gam 441,40 g/mol
Bề ngoài bột tinh thể
vàng-cam
Số CAS [59-30-3]
Tính chất
Khối lượng riêng
và pha
? g/cm
3
, rắn
Độ hòa tan
trong nước
8,5 g/100 ml (20 °C)
Trong êtanol,
ête, axêton
không tan
Điểm nóng chảy 250 °C (523 K), phân hủy
Độ axít (pK
a
) 1
st

: 2,3, 2
nd
: 8,3
Độ quay riêng [α]
D

+23°
0.5% trong 0,1 M NaOH
Độ nguy hiểm
Thông tin chính không độc, không cháy
R/S R: - S: 24/25
Số RTECS LP5425000
Phổ UV/VIS
Lambda-max
(pH 13)
259 nm
368 nm
Mục lục
 1 Vai trò sinh học
o 1.1 Phụ nữ mang thai
 2 Dinh dưỡng
 3 Chú thích
 4 Liên kết ngoài
Vai trò sinh học
Axít folic có vai trò sinh học trong việc tạo ra tế
bào mới và duy trì chúng
[1]
. Nó đặc biệt quan
trọng trong giai đoạn phân chia và lớn lên nhanh
của tế bào như ở trẻ sơ sinh và phụ nữ mang

thai. Chất này cần thiết trong việc nhân đôi
Hệ số tiêu tán
(pH 13)
32340 (259 nm)
7410 (368 nm)
Hợp chất liên quan
Muối

Dữ liệu ở
điều kiện tiêu chuẩn (25 °C, 100 kPa)
Tham khảo và phủ nhận
ADN và giúp tránh đột biến ADN vốn là một
yếu tố gây ung thư.
Việc thiếu axít folic làm chậm quá trình tổng
hợp ADN và phân chia tế bào, ảnh hưởng đến
các khu vực có sự tái tạo tế bào nhanh như ở tủy
xương. Sự thiếu hụt axít folic làm chậm sự tổng
hợp ADN, trong khi đó là không ảnh hưởng đến
quá trình tổng hợp ARN và protein, khiến tạo ra
nhiều các tế bào hồng cầu lớn trong máu, gọi là
nguyên hồng cầu to, gây ra sự thiếu hồng cầu
bình thường và chứng bệnh thiếu máu nguyên
hồng cầu to
[2][3]
.
Phụ nữ mang thai
Axít folic đặc biệt cần thiết cho tất cả các phụ
nữ có ý định mang thai. Trong khoảng thời gian
ngay trước và ngay sau khi thụ thai, cần ăn đủ
axít folic, để bào thai được phát triển khỏe

mạnh, tránh được các biến cố bào thai hay bệnh
tật bẩm sinh nguy hiểm cho thai nhi.
Một trong các nguy cơ cho bào thai nếu thiếu
axít folic là bệnh khuyết tật ống thần kinh
[4][5]
.
Bệnh này có thể gây ra sự hở xương sống, hở
hộp sọ và thậm chí vô não. Nguy cơ này có thể
giảm nếu uống thêm thuốc bổ trợ chứa axít
folic, ngoài chế độ dinh dưỡng giàu axít folic
bình thường
[6][7]
.
Theo một số tài liệu, phụ nữ mang thai nên uống
thêm khoảng 400 microgam axít folic từ thuốc
bổ trợ hằng ngày, cùng với bữa ăn đầy đủ chất
dinh dưỡng. Điều này giúp đạt được nhu cầu
dinh dưỡng hằng ngày về axít folic cho phụ nữ
mang thai là 600 microgam như trình bày bên
dưới.
Dinh dưỡng
Các loại rau như rau chân vịt hay rau cải xanh,
các loại đỗ và ngũ cốc, gan, thịt gà, và một số
hoa quả như cam, bưởi chứa nhiều axít folic.
Một số thức ăn sáng ngũ cốc ở các nước phát
triển (nhất là các nước áp dụng quy định pháp
luật bắt buộc để phục vụ cho chương trình sức
khỏe quốc gia) chứa từ 25 đến 100 phần trăm
nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày về axít folic
trong một khẩu phần ăn. Bảng này (PDF tiếng

Anh) cho biết một số loại thức ăn chứa nhiều
axít folic.
Lượng axít folic cần thiết hằng ngày được tóm
tắt ở bảng sau:
Nhu cầu axít folic hằng ngày (µg)

Nam giới Nữ giới
Trên 19
tuổi
Trên 19
tuổi
Mang thai
Cho con

400 µg 400 µg 600 µg 500 µg
1 µg thức ăn chứa axít folic = 0,6 µg axít folic
trong thuốc bổ trợ
Theo các điều tra ở Hoa Kỳ (NHANES III
1988-91
[8]
hay 1994-96 CSFII
[9]
) đa số mọi
người không ăn đủ axít folic hằng ngày
[10][11]
.
Tại Hoa Kỳ đã có chiến dịch tăng cường axít
folic trong khẩu phần ăn, trong ngũ cốc và thức
ăn sáng ngũ cốc, và bước đầu đã cho kết quả
khả quan

[12]
. Tuy nhiên chương trình tương tự ở
Châu Âu có ít hiệu quả
[13]
.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×