Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.55 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ TOÁN

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người
dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thùy Duyên
MSV: 11181183
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh (219)_21
Giảng viên: TS. Nguyễn Hồng Sơn

HÀ NỘI – 2020


MỤC LỤC
A – MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..tr.1
B – NỘI DUNG
I. Phân tích luận điểm…………….……. .……………………………………….tr.2
1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập, tự do, hạnh phúc………..tr.2
2. Con đường thực hiện mục tiêu độc lập mang lại tự do, hạnh phúc tồn dân
tộc…………………………………………………………………………...…..tr.3
a. Bước đầu giải phóng dân tộc-tiền đề của hạnh phúc tự
do……………..tr.4
b. Đi lên chủ nghĩa xã hội-tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh
phúc.tr.5
II. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay .
…………………………..tr.7
C – KẾT LUẬN ………………………………………………………………....tr.10
D – TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....


……..tr.10



A - MỞ ĐẦU
Một Anh hùng giải phóng dân tộc, một Danh nhân văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ làm một tấm gương cách mạng tuyệt vời về người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, mà cịn với tư cách nhà tư tưởng, nhà văn
hóa lớn của nhân loại. Những quan điểm lý luận và giá trị tư tưởng về nhiều phương diện,
cũng như khí phách anh hùng, phẩm chất cao quý của Người đã trở thành tài sản vô giá
của phong trào cách mạng và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh một cách rất sâu sắc về thực tiễn cách mạng
Việt Nam, cách mạng thuộc địa, trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc, trí tuệ nhân loại, nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, con
người.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc, đồng
thời Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin cho phù hợp
với thực tiễn ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Khi bàn về vấn đề đọc lập dân
tộc, Hồ Chí Minh cho rằng: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Với Người, nước có độc lập rồi thì dân phải được
hưởng hạnh phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
Những lời dạy bảo thiết tha ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành những bài học cho
mọi thế hệ, trong mọi giai đoạn lịch sử. Vì vậy, mỗi chúng ta đều phải hiểu rõ được mục
đích, ý nghĩa của nó để nỗ lực, phát huy thực hiên từ đó mang lại lợi ích cho mình và cho
tồn dân tộc.

1


B - NỘI DUNG

I.
PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM
1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập, tự do, hạnh phúc
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan. Người đã tận mắt
chứng kiến sự đàn áp thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp đối với dân tộc, sự hèn hạ của
triều đình phong kiến và rất khâm phục tinh thần chống Pháp giành độc lập của các nhà
yêu nước tiền bối và đương thời. Thực tiễn đó đã hình thành ở Người lịng khát khao giải
phóng dân tộc, thơi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước vào tháng 6/1911. Vì vậy, vấn
đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn
đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn
đề đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngồi,
giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh. Hờ Chí Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn đô ̣c lâ ̣p 1776 của nước Mĩ, tuyên ngôn dân
quyền và nhân quyền 1791 của cách mạng Pháp, và tiếp nhâ ̣n những nhân tố có giá trị
trong hai bản tuyên ngôn bất hủ đó như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc. Độc lập dân tộc phải gắn với quyền bình đẳng giữa các dân
tộc - Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có những nội dung sau: Độc lập dân tộc
phải gắn liền Độc lập, Chủ quyền, Thống nhất và Toàn vẹn lãnh thổ, Độc lập dân tộc là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, Độc lập dân tộc phải đem lại cơm no, áo ấm, hạnh
phúc cho mọi người dân. Độc lập trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập hồn
tồn triệt để và có chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực. Dưới sự chỉ đạo của Người, tư
tưởng độc lập, tự chủ trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt và định hình các hoạt động đối
ngoại từ khi lập quốc đến nay.
Nhưng độc lập là chưa đủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc phải gắn liền với
hạnh phúc và tự do của nhân dân, đó chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc. Điều đó
được Người khái quát lại thành chân lý sâu sắc: “Nước độc lập mà người dân khơng được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập, tự do, hạnh phúc, là
ham muốn tột bậc của Người, đó cũng là khát vọng lớn lao của lớp lớp các thế hệ người dân

Việt Nam. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và của toàn thể dân tô ̣c Viê ̣t Nam.
2


Khát vọng dân tộc độc lập, nhân dân tự do là khát vọng ngàn đời. Không chịu làm nô lệ,
không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, hàng vạn người con đất Việt biết có thể hy sinh,
vẫn khơng chùn bước, vì phía trước là độc lập dân tộc, là thiêng liêng Tổ quốc, là tồn
vẹn lãnh thổ non sơng và tự do cho mỗi con người. Cầm vũ khí để tự vệ, để chống trả,
đánh đuổi kẻ thù chỉ là thế đặng chẳng đừng. Chiến đấu tự vệ để bảo vệ nền độc tự do và
toàn vẹn lãnh thổ cũng chỉ vì khát khao hịa bình, muốn có mơi trường hịa bình để lo cơm
no áo ấm, đắp xây hạnh phúc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, là
hiện thân của khát vọng dân tộc độc lập, đất nước tự do, con người hạnh phúc: “Tơi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Giành độc lập dân tộc là vì nhân dân và cũng do nhân dân. Cũng chính nhân dân
dùng máu xương, mồ hơi và trí tuệ bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ quyền tự do.
Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước Việt Nam chúng ta đã mở rộng tư tưởng “bác ái” thành
“hạnh phúc”. Bác ái là tình thương, lịng u mến con người rộng khắp, bao trùm. “Hạnh
phúc” của Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của “quyền mưu cầu hạnh phúc” trong Hiến pháp
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chính là bản Hiến
pháp đầu tiên viết rõ ràng về “quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thơng điệp về hạnh phúc của
Hồ Chí Minh là thơng điệp mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ
động, tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc đó. Thơng điệp đó của Hồ Chí Minh đã
được đơng đảo nhân dân Việt Nam đón nhận.
Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ vững thành quả ấy, cả nước phải tiến
lên đấu tranh, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân ta
là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói:“chúng ta tranh được tự do độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì”. Để
giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no hạnh phúc,

chúng ta khơng có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khơng chỉ mang lại
độc lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho
toàn dân.
2. Con đường thực hiện mục tiêu độc lập mang lại tự do, hạnh phúc toàn dân tộc
Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã
tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Lý luận về
cách mạng khơng ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng của Người, cho
3


thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định của thành quả cách mạng của giải
phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc khơng chỉ
dừng lại ở giai đoạn hồn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện
tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng,
giành được độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên, giải phóng về mặt chính trị, tự bản
thân nó chưa phải là cơng cuộc giải phóng hồn tồn, hay nói cách khác, độc lập dân tộc
là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Logic lịch sử tự nhiên của sự vận động phong trào giải phóng dân tộc tất yếu dẫn tới chủ
nghĩa xã hội do bản chất cách mạng triệt để của nó.
a. Bước đầu giải phóng dân tộc - tiền đề của hạnh phúc tự do
Trong khoảng bảy năm từ năm 1911 đến trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh tìm hiểu, nghiên cứu, khảo nghiệm các cuộc cách mạng trên
thế giới để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Ngay sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy chưa có được nhận thức lý tính, nhưng cảm tính cho Hồ
Chí Minh thấy rằng chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga thì mới giành
được độc lập dân tộc. Người nhiệt thành ủng hộ và tuyên truyền cho cuộc Cách mạng
Tháng Mười.

Một thời gian ngắn sau Cách mạng Tháng Mười, được ánh sáng của Quốc tế Cộng sản soi
rọi, đặc biệt là Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã đặt
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vơ sản.
Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản. Hồ Chí Minh khẳng định: Tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc và dần dần từng bước “đi tới xã hội cộng sản”; lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai
cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản, lực lượng cách mạng là khối
đồn kết tồn dân, nịng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
lao động trí óc; sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời
đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân.
Đảng đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc nên Đảng còn là Đảng của nhân dân lao động
và cả dân tộc. Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mệnh tiên phong, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân và dân tộc, một lòng phụng sự Tổ quốc,
4


phục vụ nhân dân. Đảng là ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở
thành nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng.
Bên cạnh đó, lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Người nhận
định rằng cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải
việc của một hai người, vì vậy phải đồn kết tồn dân, sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền. Quan điểm về lực lượng cách mạng như trên biểu hiện tầm nhìn
chính trị sắc sảo và nhạy bén của Hồ Chí Minh, thể hiện sự sáng tạo của Người so với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Cuối cùng Người cũng chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải
được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng. Chúng ta cần đánh giá đúng bản chất
cực kỳ phản động của chủ nghĩa đế quốc và tay sai, phải dùng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. Đó là cuộc
chiến tranh tồn, tồn diện (tất cả mọi mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh

tế, văn hóa – tư tưởng), trường kỳ (vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng) và dựa vào sức
mình là chính.
Độc lập dân tộc khơng phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới.
Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hồn tồn mới, vì đó là một kiểu
độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Đối với một người dân
mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp
cận chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vơ
sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do. Theo Hồ Chí
Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc
lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là
độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì. Từ cơ sở nền móng đấu
tranh giải phóng dân tộc, Người tiếp tục đi tìm con đường mang lại hạnh phúc tự do cho
toàn thể nhân dân.
b. Đi lên chủ nghĩa xã hội - tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh phúc
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh khơng bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, nước có độc lập rồi thì dân phải
được hưởng hạnh phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
Muốn có hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người
nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải
thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình,
chăm lo cho con người và con người có điều kiện phát triển tồn diện. Khi Hồ Chí Minh
5


xác định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập
dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người đã nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc
lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của Người.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc
của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân

tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng
nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách
mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập
tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà
còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hố các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nơ lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xố bỏ mọi áp bức,
bóc lột; cơng bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ cơi; một xã hội có nền sản xuất phát triển
gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong
đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng
của mình; hịa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm
chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Có được độc lập, người dân được hưởng hạnh phúc, tự do. Đấy chính là địi hỏi chính
đáng, điều mà khơng phải ai khác chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự
do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước
Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động”, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, khơng lao động được thì nghỉ ngơi,..”. Hạnh
phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống
vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền
kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
6



học hành. Chủ nghĩa xã hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, là
phải không ngừng nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời
sống tinh thần, văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo quốc
dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh, nhân tố nào biến nước
Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố
gắng của chúng tơi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân
chúng tơi trong vịng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều
kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”. Ngay khi còn phải tập trung vào nhiệm vụ hàng
đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa,
của đời sống tinh thần. Người cho rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần
vì đó là lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sóng chúng ta. Sau này, trong kháng chiến ác liệt,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; khơng sợ nghèo chỉ
sợ lịng dân khơng n”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội chủ
nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh khơng chỉ là thước đo giá trị của độc lập dân tộc mà
còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc
chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân
dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền
độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Nhà nước phải thể hiện ý chí, nguồn lực của
nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thỏa mãn những
nhu cầu hợp lí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Quan điểm về quyền làm chủ đất
nước và xã hội của nhân dân đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ.
Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, vấn đề cốt tử là làm
sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước, thực sự được tự do, hạnh phúc.
II.
Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nói tới sự nghiệp giải phóng lồi
người và đến tận cuối đời, trăn trở lớn nhất của Hồ Chí Minh cũng là đem lại hạnh phúc
cho người, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thấm
nhuần những lời dạy của Bác, dân tộc ta, ngày nay, luôn ra sức giữ vững nền độc lập, chủ
quyền dân tộc. Bảo vệ nền độc lập trước các thế lực ngoại xâm, thế lực thù địch.
7


Trước diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt trước sự chống phá của các
thế lực thù địch, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Đảng ta nhấn mạnh
mục tiêu, yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí
hàng đầu; trong đó khẳng định ý chí quyết tâm, “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh để giữ
vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất nước bị động, bất ngờ,
không để mất đất, mất đảo, mất dân, đảm bảo độc lập luôn đi với tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Đồng thời, ngày càng hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Qn triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân,
Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động
của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
đáp ứng địi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, việc xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng
và học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã
hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ. Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là tơn trọng, bảo vệ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của
nhân dân Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là

Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trị thức.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Theo sự khái quát của Đảng,
thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới. Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và tồn diện
ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, và q trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều
8


bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Bên cạnh đó, “các thế lực
thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối cảnh khó khăn
đó. Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định: “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo, dân tộc ta là một dân
tộc anh hùng, nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết và nhân
ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất – kỹ thuật rất quan trọng;
cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế
tri thức cùng với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Ngày nay, để giữ vững độc lập dân tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững định hướng XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Trong quá trình phát huy dân chủ XHCN, để nhân dân thực sự
thực hiện quyền lực và quyền làm chủ đất nước của mình, cần nắm vững bản chất và nội
dung của vấn đề dân chủ. Dân chủ ở nước ta là dân chủ XHCN, là nền dân chủ của khối

đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật , kỷ
cương, quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ được cụ thể hóa thành pháp
luật, dân chủ trong khn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vơ kỷ luật, dân chủ cực
đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại chế độ XHCN. Cần phải kiên quyết chống lại những
luận điệu xuyên tạ, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản
để xuyên tạc những giá trị dân chủ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp
trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước về phẩm chất chính trị,
đạo đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là “người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân . Đây là
nhân tố “cốt lõi” bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì nhân dân.
Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn
diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì, các mặt: chính
trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu
rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng
9


kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và cơng nghệ. Thành
tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
cơng của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước với những bước tiến cao hơn.

C – KẾT LUẬN
Tư tưởng “Nước độc lập mà người dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng mang tầm chân lý, một chân

lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. Tư duy của Hồ Chí Minh
hướng vào việc mưu cầu hạnh phúc cho lồi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Tròn
nửa thế kỷ sau, khi thế giới tơn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và
Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, họ cũng khai thác điểm chung mà Người đã cống
hiến cho tồn nhân loại, đó là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những
mục tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị nhân văn, văn hóa của lồi người. Đã
hàng thập kỷ trơi qua, nhưng lời dạy của Bác vẫn cịn ngun giá trị, khơng chỉ ở hiện tại
và cịn đến cả tương lai. Từ đó ta rút ra được bài học: Đích đến của độc lập là tự do và
hạnh phúc cho dân tộc, cho gần 100 triệu người mang trong mình dịng máu Việt Nam dù
đang sinh sống tại bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Cho đến hơm nay, chúng ta có quyền tự hào rằng, bằng xương máu, bằng nghị lực, bằng
quyết tâm đã giành được và bảo vệ, giữ gìn thành cơng quyền được sống, quyền tồn tại
trong độc lập, tự do, trong hịa bình hạnh phúc của cả cộng đồng dân tộc và của mỗi
người dân nước Việt Nam. Chúng ta phải tiếp tục chung tay giữ vững nền độc lập của Tổ
quốc, bên cạnh đó phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh, của dân do dân
và vì dân.

D – TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd
3. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
10



×