Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.43 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
--------

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập
mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với
Việt Nam hiện nay.
Họ và tên sinh viên: Phùng Thanh Vân
MSV: 11185542
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh (219)_2
Giảng viên: TS Nguyễn Hồng Sơn

HÀ NỘI - 2020


MỤC LỤC
I.

LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1

II. NỘI DUNG:...............................................................................................................2
1. ĐỘC LẬP DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN LÀ TIỀN ĐỀ CỦA HẠNH
PHÚC, TỰ DO........................................................................................................................2
1.1 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI TRƯỚC NHẤT PHẢI ĐI THEO CON
ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VƠ SẢN.................................................................................................2
1.2 CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI CỊN PHẢI DO ĐẢNG CỦA GIAI........3
CẤP CƠNG NHÂN LÃNH ĐẠO...................................................................................................3


2. HẠNH PHÚC, TỰ DO LÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỘC LẬP..............................................................4
3. MỤC TIÊU CỦA ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...................................................................7
4. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY.................9
4.1 THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ.................................................................................................10
4.2 THÀNH TỰU VỀ MẶT XÃ HỘI...........................................................................................10
4.3 THÀNH TỰU VỀ GIÁO DỤC, Y TẾ.....................................................................................11
4.4 THÀNH TỰU VỀ MẶT ĐỐI NGOẠI.....................................................................................11
III. KẾT LUẬN..............................................................................................................12


I.

LỜI MỞ ĐẦU

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh xét về bản chất là tư tưởng nhân đạo cộng sản
cao cả nhằm mục tiêu giải phóng con người, trước hết là giải phóng những
người lao động khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất cơng. Nhưng muốn giải
phóng được người lao động, trước hết theo Hồ Chí Minh, phải giải phóng dân
tộc. Dân tộc có được độc lập thì mới có cơ sở, điều kiện để mang lại tự do,
hạnh phúc cho nhân dân, tức là mới có điều kiện, cơ sở để giải phóng được
nhân dân lao động khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất cơng trên thực tế.
Chính vì vậy, tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với Hồ Chí Minh đó là cứu nước,
giải phóng dân tộc, cứu đồng bào bị đoạ đầy, đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống
thiêng liêng nhất. Cả cuộc đời, Người “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Độc lập, tự
do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành
ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh cống hiến của Người. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945:
“tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có

quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Việc đề ra các quyền cơ bản
của các dân tộc và gắn chặt quyền con người với độc lập dân tộc, quyền tự
quyết dân tộc là một cống hiến lý luận to lớn của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư
tưởng nhân quyền của nhân loại.
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh mang đậm tính nhân dân, tính nhân bản.
Nó hướng tới việc tìm con đường thật sự cách mạng và khoa học, dẫn tới mục
tiêu triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Sau khi nước nhà giành
được độc lập, Người nhấn mạnh: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. “Tự do" khơng phải là giá
trị bất biến, tự nó ln thay đổi theo thời gian và theo bối cảnh xã hội. Có được
độc lập chưa đů, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do.
Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thăm sâu nhất
của mỗi người dân nước Việt. Gắn chặt tự do, độc lập với hạnh phúc của con
người, của đại đa số nhân dân, gắn chặt cuộc đấu tranh giải phóng con người
với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội làm nền tảng để bảo đảm triệt để các quyền con người,
giải phóng con người là một tư tưởng cốt lõi xuyên suốt cuộc đời hoạt động
1


cách mạng của Hồ Chí Minh. Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh
đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới bền vững, hạnh phúc
tự do của nhân dân mới đạt được thực sự, người lao động mới được hồn tồn
giải phóng.

II.

NỘI DUNG:


1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc, tự do
1.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con
đường cách mạng vô sản
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước
đương thời. Do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch
sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không
tránh khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu
nước của nhân dân ta. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi bắt đầu con đường đi tìm
đường cứu nước. Trong q trình bơn ba ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã tìm
hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà
nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Sau hơn 10
năm lăn lộn qua nhiều nước để tìm tịi thử nghiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đến với Chủ nghĩa Mác-Lenin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản
luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa” của Lenin, Người đã sung sướng nói
to lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta !” và là từ lòng yêu nước, thương dân,
Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với cách mạng tháng Mười
và chủ nghĩa Lenin đã tìm thấy con đường cứu nước cứu dân và giải phóng lao
động và quả quyết: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, giành độc lập dân tộc”.  Tiếp
xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng
dân tộc. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác
ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản. Lý luận về cách mạng
2



khơng ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng của Người, cho
thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng: cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là
tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự
khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí
Minh, Đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam giai đoạn này, độc lập
dân tộc trước nhất chỉ có thể có được khi cách mạng giải phóng dân tộc thành
cơng. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc
khơng chỉ dừng lại ở giai đoạn hồn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi cịn phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời
trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà
giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu
tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân
dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực lượng cách
mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh
khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước
mới, khác về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi.
Chính lúc dân tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên
phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ
những đòi hỏi bức thiết của lịch sử. Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ
khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một
đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân

tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra có ba
thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách
3


mệnh. Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và phương
pháp tiến hành có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa, ba cuộc cách mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách mạng
đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo (như: Cách mạng tư sản do giai cấp tư
sản lãnh đạo đánh đổ chế độ phong kiến, quý tộc; cách mạng vô sản do giai
cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ chế độ tư bản). Ở Việt Nam, do tính quy định
của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vơ sản.
Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh dấu bước ngoặt
trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Để thực hiện được mục tiêu
đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trị lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc
vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách
mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của
Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt,

Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới
thành lập, đó là: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng (révolution
démocratique bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới
xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";...
Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng dân
thốt khỏi ách tư bản; Mở mang cơng nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi
quyền lợi tự do cho nhân dân"
2. Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không
4


hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng
chẳng có nghĩa lý gì. Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh
khơng phải là câu trả lời cho mong muốn chủ quan của con người theo quan
niệm duy tâm, không tưởng, mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện
thực theo khái niệm duy vật phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện
thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ
đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học
kỹ thuật kém phát triển, tiến thắng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí Minh khơng
thế suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở
thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn bấn
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sông một đời
hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn,
lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người,
một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai
làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, khơng làm khơng hưởng Có

được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc,
tự do. Đấy chính là địi hỏi chính đáng, điều mà khơng phải ai khác chính cụ
Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích ci cùng, là mong ước
thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
“độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động",
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nây được đi học, ốm đau có thuốc, khơng lao động được thì nghỉ
ngơi,...Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội". Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh
phúc, ấm no cho nhân dân. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
xã hội được nói đến một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu : “Chủ nghĩa xã hội
trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn, bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc". "nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập tự do cũng khơng có
ý nghĩa gì". "Chủ nghĩa xã họi là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
5


được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt được dần dần được xóa
bỏ"; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy". Nói tóm lại "chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho dân giàu nước mạnh". Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí
Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do
chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Chỉ có tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao "ăn ngon, mặc đẹp" chưa
thể gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là cùng với việc không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, là phải không ngừng nâng cao đời sống tinh thần.

Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời sống tinh thần, văn hóa phải đi trước
“"soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,
tự cường, tự chủ". Theo Hồ Chí Minh, nhân tố nào biến nước Việt Nam lạc
hậu thành một nước tiên tiến: "Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng
của chúng tội nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân
dân chúng tơi trong vòng ngu muội đề chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở
hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tơi tiến bộ" (2). Ngay khi cịn phải
tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã
nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa, của đời sống tinh thần. Người cho
rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần vì đó là lẽ sinh tồn và
mục đích cuộc sóng chúng ta. Sau này, trong kháng chiến ác liệt, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh “khơng sợ thiếu, chỉ sợ khơng cơng bằng; khơng sợ nghèo chỉ sợ
lịng dân khơng yên". Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của
tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
sinh ra, nhờ đó xố bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị
và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã
hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi
người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người
chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần
ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói
nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới
và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng
đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm
6


thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con
người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự do. Vì vậy

Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lỗi sống. Văn
hóa là lối sống, là quyền con người, là cái chân, thiện, mỹ giữa người với
người. Thống nhất với cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
rất chú trọng sức phát triển sản xuất, chú trọng chế độ sở hữu coi đó là những
nhân tổ quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều đặc biệt mang
sắc thái Hồ Chí Minh, đó là Người chú trọng tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo
phương diện đạo đức. Con người có hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa
phải là những con người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ xã hội chủ nghĩa
mang lại hạnh phúc cho con người phải là chế độ khơng có chủ nghĩa cá nhân,
và những gì phản văn hóa và đạo đức. Hồ Chí Minh chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân
là trái với đạo đức cách mạng, là trở lực trên con đường xây chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Vì
vậy, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chể độ
xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh khơng chỉ là thước đo giá trị
của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một
nền độc lập dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự
do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự
thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
3. Mục tiêu của đi lên Chủ nghĩa xã hội
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một
cách. thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc
tự do thì độc lập tự do cũng khơng có ý nghĩa gì”.“CNXH là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già khơng lao động được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt
được dần dần được xóa bỏ”; “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và

7


văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “CNXH là
làm sao cho dân giàu nước mạnh”, từ những lời phát biểu ngắn gọn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khái quát những nét đặc trưng bản chất sau
đây của CNXH :
- Một là CNXH là là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để huy động
được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
- Hai là CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất ngày càng hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó,
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẳn có của mình.
- Bốn là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng, các dân tộc đều bình
đẳng, miền núi được giúp đở để tiến kịp miền xuôi
- Năm là CNXH là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng .
Đó là những bản chất của CNXH và cũng là những mục tiêu mà Đảng và nhân
dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới. Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là
động lực con người, trên cả hai bình diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là phát
huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát
triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của con người được giải phóng để làm

chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con
người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức, truyền thống,
quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội … Đó là khắc
phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ơ, lãng phí, quan liêu,
chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới …
Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
8


4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới hiện nay
Từ cuối những năm 70, khi nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội,
Đảng ta, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những kinh nghiệm sáng tạo của nhân
dân, đã đề ra nhiều chủ trương đổi mới từng phần. Tuy vậy, những nhược điểm
của mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc đó về căn bản chưa được khắc
phục. Đất nước bị bao vây, cấm vận. Trong quá trình thực hiện những  biện
pháp cải cách, chúng ta lại phạm một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, tỉ lệ lạm pháp lên đến 774,7% vào năm 1986.
Cuối năm 1986, tại Đại hội VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo
của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm, khuyết
điểm, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Nhưng tình hình
diễn biến phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua
Trong hồn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững
vàng, ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những
vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào
cuộc sống.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm

2000, Báo cáo chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi). Đại hội đề ra mục tiêu tổng
quát cho 5 năm 1991-1995 là: vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất
cơng xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội long
trọng tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.
Sau Đại hội VII, sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Đông
đảo cán bộ và nhân dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghị về tiền đồ
của chủ nghĩa xã hội. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền
thống bị đảo lộn. Trong khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Một số thế lực thu
địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ.
Nước ta một lần nữa lại đứng trước nước thử thách hiểm nghèo.
9


Đảng ta và nhân dân ta kiên trì đường lối đổi mới, ra sức thực hiện Nghị quyết
của Đại hội VII, vượt qua khó khăn, trở ngại, giành nhiều thắng lợi mới to lớn.
4.1 Thành tựu về kinh tế
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm
trong  nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp
là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh
tế có bước chuyển đổi: tỉ trọng cơng nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6%
năm 1990 đến 29,1% năm 1995; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm
15,8% GDP; năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm
16,7% GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, gần 1/3 đã được thực hiện. Lạm phát từ
mức 67,1% năm 1991 giảm xuống cịn 12,7% năm 1995.
Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực

lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được xây dựng.
4.2 Thành tựu về mặt xã hội
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập
trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu
lao động có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thơng được nâng cấp và xây
dựng mới ở cả nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục thể thao, thơng tin đại chúng, cơng tác kế hoạch hóa gia đình và
nhiều hoạt động xã hội khác có những  mặt phát triển và tiến bộ.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp
lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn
trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng
xã hội.
10


Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có cơng với nước được tồn dân
hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày
càng mở rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà
nước được nâng lên.
4.3 Thành tựu về giáo dục, y tế
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mơ, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh,
thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15
tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% (1980) lên 90,3% (2007). Từ 2006 đến

nay, trung bình hằng năm quy mơ đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%,
cao đẳng và đại học tang 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được
Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
4.4 Thành tựu về mặt đối ngoại
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khơi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc
biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các
nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố
quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với
Liên bang Nga, các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước
Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước cơng nghiệp phát triển; bình thường
hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á,
Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng quan hệ
với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đồn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản
và cơng nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến
bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở
rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển
quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.

11


Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ bn
bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu
tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện
trợ khơng hồn lại hoặc cho vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hịa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của

nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung
của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

III. KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN thực
sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta
hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ chế,
chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành động
của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới KT và
chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng ta mới
củng cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định : “Con
đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của
lịch sử, không ai ngăn cản nổi” Trước đây, trong thập kỷ 40 của thế kỷ XX, khi
bàn về giá trị của các nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm của
mình. Như một nhà hiền triết Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở “Học thuyết Khổng
Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Jesu có ưu điểm là
lịng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa
Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của
nước chúng tôi”. Và trên quân điểm biện chứng và duy vật lịch sử, Hồ Chí
Minh đã đúc kết: “Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những
ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu
cầu hạnh phúc cho nhân dân. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ,
tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người
ban thân thiết. Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy”. Chỉ vậy
thơi, cũng đủ thấy Hồ Chí Minh là bậc đại trí ở đời. Tư duy Hồ Chí Minh
hướng vào việc khai thác ưu điểm chung của các vị ấy là mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Tròn nửa thế kỷ sau, khi nhân
12



loại tơn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa
kiệt xuất của Việt Nam”, người ta cũng khai thác điểm chung mà Hồ Chí Minh
đã cống hiến cho nhân loại. Đó là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Những mục tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị nhân văn,
văn hóa của lồi người.

13


Tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
(2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
/>3. Cổng thơng tin điện tử chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam,
/>chu
4. Viện triết học , />
14



×