Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bảo đảm quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.15 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Quá trình
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thơng qua hành vi của đội
ngũ cơng chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân,
tổ chức nào”. Vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà
nước phải chịu TNBT thiệt hại. Cụ thể là Luật TNBTCNN 2017 và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa
nhận trách nhiệm của Nhà nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực
thi các quy định của pháp luật trên thực tế đã đầy đủ, bao quát, toàn diện và
hiệu quả để bảo vệ quyền con người, quyền công dân hay chưa lại là câu hỏi
lớn cần được giải đáp.
Đó là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người
trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”.
NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THỪỜNG NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền
văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất
cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế
giới”. Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động
khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết
chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn
hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha,


tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ
phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945


cho đến ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con
người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế”.
Quyền con người có đặc điểm cơ bản của riêng nó, mà trong đó, quyền
con người mang tính phổ biến được hiểu là những quyền tự nhiên, vốn có, tất
yếu của con người khi sinh ra, được áp dụng bình đẳng, không phân biệt về
chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, thành phần, xuất thân…Đồng thời,
quyền con người cịn mang tính khơng thể chuyển nhượng thể hiện ở việc các
quyền đó khơng thể bị tước đoạt hay hạn chế một các tùy tiện bởi bất cứ ai,
Nhà nước nào, chủ thể nào trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia cho
phép; quyền con người mang tính khơng thể phân chia, mọi quyền đều có tầm
quan trọng như nhau, việc tước bỏ hay hạn chế vát kỳ quyền con người nào
đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, gia trị và sự phát triển của con người.
Và, quyền con người mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó, sự vi
phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền khác và ngược lại.
Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt
Nam
Bồi thường là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra”. Về mặt pháp lý,
bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do gây thiệt hại.
Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn thất và
khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy bồi thường thiệt
hại là “hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt
hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và
tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại”. Bên cạnh đó, thiệt hại, về mặt pháp


lý, là những tổn thất về tài sản, tổn thất về tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh
dự, nhân phẩm. Do đó, bồi thường thiệt hại là sự khơi phục lại những tổn thất

trên bằng những cách thức và tiêu chí do pháp luật đặt ra.
Mục tiêu của Nhà nước là bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, do đó, đối với các thiệt hại gây ra trong khi thi hành công vụ cũng
phải được pháp luật bảo vệ. Như vậy, khi Nhà nước thực hiện quyền lực công
thông qua các hành vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức mà gây thiệt
hại cho các tổ chức, cá nhân thì phải chịu TNBT. Do đó, trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù
đắp những tổn thất về uy tín, tinh thần khi người thi hành công vụ gây thiệt
hại cho các cá nhân, tổ chức trong q trình thực thi quyền lực cơng/trong q
trình thi hành cơng vụ. Khái niệm này có thể được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, TNBTCNN là trách nhiệm mà trong đó Nhà
nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do cơ quan nhà
nước, người thi hành công vụ gây ra. Nghĩa là, việc bồi thường thiệt hại được
thực hiện cho tất cả các trường hợp có thiệt hại do hành vi của cơ quan, người
thi hành công vụ nhà nước gây ra. Theo nghĩa hẹp, thì TNBTCNN là trách
nhiệm pháp lý trong đó Nhà nước có nghĩa vụ phải bồi thường cho cá nhân,
tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ nhà nước gây ra.
Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm về
bồi thường nhà nước ở Việt Nam
Từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về TNBTCNN, em
cho rằng bảo vệ quyền con người trong pháp luật TNBTCNN là việc xây
dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành cơng vụ giữa các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền với các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ những nhu


cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ.
Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con người trong pháp luật về

TNBTCNN ở Việt Nam
Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của việc
bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết bảo đảm các quyền con
người trong tiến trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước
pháp quyền chủ nghĩa. Một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng và
Nhà nước ta là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người phù hợp với
các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế nêu trong các điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam đã là thành viên, trong đó, từ những yêu cầu cơ bản
đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân
sự, chính trị của con người. Đồng thời, việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con
người về dân sự, chính trị ngày càng được quan tâm, duy trì một trật tự xã hội
ổn định và cơng bằng là mục tiêu mà mọi quốc gia, dù ở chế độ chính trị nào,
dù trong hồn cảnh nào, nền kinh tế ra sao, vẫn luôn hướng đến và mong mỏi
nguyện vọng đó, ý chí đó.
Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới thể hiện quyền lực của Nhà
nước với nhân dân song song với việc bảo đảm tối ưu nhất sự bình đẳng, bảo
vệ và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt, là quyền con người trong pháp
luật về BTNN như vậy, khơng chỉ hịa vào xu thế chung của khu vực, của thế
giới mà việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước cũng là phù hợp với nền
dân chủ mà chúng ta đang tích cực xây dựng trong Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2017 với mục đích
bảo vệ tối đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay. Ở nước
ta, quyền con người đã được khẳng định ngay từ những lời nói đầu khi Chủ


tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập của dân tộc Việt Nam vào
ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, tức là ngày 3 tháng 9 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ cấp bách

của Nhà nước Việt Nam mới là tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến,
thông qua hiến pháp để khẳng định quyền làm chủ đất nước, phấn đấu thúc
đẩy quyền lợi của người dân ngay cả trong điều kiện đầy ngặt nghèo của
những năm tháng kháng chiến. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân được
thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ
trương, chính sách và cơ chế. Với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống
pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà
nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về
TNBTCNN đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong
khi thi hành công vụ.
II. Bảo đảm quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường
nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
1. Nội dung các chế định của pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước.
Hiến pháp 2013 ra đời, trong đó, quyền con người đối với TNBTCNN
được quy định cụ thể tại Điều 30 nối tiếp tinh thần bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người trong mối quan hệ bình đẳng với Nhà nước đã được nêu tại bản
Hiến pháp 1959 và 1980. Tuy nhiên, để bảo vệ tối đa nhất các quyền về khiếu
nại, tố cáo của công dân, bản Hiến pháp mới đã thực sự tạo được lòng tin của
nhân dân khi bổ sung thêm một quy định chặt chẽ, thể hiện tính nhân văn sâu
sắc, tinh thần đồn kết, bảo vệ lẫn nhau vốn có của con người Việt Nam, đó là
việc nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, bên cạnh
việc bảo vệ quyền của nhân dân, bản Hiến pháp cũng quy định chặt chẽ nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước đối với việc người dân vì một lý do nào đó, lợi


dụng quyền của mình để khiếu nại, tố cáo vu khống hại người thừa hành công
vụ của Nhà nước. Điều 31 đồng thời cũng quy định việc tiếp tục đề cao tinh
thần bảo vệ các quyền của con người trong hoạt động tố tụng.

Có thể thấy rằng việc quy định sơ khai ban đầu về TNBTCNN tại các
bản Hiến pháp trước đây cũng như việc quy định cụ thể về TNBTCNN trong
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã thể hiện việc Nhà nước đề cao và tơn trọng quyền
con người nói chung cũng như quyền con người về TNBTCNN do hành vi
trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành cơng vụ gây ra nói riêng.
Luật TNBTCNN 2017, đây là một đạo luật quan trọng, là cơ sở pháp lý
để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền yêu cầu bồi thường khi bị thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi
hành cơng vụ.
Có thể nói, Luật TNBTCNN được xây dựng dựa trên một trong những
quan điểm chỉ đạo là kế thừa các quy định pháp luật còn phù hợp và từng
bước pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về BTTH, đồng thời
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có thể vận dụng được phù
hợp với điều kiện của nước ta đã là một quan điểm đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xây dựng một cơ chế bồi thường nhà nước mang tính
tồn diện, chứa đựng nhiều tham vọng. Bên cạnh việc ban hành Luật
TNBTCNN, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật một cách hiệu quả trong
các lĩnh vực thuộc phạm vi TNBTCNN cũng lần lượt được ra đời nhằm
hướng dẫn chi tiết một số quy định của đạo luật này.
Luật TNBTCNN 2017 điều chỉnh một cách toàn diện trong cả 03 lĩnh vực
là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án, trong đó, quy định chi tiết tại
các điều, khoản về trình tự, thủ tục và quy định rõ về thời hạn giải quyết bồi
thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường bao gồm: việc thụ lý đơn yêu
cầu bồi thường, xác minh thiệt hại; thương lượng việc bồi thường, ra quyết
định giải quyết bồi thường, chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường cho


người bị thiệt hại; và thủ tục thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường tại
Tòa án. Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa
vụ của người bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hồn trả của

người thi hành cơng vụ đã gây ra thiệt hại.
Về đối tượng được bồi thường
Đối tượng được Nhà nước bồi thường bao gồm các “cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần” thuộc các trường hợp đã được quy
định trong Luật TNBTCNN trong cả 03 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng
và thi hành án do hành vi trái pháp luật của các cán bộ, công chức Nhà nước
vì vơ ý làm sai hay cố tình làm sai để trục lợi, thực hiện hành vi tư thù cá
nhân hoặc vì vơ trách nhiệm trong q trình thực thi công vụ gây ra thiệt hại
và hậu quả cho các cá nhân, tổ chức đó. Theo quy định này, có thể hiểu, các
cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng được Nhà nước Việt Nam bồi thường bao
gồm công dân Việt Nam, tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam; cá nhân mang quốc tịch của quốc gia, vùng lãnh thổ khác, tổ chức
nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; người không quốc tịch đang
sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Các đối tượng này đều có thể trở thành
đối tượng được bồi thường miễn là đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định
của Luật TNBTCNN.
Về phạm vi trách nhiệm bồi thường
Việc xác định phạm vi TNBTCNN bảo đảm được quy định phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn ban hành
đạo luật riêng về BTNN, phù hợp với Hiến pháp và BLDS hiện hành đã ghi
nhận một nguyên tắc rất cơ bản, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do cán bộ, cơng chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân
trong khi thi hành cơng vụ. Do đó, để bảo đảm tính khả thi của Luật
TNBTCNN, phạm vi TNBTCNN được xác định phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn


của đội ngũ cán bộ, công chức và bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu
bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, lợi ích của Nhà nước, đồng
thời, cũng bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan cơng

quyền, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Trong 03 lĩnh vực được Nhà nước điều chỉnh và bảo vệ, thì phạm vi
TNBTCNN được giới hạn đối với một số hành vi do cán bộ, công chức làm
trái pháp luật trong khi thi hành những nhiệm vụ cụ thể trong từng lĩnh vực
như sau:
Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính
Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực này được liệt kê đối với 11 nhóm hành
vi mà nếu gây ra thiệt hại thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Đây là
những hành vi có ảnh hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như
quyền tự do thân thể, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu... do đó
cần được Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt, bằng cách cam kết sẽ bồi
thường nếu các hành vi này của cán bộ, cơng chức trong q trình thực thi
công vụ gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Các hành vi đó được quy định cụ
thể trong Luật TNBTCNN như hành vi: ban hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính; áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm
việc xử lý vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, cơng
trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính khác; áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào
trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở
chữa bệnh; cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy chứng
nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; áp dụng thuế,
phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; áp dụng
thủ tục hải quan; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp
hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài


sản khác gắn liền với đất; ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; cấp
văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ;
cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện

được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo
hộ; và không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu
tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối
tượng có đủ điều kiện...
Như vậy, thiệt hại do các hành vi khác của cán bộ, công chức gây ra nếu
làm trái quy định của pháp luật mà khơng được liệt kê tại các nhóm hành vi
trên thì khơng được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn trọng
quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị thiệt hại do hành vi
công quyền gây ra của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, pháp luật về bồi thường thiệt hại đã quy định thêm
một hành vi Nhà nước có TNBT đối với thiệt hại gây ra “các trường hợp
được bồi thường khác do pháp luật quy định”
Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động tố tụng
Đối với hoạt động TTHS và TTDS, pháp luật về bồi thường thiệt hại cũng
đã liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có TNBT liên quan trực tiếp đến các
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền khơng bị
tra tấn, nhục hình và được đối xử nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ tùy
tiện, độc đốn; quyền tự do và an tồn cá nhân; quyền được pháp luật bảo hộ
về tính mạng; quyền sống, tránh mọi hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra khi xâm phạm quyền sống… là ưu tiên hàng đầu của Nhà
nước trong việc nhận trách nhiệm về mình và bồi thường những thiệt hại do
cán bộ, công chức gây ra khi thi hành công vụ. Vấn đề phạm vi bồi thường
thiệt hại trong TTDS, TTHC, TTHS cũng được ghi nhận trong pháp luật về
bồi thường thiệt hại mà trong đó, đã quy định cụ thể tại các điều 17,18 và 19.
Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động thi hành án


Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, pháp luật về bồi thường thiệt hại có quy
định tại Điều 21 Luật TNBTCN đối với các hành vi trái pháp luật gây ra bởi
cán bộ, công chức trong hoạt động cơng vụ liên quan trực tiếp đến các nhóm

quyền bao gồm quyền về tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tư nhân về
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, quyền
thừa kế… và Nhà nước có trách nhiệm bồi thường nếu có thiệt hại gây ra do
các nhóm hành vi của người thi hành cơng vụ, bao gồm: việc ra hoặc cố ý
không ra các quyết định thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định
về thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cưỡng chế thi hành
án; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tồ án; hỗn
thi hành án; tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án,...
Đối với lĩnh vực thi hành án hình sự, là một lĩnh vực tương đối nhạy
cảm và phức tạp, các quy định của pháp luật về bồi thường nhà nước chỉ
dừng lại ở mức quy định mà không kiểm chứng được trên thực tế áp dụng.
Trong đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường do 4 nhóm hành vi của người
thi hành công vụ gây ra được quy định tại Điều 20 của Luật thi nhóm thuộc
phạm vi được Nhà nước bồi thường bao gồm nhóm bị hành vi: ra quyết định
thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định của BLHS, bao
gồm: phụ nữ có thai, phụ nữ đang ni con dưới 36 tháng tuổi, người đã được
Chủ tịch nước quyết định ân giảm hình phạt tử hình, người chưa thành niên;
giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án, quyết định của
Tồ án; khơng thực hiện quyết định hỗn thi hành án của Tịa án đối với
người bị kết án hình phạt tù; khơng thực hiện quyết định tạm đình chỉ thi
hành án của Tịa án đối với người bị kết án hình phạt tù; khơng thực hiện
quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tịa án đối với người
đang chấp hành hình phạt tù; không thực hiện các quyết định đặc xá của Chủ
tịch nước đối với người bị kết án phạt tù được đặc xá; không thực hiện quyết
định đại xá của Quốc hội đối với người bị kết án được ân xá.


Có thể nhận thấy rằng việc quy định về phạm vi TNBTCNN tại Luật
TNBTCNN so với các văn bản quy định về TNBTCNN trước đây cho thấy

phạm vi TNBTCNN tương đối rộng, bao phủ hầu hết các hoạt động của Nhà
nước trên cả 03 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy rằng
việc điều chỉnh phạm vi TNBTCNN chưa được toàn diện và đầy đủ, chưa giải
quyết được hoàn toàn và triệt để những sai phạm trong mọi mặt của đời sống
xã hội, tuy nhiên, việc Nhà nước ban hành một cơ chế bồi thường quy định rõ
từng loại trường hợp nếu có sai phạm gây ra thiệt hại sẽ được Nhà nước bồi
thường đã thể hiện một ý chí, một tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta.
Về thủ tục giải quyết bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện các quy định về thủ
tục giải quyết bồi thường nhằm đảm bảo việc giải quyết bồi thường được
nhanh chóng, hiệu quả, cụ thể như sau:
a) Thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi
hành công vụ gây thiệt hại
- Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung và quy định cụ thể
trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý
người thi hành công vụ gây thiệt hại (Mục 1 Chương V). Đồng thời, bổ sung
quy định về việc hỗn, tạm đình chỉ và đình chỉ việc giải quyết bồi thường để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, không làm ảnh hưởng
đến hoạt động của cơ quan nhà nước.
- Bổ sung 01 Điều mới (Điều 44) quy định về tạm ứng kinh phí bồi
thường đối với những thiệt hại có thể tính tốn được ngay, khơng cần xác
minh.
- Sửa đổi tồn diện các quy định về thương lượng việc bồi thường
(Điều 46) theo hướng quy định cụ thể về thành phần thương lượng, địa điểm


thương lượng, nội dung thương lượng, thủ tục thương lượng và kết quả của
việc thương lượng.
b) Thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện các quy định về khởi

kiện và thủ tục giải quyết u cầu bồi thường tại Tịa án, trong đó bổ sung
quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án yêu cầu bồi
thường trong 02 trường hợp:
(1) trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ
yêu cầu bồi thường (điểm a khoản 1 Điều 52);
(2) trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ
yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu cơquan trực tiếp
quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường,
nhưng sau đó người này rút đơn trước thời điểm cơ quan này tiến hành xác
minh thiệt hại (điểm b khoản 1 Điều 52).
c) Thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, vụ án hành chính
Để phù hợp với nguyên tắc bồi thường đã được nêu trên, Luật
TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều mới quy định về giải quyết yêu
cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính tại
Tịa án (Điều 55) và giao Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều
này.
Về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước
Phù hợp với các quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2, khoản 5 Điều 9 và
khoản 6 Điều 14 ICCPR về quyền được yêu cầu bồi thường và được bồi
thường, trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật TNBTCNN năm 2009, Luật
TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 4) quy định về nguyên tắc


bồi thường của Nhà nước. Theo đó, về cơ bản, nguyên tắc bồi thường được
kế thừa như quy định của Luật TNBTCNN năm 2009.Cụ thể, việc giải quyết
bồi thường được giải quyết tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công
vụ gây thiệt hại; được kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính. Đồng thời, Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở
rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, cho phép người bị thiệt hại có quyền

khởi kiện ngay ra tịa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án
hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong
quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt
động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình
sự và thi hành án dân sự (khoản 4 Điều 4). Người bị thiệt hại có quyền lựa
chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng khi cơ quan giải quyết bồi
thường đã thụ lý u cầu bồi thường thì người đó khơng được quyền yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường.
2. Về quyền của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bồi thường
Quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại được pháp luật quy định
tương đối cụ thể và rõ ràng, trong đó, thể hiện ở chỗ Nhà nước quy định rằng
người dân nếu bị thiệt hại là có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường. Điều
này thể hiện sự bình đẳng của nhân dân trước pháp luật và Nhà nước. Tại
Điều 5 và Điều 13 Luật TNBTCNN quy định:
“1. Người yêu cầu bồi thường là người bị thiệt hại có quyền sau đây:
a) Yêu cầu một trong các cơ quan quy định tại khoản 7 Điều 3 của
Luật này giải quyết yêu cầu bồi thường và được thông báo kết quả giải quyết
yêu cầu bồi thường;
b) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện quyết định, hành vi trái pháp luật của
người có thẩm quyền trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường theo quy định


của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính; khiếu
nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật về
tố tụng;
c) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khơi phục quyền, lợi
ích hợp pháp khác của mình theo quy định của pháp luật;
d) Nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình;
đ) Được cơ quan quản lý nhà nước về cơng tác bồi thường nhà nước,

cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hướng dẫn thủ
tục yêu cầu bồi thường;
e) Ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự cho cá nhân, pháp nhân
khác thực hiện quyền yêu cầu bồi thường;
g) Quyền khác theo quy định của pháp luật.”
Thể hiện quan hệ TNBTCNN được xác định là quan hệ dân sự đặc thù,
vì vậy, khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, Luật TNBTCNN
không quy định cho người bị thiệt hại được quyền làm đơn yêu cầu Nhà nước
bồi thường ngay sau khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị vi
phạm mà quyền đó chỉ phát sinh khi có văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành cơng vụ là trái pháp luật
hoặc có bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định
người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường.Việc quy định như
vậy là thể hiện rõ một trong những nguyên tắc xuyên suốt của Luật
TNBTCNN là phải bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích
của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước, tức là Luật
TNBTCNN được ban hành là nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị
người thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng đồng thời cũng phải bảo đảm sự
hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền. Như vậy, nếu
quy định quyền yêu cầu bồi thường phát sinh ngay từ thời điểm người bị thiệt


hại cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm thì sẽ gây ảnh
hưởng khơng tốt đến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Về quyền “không bị hạ thấp nhân phẩm”, xâm phạm các quyền và
tự do
Điểm a khoản 3 Điều 2 ICCPR quy định trách nhiệm của quốc gia
thành viên trong việc “bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các
quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được các biện
pháp khắc phục hậu quả, cho dù sự xâm phạm đó là do hành vi của những

người thi hành công vụ gây ra” hay Điều 7 ICCPR cũng ghi nhận “khơng ai
có thể bị tra tấn, ... hạ thấp nhân phẩm”.
Để nội luật hóa điểm a khoản 3 Điều 2 ICCPR quy định trách nhiệm
của quốc gia thành viên trong việc “bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm
phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được
các biện pháp khắc phục hậu quả, cho dù sự xâm phạm đó là do hành vi của
những người thi hành cơng vụ gây ra” hay Điều 7 ICCPR về “không ai có thể
bị tra tấn, ... hạ thấp nhân phẩm”, tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 đã quy
định về quyền này. Để xử lý các trường hợp vi phạm quyền bất khả xâm
phạm, một số Bộ luật, luật đã được ban hành nhằm bảo đảm thực hiện và cụ
thể hóa các quy định này, trong đó có Luật TNBTCNN năm 2017. Cụ thể,
Luật TNBTCNN 2017 đã bổ sung một mục mới tại Chương V quy định cụ
thể về hình thức, thủ tục, trách nhiệm thực hiện việc phục hồi danh dự và đã
bổ sung thêm 02 trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự
là người bị bắt và pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án trái pháp luật.
III. Thực tiễn áp dụng, đánh giả và hoàn thiện các chế định liện quan
đến bảo đảm quyền con người theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của nhà nước.


1. Đánh giá chung
Luật TNBTCNN có ý nghĩa sâu sắc trong việc khẳng định chính sách của
Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu xây dựng Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm
trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Luật
thể hiện tính dân chủ hố trong đời sống xã hội, khi công dân tham gia vào
các quan hệ pháp luật cụ thể. Đặc biệt Luật đã đặt địa vị pháp lý của người
dân ngang bằng với vị trí Nhà nước, nghĩa là Luật cho phép người dân có

quyền yêu cầu, khởi kiện và Nhà nước phải bồi thường khi các công chức,
viên chức của mình có lỗi. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Luật TNBTCNN
những năm qua cho thấy, một số quy định của Luật TNBTCNN đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập, mâu thuẫn trong nội bộ Luật cũng như với một số
văn bản hiện hành
Có thể thấy, tại thời điểm ban hành Luật TNBTCNN thì nội dung của Luật
này được xây dựng phù hợp với quy định của một số đạo luật có liên quan
như Luật Khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính... Ví dụ, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính được xây dựng trên cơ sở phạm vi khiếu nại quy định liên
quan về khiếu nại, tố cáo và phạm vi đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Đồng thời, việc pháp luật Việt Nam có những nguyên tắc thể hiện rõ mọi
hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại phải
được xử lý nghiêm minh trước pháp luật thông qua việc xem xét trách nhiệm
hoàn trả để gánh một phần trách nhiệm và xử lý người thi hành công vụ
tương ứng với mức độ lỗi và hành vi trái pháp pháp luật. Mục đích của việc
xử lý kỷ luật và xem xét trách nhiệm hồn trả thơng qua yếu tố lỗi của người
thi hành công vụ không chỉ là trừng trị mà chủ yếu là giáo dục, cải tạo, răn đe


và phòng ngừa tội phạm. Đây là yêu cầu cơ bản để bảo đảm quyền con người
trong nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên, đến nay, Hiến 2013 và một số Luật chuyên ngành đã có nhiều
thay đổi theo hướng quy định rõ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân. Do đó, trong điều kiện các quan hệ pháp luật ngày càng mở rộng, việc
củng cố quyền con người ngày càng được nâng cao và đồng thời đi kèm với
sự hồn thiên các loại pháp luật khác có liên quan đến Luật TNBTCNN đã
thay đổi thì việc sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN là một đòi hỏi tất yếu để
phù hợp với giai đoạn phát triển thời kỳ này của Nhà nước ta.
2. Hạn chế:

Biết rằng những mặt đạt được từ khi có cơ chế riêng, hữu hiệu về giải
quyết bồi thường của Nhà nước đã gặt hái được nhiều kết quả tích cực trong
việc giải quyết bồi thường thiệt hại thông qua số liệu như đã viện dẫn ở trên,
qua thông tin đại chúng, qua dư luận xã hội, qua thực tế từng vụ việc đã giải
quyết bồi thường thành công và suôn sẻ, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này,
em muốn nghiên cứu sâu về những hạn chế, vướng mắc và kẽ hở mà cơ quan
có trách nhiệm bồi thường cũng như người bị thiệt hại có khả năng làm trái
quy định của pháp luật về bồi thường nhà nước; hoặc khó khăn từ các quy
định của pháp luật gây ra cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong quá
trình giải quyết bồi thường và cho người bị thiệt hại trong quá trình yêu cầu
bồi thường. Sở dĩ học viên không đi sâu vào nghiên cứu những mặt tích cực
và điểm sáng trong việc giải quyết bồi thường, bởi lẽ, việc bảo vệ quyền con
người trong pháp luật về bồi thường nhà nước mới là mục tiêu của đề tài
nghiên cứu. Những hạn chế, vướng mắc tới từ nhiều lý do, nhiều góc độ tiếp
cận mà học viên phân tích dưới đây, có khả năng, sẽ là cẩm nang cho người
dân trong việc chủ động tránh đối với những tình huống tương tự, hoặc nắm
bắt được phần nào những sai phạm mà cơ quan nhà nước dễ gây ra, để từ đó,


tự bảo vệ quyền của mình bên cạnh việc được bảo vệ và thúc đẩy tích cực từ
phía Nhà nước và từ các quy định của pháp luật về bồi thường nhà nước.
Có thể dễ nhận thấy cho đến thời điểm này, một số quy định của Luật
TNBTCNN đã bộc lộ những hạn chế, bất cập so với yêu cầu của thực tế và
thiếu thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn thi hành và sự thay đổi của chính
sách pháp luật như: phạm vi điều chỉnh chưa bao quát được các thiệt hại thực
tế phát sinh do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; căn
cứ xác định trách nhiệm bồi thường được quy định chưa thật hợp lý, thực tế
bộc lộ bất cập là rào cản đối với người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu
bồi thường; thời hạn, thời hiệu yêu cầu và giải quyết bồi thường còn chưa
thống nhất với các đạo luật liên quan về tố tụng dân sự, hành chính; thủ tục

giải quyết chưa tạo ra cơ chế bình đẳng giữa Nhà nước và cơng dân trong giải
quyết bồi thường; mơ hình quản lý và cấp phát kinh phí cịn bất cập, gây khó
khăn cho cơ quan giải quyết bồi thường và cho người bị thiệt hại; về xác định
trách nhiệm hồn trả chưa bảo đảm tính răn đe đối với đội ngũ cán bộ, công
chức và chưa tương xứng với kinh phí Nhà nước đã chi trả bồi thường.
Hạn chế từ cơ chế bồi thường
Do vẫn có sự thiếu thống nhất giữa Luật TNBTCNN và Luật Khiếu
nại, Luật TTHC về phạm vi được bồi thường trong hoạt động quản lý hành
chính. Sự khơng thống nhất này đã ảnh hưởng đến quyền yêu cầu bồi thường
của người bị thiệt hại, làm cho quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt
hại không được bảo đảm, chẳng hạn như theo quy định của Luật Tố tụng
hành chính và Luật Khiếu nại thì các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan quản lý nhà nước nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật TNBTCNN thì tuy rằng các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước là sai, gây thiệt
hại cho cá nhân, tổ chức nhưng không nằm trong các trường hợp quy định


trong Luật TNBTCNN thì cũng khơng được bồi thường theo cơ chế bồi
thường nhà nước.
Hạn chế về phạm vi bồi thường
Phạm vi bồi thường của Luật TNBTCNN còn tương đối hẹp, mới chỉ
quy định TNBTCNN trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành
án theo hướng liệt kê các thiệt hại trong phạm vi Nhà nước bồi thường. Như
vậy, còn rất nhiều các thiệt hại thực tế khác như: Sở Tài ngun và mơi
trường có trách nhiệm quản lý và chăm sóc cây xanh cơng cộng, mưa bão,
cây đổ gây chết người, vậy trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Hoặc bác sĩ
làm việc trong bệnh viện cơng lập, tự mở phịng khám tư, gây hậu quả cho
người dân, vậy trách nhiệm của cơ quan Nhà nước quản lý bác sĩ này có phải
bồi thường Nhà nước hay không? Hoặc trường hợp nhà vắng chủ từ những

năm 1954, được Nhà nước cho người khác thuê hoặc hóa giá cho họ, sau khi
chủ sở hữu nhà về, đòi nhà khơng được, vậy có thuộc phạm vi bồi thường của
Nhà nước hay khơng?.. cịn rất nhiều đối tượng dễ bị xâm hại cả về vật chất
và tinh thần mà pháp luật về BTNN chưa quy định thuộc phạm vi được bồi
thường.
Bất cập trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường từ căn cứ xác
định trách nhiệm bồi thường. Việc thụ lý đơn yêu cầu bồi thường được quy
định có thể nói là khá cứng nhắc vơ hình chung gây bất lợi cho người bị thiệt
hại, không bảo đảm tối đa quyền yêu cầu bồi thường của họ trong một số
trường hợp khi một mặt người bị thiệt hại vừa phải chịu thiệt hại do cơ quan
công quyền gây ra, mặt khác lại phải đơn phương thu thập các giấy tờ hợp lệ
để chứng minh mình bị thiệt hại và u cầu chính cơ quan cơng quyền gây ra
thiệt hại cho mình phải giải quyết bồi thường. Để thực hiện được quyền con
người của mình trong pháp luật về BTNN, người dân bị thiệt hại bắt buộc
phải có được căn cứ chứng minh được quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơng chức cơ quan đó là trái pháp luật trong quá trình thi hành


công vụ mà không được yêu cầu bồi thường thẳng tới cơ quan cho rằng đã
gây ra thiệt hại cho mình. Vậy văn bản đó ở đâu? Làm thế nào để có được? Ai
có thẩm quyền cấp? Nội dung như thế nào? Đối với người dân quả là một
điều vô cùng khó khăn để có được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ theo đúng quy định tại Điều 5 Luật TNBTCNN. Việc
quy định cần có văn bản xác định thuộc phạm vi TNBTCNN đã dẫn đến việc
buộc người dân phải đi yêu cầu cơ quan nhà nước chứng minh lỗi của chính
cơ quan đó.
Như vậy, về mặt lý thuyết các văn bản nêu trên đã bao gồm hầu hết là
văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành cơng vụ. Tuy
nhiên, vẫn cịn có một số trường hợp mà cơ quan nhà nước tiến hành ban
hành mặc dù có chứa đựng những nội dung xác định hành vi trái pháp luật

của người thi hành công vụ nhưng không có hình thức theo pháp luật quy
định. Do đó, dẫn đến việc gây khó khăn cho người bị thiệt hại trong việc yêu
cầu bồi thường.
Hạn chế về thời hiệu yêu cầu bồi thường
Luật TNBTCNN quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là “02 năm, kể từ
ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản xác định hành vi
của người thi hành công vụ là trái pháp luật”. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
nhiều trường hợp người bị thiệt hại phải rất nhiều ngày sau khi ban hành văn
bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ họ mới thực tế
nhận được văn bản đó. Trong khi Luật TNBTCNN lại quy định thời điểm để
tính thời hiệu là “từ ngày có văn bản”. Quy định như vậy sẽ có thể dẫn đến
nhiều trường hợp người bị thiệt hại khơng biết là có văn bản và đến khi biết
hoặc nhận được văn bản thì họ đã hết quyền yêu cầu bồi thường do hết thời
hiệu yêu cầu bồi thường.
3. Giải pháp hoàn thiện thể chế về bảo đame quyền con người trong pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước:


- Mở rộng phạm vi bồi thường
- Mở rộng các loại thiệt hại được bồi thường
- Bỏ quy định về việc người bị thiệt hại tự chứng minh căn cứ để thực
hiện quyền yêu cầu bồi thường
- Sửa đổi quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường
- Giải pháp lâu dài về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và
hiểu biết của người dân
- Xây dựng cơ quan chuyên trách bảo vệ các quyền và lợi ích của con
người về bồi thường nhà nước cấp quốc gia
- Hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN
Có thể nói, việc ban hành Luật TNBTCNN nhằm thể chế hóa đường lối, chủ

trương của Đảng, hoàn thiện pháp luật về vồi thường nhà nước đã tạo một cơ
chế bảo đảm, hữu hiệu hơn cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường cũng như
bảo vệ tối đa quyền con người trong pháp luật về bồi thường nhà nước, bảo
đảm sự hoạt động ổn định hơn của cơ quan nhà nước, phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và năng lực chuyên môn của cán bộ,
công chức trong Nhà nước ta. Đồng thời việc ban hành Luật TNBTCNN
nhằm mục đích vừa bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013
Bộ luật Dân sự 2015
Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự năn 2015.
Luật Trách nhiệm bồi thường năm 2017
Nguyễn Thanh Tịnh (2012), Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.



9. Thông tư 04/2018/TT-BTP về biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà
nước do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
10.
Nghị định 68/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước />


×