ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ BÌNH TUYẾT
HO¹T §éNG GI¸M S¸T
CñA HéI §åNG NH¢N D¢N CÊP HUYÖN -
QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Ngƣời cam đoan
Lê Thị Bình Tuyết
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 6
1.1. Khái niệm, vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
cấp huyện 6
1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện 15
1.2.1. Đặc điểm về chủ thể giám sát 15
1.2.2. Đặc điểm về đối tƣợng giám sát 20
1.2.3. Đặc điểm về nội dung giám sát 21
1.2.4. Đặc điểm về hình thức giám sát 22
1.2.5. Thẩm quyền của hội đồng nhân dân cấp huyện trong hoạt động
giám sát 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 30
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HÓA
TỪ ĐẦU NHIỆM KỲ 2011- 2016 ĐẾN NAY 31
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và cơ cấu
tổ chức của hội đồng nhân dân cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá 31
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội tỉnh
Thanh Hoá 31
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân cấp huyện ở Thanh Hoá 34
2.2. Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa từ đầu nhiệm kỳ 2011- 2016 đến nay 36
2.2.1. Hoạt động xem xét báo cáo của cơ quan Nhà nƣớc 36
2.2.2. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn 40
2.2.3. Hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối
với ngƣời giữ chức vụ do hội đồng nhân dân bầu 43
2.2.4. Xem xét báo cáo của Đoàn giám sát 44
2.2.5. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật 56
2.5.6. Giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân 57
2.2.7. Hoạt động giám sát của các đại biểu hội đồng nhân dân cấp
huyện ở tỉnh Thanh Hoá 58
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa từ đầu nhiệm kỳ 2011- 2016 đến
nay; nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế 60
2.3.1. Ƣu điểm 60
2.3.2. Hạn chế 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 73
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HÓA 74
3.1. Yêu cầu khách quan của việc đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay 74
3.2. Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát
của hội đồng nhân dân cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa 77
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các qui định của pháp luật về hoạt động giám
sát của hội đồng nhân dân 78
3.2.2. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của hội đồng nhân dân nói
chung và hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân nói riêng 84
3.2.3. Nâng cao chất lƣợng, đổi mới cơ cấu đại biểu hội đồng nhân dân
cấp huyện 85
3.2.4. Kiện toàn cơ cấu, tổ chức, nâng cao năng lực của Thƣờng trực
hội đồng nhân dân, các Ban hội đồng nhân dân và bộ phận giúp
việc cho hội đồng nhân dân 88
3.2.5. Xác lập mối quan hệ giữa hoạt động giám sát của hội đồng nhân
dân cấp huyện với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và hoạt động
giám sát của các cơ quan, đoàn thể 90
3.2.6. Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện gắn với
thực tiễn, bảo đảm trình tự, thủ tục theo quy định 92
3.2.7. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giám sát của hội đồng
nhân dân 94
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 95
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nƣớc ta hiện
nay, vấn đề tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy Nhà nƣớc nói chung và hệ thống chính quyền địa phƣơng nói
riêng trong đó có Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp là yêu cầu khách quan
và tất yếu. Là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hoạt động của HĐND
các cấp có thực quyền là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Với hai chức năng
cơ bản: chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phƣơng và
chức năng giám sát việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nƣớc và Nghị quyết của HĐND thì chức năng giám sát có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà
nƣớc thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những
yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND.
HĐND các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt
động để nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình theo
quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phƣơng. Trong đó, hoạt động giám sát
đã có nhiều chuyển biến rõ rệt, đƣa lại nhiều kết quả khả quan, bƣớc đầu góp
phần khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt
động giám sát nói riêng.
HĐND cấp huyện là cấp trung gian giữa cấp tỉnh và cấp xã. Hoạt động
của HĐND cấp huyện có những đặc điểm của HĐND cấp tỉnh, cấp xã và có
những nét đặc trƣng riêng. Cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung
2
ƣơng và chính quyền địa phƣơng, là cấp đầu tiên của chính quyền địa phƣơng.
Với vai trò là cấp đầu tiên của chính quyền địa phƣơng, cấp tỉnh là cấp quan
trọng trong việc chuyển tải chủ trƣơng, chính sách từ trung ƣơng xuống tới
ngƣời dân. Quá trình chuyển tải chính sách từ trung ƣơng đến cơ sở, cấp tỉnh
đƣợc pháp luật trao cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện
chức năng quản lý trên địa bàn lãnh thổ. Cấp xã là nơi gần dân nhất, trực tiếp
thực thi đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc tại địa
phƣơng và là nơi trực tiếp quyết định những chủ trƣơng, biện pháp quan trọng
để xây dựng và phát triển địa phƣơng về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng-
an ninh. Hoạt động của cấp xã có ảnh hƣởng lớn đến hiệu quả các chủ trƣơng
của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc
củng cố, sự phát triển bền vững của xã hội, đảm bảo dân chủ và nâng cao đời
sống nhân dân.
Cấp huyện là cấp trung gian giữa chính quyền tỉnh với chính quyền cấp
xã. Trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phƣơng ở nƣớc ta, giai đoạn từ
năm 1945 đến 1962, cấp kỳ và cấp huyện không có HĐND. Từ năm 1962 đến
nay, HĐND đƣợc tổ chức ở tất cả các cấp chính quyền địa phƣơng với xu
hƣớng đề cao vị trí chính trị, pháp lý của HĐND. Tuy nhiên, tổ chức cũng
nhƣ hoạt động của HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu còn hạn
chế trong bộ máy nhà nƣớc. Do vậy có ý kiến không cần thiết phải có HĐND
vì hoạt động của nó hình thức, làm cho bộ máy nhà nƣớc thêm cồng kềnh, tốn
kém và thời gian qua chúng ta đã thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận,
phƣờng tại 67 huyện, 32 quận, 483 phƣờng của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ƣơng. Sau một thời gian thực hiện thí điểm tại các địa phƣơng trên, hoạt
động của bộ máy chính quyền và các hoạt động kinh tế - xã hội ở địa phƣơng
nơi làm thí điểm đạt đƣợc một số kết quả nhất định nhƣng cũng nảy sinh
những hạn chế, đặc biệt là trong công tác giám sát.
3
Điều 111 Hiến pháp 2013 quy định:
1. Chính quyền địa phƣơng đƣợc tổ chức ở các đơn vị hành
chính của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phƣơng gồm có Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân đƣợc tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định [33].
Vấn đề đặt ra hiện nay cho chúng ta là phải tăng cƣờng củng cố, kiện
toàn HĐND, nhất là HĐND cấp huyện để HĐND hoạt động thực chất hơn và
ngày càng có hiệu lực, hiệu quả tƣơng xứng với vị trí, vai trò của HĐND nhƣ
Hiến pháp đã khẳng định.
Trong thực tiễn hoạt động nói chung, hoạt động giám sát nói riêng của
HĐND cấp huyện thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, mang tính
hình thức, cách thức tổ chức giám sát chƣa khoa học, năng lực giám sát vẫn
chƣa thực sự hiệu quả, phƣơng thức và nội dung giám sát chƣa đƣợc đổi mới,
khả năng phát hiện các vấn đề trong quá trình giám sát còn yếu, việc theo dõi,
đôn đốc các cơ quan chức năng liên quan trong việc thực hiện các kết luận,
kiến nghị sau giám sát còn thiếu tính quyết liệt, chƣa có chế tài cho hoạt động
giám sát dẫn đến làm giảm hiệu quả giám sát.
Việc nghiên cứu lý luận về hoạt động giám sát của HĐND các cấp nói
chung, của HĐND cấp huyện nói riêng là nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt việc đi
sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa, trên cơ sở đó , đƣa ra quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới hoạt
động giám sát của HĐND càng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Chính vì thế,
tôi đó lựa chọn đề tài: "Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
huyện - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa" làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các qui định của pháp luật về khái niệm, đặc
điểm, vai trò hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện. Luận văn đi sâu vào
4
trọng tâm là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND cấp
huyện ở tỉnh Thanh Hóa, từ đó tìm ra các ƣu điểm, hạn chế, nguyên nhân của
ƣu điểm, hạn chế. Trên cơ sở đó, Luận văn đƣa ra các giải pháp nhằm đổi mới
hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND nói chung.
Gần đây có một số đề tài nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND:
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Thị Phƣơng “Hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Hải Dương” (năm 2009);
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Tô Thị Hồng Lê “Hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Lai Châu” (năm 2013);
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Liên “Hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh Lạng Sơn hiện nay” (năm 2011);
Đề tài nghiên cứu khoa học của Thƣờng trực HĐND tỉnh Thanh Hóa
“Thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của Thường
trực HĐND các cấp ở Thanh Hóa” (năm 2007)
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Hải Long “Hoàn thiện
pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND” (năm 2012)
Các đề tài dƣới nhiều góc độ khác nhau đã đề cập đến các vấn đề về lý
luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của HĐND, nhƣ: chủ thể giám sát,
đối tƣợng giám sát, hình thức giám sát, nhƣng chủ yếu liên quan đến hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh hoặc Thƣờng trực HĐND các cấp.
Cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ
về hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa với
tính chất là một đề tài độc lập, đi sâu nghiên cứu thực tiễn, để đánh giá mặt
đƣợc, mặt chƣa đƣợc, qua đó đƣa ra đƣợc những giải pháp có giá trị thực tiễn
nhằm đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về hoạt
động giám sát của HĐND cấp huyện theo Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013,
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt động của HĐND và
đƣợc giới hạn trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa từ đầu nhiệm kỳ 2011- 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về HĐND, chức
năng giám sát của HĐND.
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của triết học Mác- Lênin kết hợp với
các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cho việc nâng cao nhận
thức và kiến thức pháp lý về hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện nói
chung, ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng; qua đó đƣa ra đƣợc các quan điểm và giải
pháp đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài nghiên cứu có bố cục các phần: mở đầu, ba chƣơng và kết luận:
Chương 1: Khái niệm, vai trò, đặc điểm hoạt động giám sát của HĐND
cấp huyện.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa từ đầu nhiệm kỳ 2011- 2016 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
huyện ở tỉnh Thanh Hóa.
6
Chương 1
KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
cấp huyện
Theo Điều 113 Hiến pháp 2013:
1. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do
Nhân dân địa phƣơng bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc Nhân dân địa
phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên
2. HĐND quyết định các vấn đề của địa phƣơng do luật định;
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng và
việc thực hiện nghị quyết của HĐND [33].
HĐND là cơ quan nhà nƣớc mà tổ chức và hoạt động vừa mang tính
chất cơ quan quyền lực nhà nƣớc, vừa mang tính đại diện cho cộng đồng dân
cƣ nơi HĐND đƣợc bầu ra. HĐND đảm nhiệm vai trò là cơ quan đại diện cho
nhân dân ở địa phƣơng, tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nƣớc, quyết định
các vấn đề quan trọng ở địa phƣơng. HĐND cũng thay mặt nhân dân kiểm
soát hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Với vị trí, tính chất là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, cơ
quan đại diện cho nhân dân địa phƣơng, HĐND cấp huyện có các chức năng:
chức năng quyết định và chức năng giám sát.
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thƣờng
trực HĐND, Ủy ban nhân dân (UBND), Tòa án nhân dân (TAND),
7
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp; giám sát việc tuân thủ
pháp luật của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức y tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phƣơng [31].
Để nhận thức đúng hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện, trƣớc hết
cần làm rõ khái niệm "giám sát". Trong các công trình nghiên cứu một số tài
liệu, thuật ngữ "giám sát" đƣợc hiểu theo nhiều cách, từ nhiều góc độ khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng "giám sát" là: “Sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định” [18, tr.305].
- Quan niệm khác coi "giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không" [19, tr.374].
- Có ý kiến lại cho rằng:
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ
động, thƣờng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện
pháp tích cực để buộc và hƣớng hoạt động của các đối tƣợng chịu
sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt đƣợc những mục
đích, hiệu quả xác định từ trƣớc, bảo đảm cho pháp luật đƣợc tuân
thủ nghiêm chỉnh [14, tr.174].
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có khác nhau,
nhƣng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là việc
theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó trong một công việc, lĩnh
vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định; từ đó có biện
pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch, nhằm đạt được
những mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quy định thực
hiện đúng và đầy đủ.
Với quan niệm trên “giám sát” có những đặc trƣng sau:
- Giám sát dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và
đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
8
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời
câu hỏi là ngƣời hoặc tổ chức có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh
giá về một việc đã đƣợc thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định?
- Giám sát luôn luôn gắn với một đối tƣợng nhất định tức là phải trả lời
đƣợc câu hỏi giám sát ai và giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng ở
chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra”. Vì kiểm tra thì chủ thể hoạt
động và đối tƣợng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với
nhau, đó là việc tự kiểm tra lại hoạt động chính mình của chủ thể hoạt động.
Giám sát thì không có sự đồng nhất này. Chủ thể thực hiện việc theo dõi, xem
xét, đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối tƣợng chịu sự giám sát.
- Giám sát phải thể hiện đƣợc quan hệ giữa chủ thể thực hiện hoạt
động giám sát với đối tƣợng chịu sự giám sát, là quan hệ mang tính quyền
lực. Chủ thể có những quyền và nghĩa vụ gì khi thực hiện hoạt động giám
sát và ngƣợc lại.
- Giám sát luôn thể hiện tính chủ động trong hoạt động có mục đích
đƣợc xác định trƣớc của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và hoạt động
giám sát đƣợc thực hiện thƣờng xuyên theo một chƣơng trình kế hoạch
nhất định.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 đã chính thức sử dụng khái
niệm "giám sát" để qui định chức năng giám sát của HĐND; Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1994, chức năng giám sát của HĐND đƣợc qui định
đầy đủ, cụ thể hơn; Đặc biệt Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, chức
năng giám sát của HĐND đƣợc cụ thể hóa chi tiết tại Chƣơng III, nhƣng thuật
ngữ "giám sát" không đƣợc pháp luật giải thích chính thức. Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội năm 2003, lần đầu tiên chính thức giải thích "giám
sát " là gì. Khoản 1 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định:
9
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng
vụ Quốc hội [30, Điều 2, Khoản 1].
Nội dung giải thích "giám sát" nhƣ trên xác định những vấn đề quan
trọng nhất của giám sát là: Chủ thể thực hiện giám sát (Quốc hội, các cơ quan,
tổ chức của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội); đối tƣợng chịu sự giám sát
của Quốc hội (các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát của Quốc hội);
cách thức tiến hành giám sát ("theo dõi, xem xét và đánh giá") và nội dung
giám sát của Quốc hội (việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội).
Từ các quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 về hoạt
động giám sát của HĐND, có thể khái quát hoạt động giám sát của HĐND bao
gồm các nội dung chủ yếu: mục đích của giám sát của HĐND; chủ thể thực
hiện quyền giám sát của HĐND; đối tƣợng thuộc quyền giám sát của HĐND;
nội dung giám sát của HĐND; hình thức giám sát; các biện pháp pháp lý …
Với những nội dung nhƣ trên của chức năng giám sát của HĐND trả lời
cho các câu hỏi: giám sát để làm gì, vì ai, vì cái gì (mục đích giám sát); ai
giám sát (chủ thể giám sát), giám sát ai (đối tƣợng giám sát); giám sát cái
gì (nội dung giám sát); giám sát như thế nào (hình thức giám sát)
Vì vậy, hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện có thể đƣợc hiểu nhƣ
sau: Hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện là tổng thể các hoạt động của
HĐND, của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND cấp huyện
nhằm xem xét, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật,
pháp lệnh, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của
10
HĐND trên các lĩnh vực của địa phương đối với các đối tượng chịu sự giám
sát của HĐND cấp huyện; từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử l
ý phù
hợp để khắc phục những hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh; không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa
vụ của địa phương đối với cả nước.
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật… của HĐND cấp huyện
là một trong những biện pháp cần thiết và không thể thiếu, có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Thông qua
hoạt động giám sát của HĐND bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan
nhà nƣớc, tổ chức và công dân đặt dƣới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của
nhân dân địa phƣơng, nhằm tăng cƣờng kỷ luật, kỷ cƣơng phép nƣớc, khắc
phục tính cục bộ địa phƣơng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức,
tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nƣớc. Đây
chính là điều kiện bảo đảm vững chắc cho quyền lực của nhân dân đƣợc thực
hiện trong thực tế, là nhằm thực hiện “chế ước quyền lực Nhà nước”.
Hoạt động giám sát của HĐND bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật đƣợc
tuân thủ thống nhất, nghiêm chỉnh trên phạm vi địa phƣơng và bảo đảm việc
thực hiện các nghị quyết của HĐND.
Điều 3 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 qui định, việc bảo
đảm cho Hiến pháp, pháp luật đƣợc tuân thủ thống nhất, nghiêm chỉnh trên
phạm vi địa phƣơng là nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phƣơng,
trong đó chức năng giám sát của HĐND giữ một vai trò không thể thiếu.
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì đối
tƣợng, phạm vi, nội dung giám sát của HĐND rất rộng. HĐND có quyền
giám sát hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân; giám sát mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội; giám sát tất cả các khâu từ xây dựng pháp
11
luật, tổ chức thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật ở địa phƣơng. Đây
chính là cơ sở pháp lý thuận lợi nhất để HĐND phát huy vai trò của mình.
Qua hoạt động giám sát HĐND phát hiện kịp thời những việc làm sai
trái của các cơ quan nhà nƣớc, của cán bộ, công chức nhà nƣớc… làm thiệt
hại đến lợi ích nhà nƣớc, tập thể và công dân để yêu cầu chấm dứt hoặc đề
nghị xử lý theo pháp luật. Bảo đảm tính nghiêm minh và tính thống nhất của
pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hạn chế và loại trừ những hành vi vi
phạm Hiến pháp, pháp luật ở địa phƣơng.
Qua hoạt động giám sát giúp HĐND nhanh chóng phát hiện những văn
bản pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng trái với Hiến pháp,
pháp luật và nghị quyết của HĐND hoặc giữa những văn bản pháp luật đó có
sự mâu thuẫn, chồng chéo… đề nghị huỷ bỏ, sửa đổi.
Có thể nói hoạt động giám sát của HĐND có vai trò to lớn trong việc
tạo ra sự thống nhất cao trong xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và áp
dụng pháp luật ở địa phƣơng. Đây chính là những bảo đảm cho Hiến pháp,
pháp luật và nghị quyết của HĐND đƣợc tuân thủ thống nhất và nghiêm chỉnh
trên phạm vi địa phƣơng, pháp chế xã hội chủ nghĩa đƣợc tăng cƣờng.
Hoạt động giám sát của HĐND có vai trò quan trọng trong việc tăng
cƣờng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND nói riêng và của bộ máy nhà
nƣớc ở địa phƣơng nói chung
Muốn thực hiện đúng và có hiệu quả chức năng quyết định (quyết định
các chủ trƣơng, biện pháp nhằm xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ở địa
phƣơng, các biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn
bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên và nghị quyết của HĐND đã ban hành),
HĐND phải có đƣợc đầy đủ những thông tin về tình hình kinh tế, xã hội của
địa phƣơng, về thực tế thực hiện Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng, về
việc thực hiện các nghị quyết của HĐND trƣớc đó đã ban hành, những vấn đề
12
gì mới phát sinh cần phải giải quyết… Thiếu những thông tin này, HĐND
không thể quyết định đƣợc những chủ trƣơng, biện pháp phù hợp và đáp ứng
nhu cầu mà cuộc sống đòi hỏi. Để có đƣợc những thông tin nhƣ thế rất cần
hoạt động giám sát của HĐND. Vì vậy, hoạt động giám sát của HĐND đƣợc
xem nhƣ một khâu không thể thiếu của quá trình ban hành các quyết định
(nghị quyết) của HĐND.
Thông qua hoạt động giám sát, giúp HĐND phát hiện kịp thời những
yếu kém, khiếm khuyết trong hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát, từ
đó kiến nghị những biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả, để các đối
tƣợng chịu sự giám sát làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Góp phần
làm trong sạch bộ máy nhà nƣớc ở địa phƣơng, làm cho chính quyền địa
phƣơng trở nên vững mạnh.
Qua giám sát phát hiện kịp thời những điểm chƣa phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội của các quy định pháp luật và kiến nghị những biện pháp
khắc phục một cách có hiệu quả
Mặc dù khi xây dựng văn bản pháp luật các nhà hoạch định chính sách
và các chuyên gia làm công tác xây dựng pháp luật đã tuân theo quy trình
nghiêm ngặt và khoa học, nhƣng khi áp dụng vào thực tiễn những dự định đó
mới đƣợc kiểm nghiệm và bộc lộ những điểm chƣa phù hợp hoặc chƣa đáp
ứng đúng nhu cầu của đời sống xã hội. Những quy định đó cần sớm đƣợc phát
hiện và sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Những kết quả của hoạt động giám sát, đặc biệt là kết quả trong giám
sát việc thi hành văn bản pháp luật là nguồn thông tin quan trọng, cung cấp cơ
sở thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công
tác xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo ở tất cả các khâu: từ xác định
nhu cầu lập pháp tức là xác định sự cần thiết phải ban hành một văn bản pháp
luật, đến việc xác định mục đích cần đạt đƣợc của dự án và tính khả thi của
dự án luật đó.
13
Hiến pháp và Luật quy định không chỉ HĐND mới có chức năng giám
sát mà các cơ quan khác cũng có chức năng này nhƣ: Quốc hội, Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) Việt Nam, Ban Thanh tra nhân dân Trong đó, giám sát của cơ
quan dân cử nói chung, hoạt động giám sát của HĐND nói riêng mang tính
đặc thù so với các hoạt động giám sát của các cơ quan khác.
- Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân
Luật Thanh tra năm 2010 quy định về tổ chức và hoạt động của Ban
Thanh tra nhân dân. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân khác với
họat động giám sát của HĐND, Thƣờng trực HĐND, các Ban HĐND, đại
biểu HĐND. Ban Thanh tra nhân dân đƣợc thành lập ở xã, phƣờng, thị trấn,
cơ quan nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nƣớc để giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân do Ủy
ban MTTQ Việt Nam xã, phƣờng, thị trấn hoặc Ban chấp hành Công đoàn cơ
sở ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp hƣớng dẫn tổ chức, chỉ đạo hoạt động. So
với HĐND thì phạm vi giám sát của Ban Thanh tra nhân dân hẹp hơn rất
nhiều. Theo quy định của Luật Thanh tra thì Ban Thanh tra nhân dân còn làm
nhiệm vụ xác minh những vụ việc nhất định theo yêu cầu của Chủ tịch UBND
xã, phƣờng, thị trấn, ngƣời đứng đầu cơ quan nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp này Ban Thanh tra nhân dân đƣợc
sử dụng nhƣ một công cụ để xem xét những hoạt động có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Đây là hoạt động hoàn toàn thụ động, không mang tính chủ động,
không nằm trong chƣơng trình, kế hoạch giám sát nhƣ hoạt động của HĐND.
- Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận
Điều 9 Hiến pháp 2013 quy định:
MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
14
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện dân chủ, tăng cƣờng đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã
hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại nhân
dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [33].
MTTQ Việt Nam cũng có quyền thực hiện chức năng giám sát, nhƣng
hoạt động giám sát này không mang tính quyền lực nhà nƣớc mà “mang tính
nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nƣớc,
nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân” (Điều 12, Luật MTTQ Việt Nam).
Đặc điểm nổi bật của hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam là:
không áp dụng các hình thức, phƣơng pháp mang tính quyền lực nhà nƣớc mà
mang tính nhân dân dƣới các hình thức theo dõi, phát hiện, nhận xét, phản
biện và kiến nghị, động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát, tham gia
giám sát cùng với cơ quan quyền lực nhà nƣớc.
Giám sát của HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, mang
tính quyền lực nhà nƣớc. Xét về bản chất việc thực hiện quyền giám sát thì
HĐND là cơ quan thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nƣớc do chính
nhân dân giao cho. Còn giám sát của Đảng, của MTTQ không mang tính
quyền lực nhà nƣớc mà đó là giám sát của tổ chức chính trị và tổ chức
chính trị xã hội.
- Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND:
Giám sát của Quốc hội và HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan
dân cử, mang tính quyền lực nhà nƣớc, đây là một khâu, một yếu tố cấu thành
quyền lực nhà nƣớc, không tách rời quyền lực nhà nƣớc. Xét về bản chất, việc
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội và HĐND là các cơ quan này thay mặt
15
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nƣớc do chính nhân dân giao cho. Bởi nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nƣớc thông qua Quốc hội và HĐND là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân.
Chức năng giám sát của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc (Điều 1, Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội).
Chức năng giám sát của HĐND không mang tính tối cao, nó bó hẹp
trong phạm vi địa phƣơng cấp của HĐND và cơ quan, tổ chức, cá nhân trên
địa bàn đó.
Giám sát đang trở thành chức năng quan trọng của HĐND. HĐND nói
chung, HĐND cấp huyện nói riêng muốn tăng cƣờng quyền lực thực sự của
mình phải tăng cƣờng và thực hiện có hiệu quả chức năng này.
1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện
1.2.1. Đặc điểm về chủ thể giám sát
Theo Điều 57 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thƣờng trực
HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Nhƣ vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
- HĐND.
- Thƣờng trực HĐND.
- Các Ban của HĐND.
- Đại biểu HĐND.
1.2.1.1. Hội đồng nhân dân
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "HĐND thực
hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp; giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
y tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương" [31].
16
Theo quy định Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 thì HĐND
gíám sát thông qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của Thƣờng trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND và
các thành viên khác của UBND, Thủ trƣởng cơ quan chuyên môn thuộc
UBND, Viện trƣởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của UBND cùng cấp,
Nghị quyết của HĐND cấp dƣới trực tiếp khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp,
Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội, văn bản QPPL của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên và Nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
- Thành lập đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với ngƣời giữ chức vụ do HĐND bầu.
Theo Điều 51 Quy chế hoạt động của HĐND, HĐND quyết định
chƣơng trình giám sát theo trình tự sau: Chậm nhất là 20 ngày trƣớc ngày khai
mạc kỳ họp cuối năm của HĐND, Thƣờng trực HĐND tập hợp đề nghị của
các Ban của HĐND, đại biểu HĐND, Ban Thƣờng trực Ủy ban MTTQ Việt
Nam cùng cấp và kiến nghị của cử tri địa phƣơng về nội dung giám sát của
HĐND. Thƣờng trực HĐND lập dự kiến nội dung, chƣơng trình giám sát của
HĐND năm sau trình HĐND xem xét, quyết định tại kỳ họp cuối năm.
HĐND thảo luận, biểu quyết thông qua chƣơng trình giám sát của HĐND.
1.2.1.2. Thường trực HĐND
Theo Điều 66 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, Thƣờng trực
HĐND có quyền giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp, giám sát các cơ quan
Nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
17
dân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nƣớc
cấp trên và các Nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Căn cứ vào chƣơng trình giám sát của HĐND, theo đề nghị của các
Ban của HĐND, Đại biểu HĐND, Uỷ ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và ý
kiến, kiến nghị của cử tri địa phƣơng. Thƣờng trực HĐND quyết định chƣơng
trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình phù hợp với nhiệm vụ, quyền
hạn và điều kiện kinh tế, xã hội ở địa phƣơng. Trên cơ sở chƣơng trình giám
sát đã đƣợc thông qua, Thƣờng trực HĐND phân công các thành viên của
mình thực hiện các nội dung trong chƣơng trình giám sát, có thể giao cho các
Ban của HĐND thực hiện một số nội dung theo chƣơng trình và báo cáo kết
quả với Thƣờng trực khi cần thiết.
Thƣờng trực HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Tổ chức Đoàn giám sát;
- Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
- Xem xét kết quả giám sát của các Ban của HĐND; tổng hợp kết quả
giám sát trình HĐND;
- Xem xét việc trả lời chất vấn trong trƣờng hợp ngƣời bị chất vấn đƣợc
HĐND cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thƣờng trực HĐND;
- Xem xét văn bản QPPL của UBND cùng cấp, Nghị quyết của HĐND
cấp dƣới trực tiếp khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, văn bản
QPPL của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp để
trình HĐND.
Pháp luật quy định Thƣờng trực HĐND có thể thành lập Đoàn giám
sát trong trƣờng hợp cần thiết trên cơ sở căn cứ vào chƣơng trình giám sát của
Thƣờng trực HĐND hoặc theo yêu cầu của HĐND, đề nghị của các Ban của
HĐND, Đại biểu HĐND.
18
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ở địa phƣơng,
Thƣờng trực HĐND có nhiệm vụ giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì Thƣờng
trực HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp cần thiết kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật,
xem xét trách nhiệm, xử lý vi phạm.
Đối với kiến nghị, chất vấn của Đại biểu HĐND, Thƣờng trực HĐND
có trách nhiệm tiếp nhận để chuyển đến ngƣời bị chất vấn; thông báo cho
ngƣời bị chất vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn.
Để tăng cƣờng mối quan hệ giữa Thƣờng trực HĐND và UBND cùng
cấp trong việc thực hiện quyền giám sát, Thƣờng trực HĐND có thẩm quyền
trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên UBND theo đề nghị của
Uỷ ban MTTQ và khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND yêu cầu.
Mối quan hệ giữa Thƣờng trực HĐND, các Ban HĐND và đại biểu
HĐND trong việc thực hiện quyền giám sát đƣợc thể hiện ở nhiệm vụ của
Thƣờng trực HĐND trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của các
cơ quan đó; tổng hợp kết quả giám sát trình HĐND xem xét, xử lý theo thẩm
quyền. Thƣờng trực HĐND có trách nhiệm báo cáo HĐND về hoạt động
giám sát của mình giữa hai kỳ họp.
1.2.1.3. Các Ban của HĐND
Theo quy định Luật tổ chức HĐND và UBND thì HĐND cấp huyện
thành lập Ban Kinh tế- Xã hội và Ban Pháp chế để giúp HĐND trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Trong lĩnh vực giám sát, theo quy
định Điều 74 Luật tổ chức HĐND và UBND thì các Ban của HĐND có
nhiệm vụ giúp HĐND giám sát đối với các đối tƣợng sau:
- Giám sát hoạt động của UBND, cơ quan chuyên môn thuộc UBND,
TAND và VKSND cùng cấp.
19
- Giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp,
Luật, văn bản của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên và Nghị quyết của HĐND.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các Ban HĐND cấp huyện đƣợc quy
định tại Điều 34, Điều 35 Quy chế hoạt động của HĐND.
Hoạt động giám sát của các Ban HĐND đƣợc thể hiện thông qua các
hoạt động:
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc Thƣờng trực HĐND
phân công.
- Xem xét văn bản QPPL của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Nghị quyết
của HĐND cấp dƣới thực hiện trong trƣờng hợp có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, Luật và các văn bản QPPL của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên và Nghị
quyết của HĐND cùng cấp.
- Trong trƣờng hợp cần thiết, yêu cầu UBND, các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND, TAND, VKSND cùng cấp báo cáo về những vấn đề thuộc lĩnh
lực Ban phụ trách.
- Tổ chức đoàn giám sát.
- Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban.
- Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân.
1.2.1.4. Đại biểu hội đồng nhân dân
Đại biểu HĐND là ngƣời đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
địa phƣơng. Hoạt động giám sát của đại biểu HĐND đƣợc quy định trong
Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND, đƣợc thực hiện dƣới nhiều hình
thức khác nhau, trong đó chất vấn và đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm là những
hình thức giám sát quan trọng nhất.