Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Tổng hợp tất cả các câu hỏi tự luận trong Triết học Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.63 KB, 78 trang )

Câu 1. Vấn đề cơ bản của triết học
+ Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học: Theo Ph.Angghen viết: “Vấn đề cơ
bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa tư duy với tồn tại”2.
Vấn đề cơ bản của triết học, chỉ có một vấn đề là: mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Vấn đề này, gồm hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Một là, Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nịa quyết định cái nào?
Hai là, Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Thứ nhất, giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý
thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên.
* Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Đại diện của chủ nghĩa duy tâm khách
quan Platon, Hêghen, tư tưởng của một số tôn giáo, đặc biệt thiên chúa giáo.
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan về thế giới: thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước, tồn tại độc
lập với con người và sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với tồn
bộ thế giới.
Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác
nhau như ý niệm} tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, thượng đế V.V..
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: ý thức là cái có trước, vật chất là cái có
sau, ý thức quyết định vật chất. Ý thức là ý thức của con người, mọi sự vật hiện
tượng đều do cảm giác phức hợp của con người, hoặc sở dĩ các sự vật tồn tại là do
con người khái niệm về nó.. “tơi tư duy, nên tơi tồn tại” Đê các tơ khẳng định sức
mạnh của tư duy, nghĩa là tuyệt đối hóa vai trị của tư duy con người.
 Quan điểm của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật cho rằng: trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì
vật chất - giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người. Học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, giải thích
mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật chất - nguyên nhân tận
cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân vật chất.


- Những hình thức của Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật
đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác: Các nhà duy vật thời cổ đại nhận thức về
nguồn gốc của vật chất mang tính trực quan. Các nhà duy vật thời kỳ này thừa
nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất
cụ thể và đưa ra những kết luận, về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan,
chất phác.
1


+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của
chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
và điển hình là ở thế kỷ thứ XVII, XVIII.
Đây là thời kỳ cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai
đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ, mỗi bộ phận tạo nên thế giới
đó về cơ bản ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện
thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần khơng nhỏ vào
việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm, tôn giáo, đặc biệt ở thời kỳ chuyển tiếp từ đêm
trường Trung cổ sang thời Phục hưng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giải thích
nguồn gốc của thế giới từ vật chất, thế giới vật chất vô cùng, vô tận, không tự
sinh ra, khơng tự mất đi, ln có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau cùng
vận động và phát triển.
Thứ hai, Về mặt nhận thức luận
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: ý thức không phải là ý thức của
con người mà là ý thức của thượng đế, thượng đế quy định nhận thức của con
người. Nhận thức của con người là sự mặc khải của thượng đế, hoặc bản tính của
con người do trời sinh ra (cha, mẹ sinh con, trời sinh tính)
Sai lầm của CNDTKQ cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem

xét phiến điện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của
q trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của
ỷ thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan.
Nhận thức: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng
chỉ là phức hợp của những cảm giác con người.
Sai lầm: tuyệt đối hóa vai trị của ý thức, khơng thấy được tính quyết định
của hiện thực khách quan.
Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt
đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) trả lời một cách khẳng định:
thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, những người này itheo
thuyết “khả tri” còn những người không thừa nhận khả năng nhận thức của con
người là những người theo thuyết “bất khả tri”.
+ Thuyết khả tri
Những người theo thuyết “khả tri” khẳng định con người về nguyên tắc có
thể hiểu được bản chất của sự vật, hay nói cách khác con người có khả năng nhận
thức được thế giới, mặc dù thế giới vật chất vô cùng, vơ tận, cho du vật chất có
biến đổi đến mức độ nào đi nữa thì con người vẫn có thể nhận được, nhận thức
2


được chỉ có cái con người chưa nhận thức được chứ không phải không nhận thức
được. Tri thức của con người ngày càng phát triển, con người sẽ từng bước khám
phá và nhận thức về thế giới ngày càng sâu sắc hơn.
- Thuyết không thể biết (Agnosticism), nghĩa là con người không nhận thức
được thế giới.
Theo thuyết này, con người, về nguyên tắc, không thể hiểu được bản chất của
đối tượng. Kết quả nhận thức mà lồi người có được, theo thuyết này, chỉ là hình
thức bề ngồi, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng, hoặc nhận thức của con người chỉ
đuổi theo sự vật, hiện tượng chứ không thể nhận đúng về bản thân chúng.

* Đại biểu điển hình cho những nhà triết học bất khả tri cũng chính là trào
lưu hồi nghi luận từ triết học Hy Lạp cổ đại và Hium và Cantơ.
Thuyết hoài nghi: nghi ngờ về khả năng nhận thức chân lý của con người.
Câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay khơng và liệu người ta có thể
có tri thức thực sự hay khơng "Trong khi tìm kiếm con đường thẳng đi đến chân
lý, chúng ta không cần phải quan tâm tới những gì mà chúng ta khơng thể thấu đáo
một cách chắc chắn như việc chứng minh bằng đại số và hình học". Theo quan
điểm của đề các tơ "khơng điều gì được xem là đúng cho đến khi nền tảng để tin
rằng nó đúng được thiết lập". Sự chắc chắn duy nhất làm điểm xuất phát cho các
nghiên cứu của ông được ông bày tỏ bằng câu nói nổi tiếng ""Tơi tư duy, vậy tơi
tồn tại".
Câu 2 Siêu hình và biện chứng
- K/n: Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức của con người,
nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi mối quan hệ
của chúng, quan sát đối tượng trong trạng thái tĩnh tại.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đổi tượng ra khỏi các
quan hệ được xem xét và coi các mặt đối lập với nhau có một ranh giới tuyệt đối.
Ví dụ: cái cây ở trong rừng và con người ở thành phố khơng có mối liên hệ
với nhau, hoặc là giữa năm 2019, 2020, 2021 khơng có mối liên hệ với nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh; đồng nhất đối tượng với trạng thái
tĩnh nhất thời đó. Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về so lượng, ve các
hiện tượng bề ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi coi là nằm ở bên ngồi đối
tượng.
Ví dụ, cái cột điện ở ngồi đường nó đứng im, khơng có sự vận động, biến đổi.
Phương pháp biện chứng
- Phương pháp biện chứng là cách thức nhận thức của con người về các sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, vận động và phát
triển theo quy luật của nó.
+ Một là, nhận thức các hiện tượng, sự vật trong trạng thái mối liên hệ phổ
biến vốn có của nó. Khơng có một sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập,

3


tách rời mà chúng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng nhau, ràng buộc, lương tựa
nhau, quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề của nhau.
+ Hai là, nhận thức đối tượng ở trạng thái luôn vận động biến đổi không
ngừng, nằm trong khuynh hướng phổ quát là phát triển. Quá trình vận động này
thay đổi cả về lượng và cả về chất của các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự
vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập của mâu thuẫn nội tại
của bản thân sự vật.
 Các hình thức cơ bản của phép biện chứng.
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại:
Phép biện chứng tự phát là phép biện chứng chưa thành hệ thống, chưa chỉ
ra nguồn gốc vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, chưa lý giải mối liên
hệ, sự vận động và phát triển của vật hiện tượng dưới dạng các nguyên lý, các quy
luật, các cặp phạm trù.
Thời kỳ này các nhà triết học lý giải về mối liên hệ, sự vận động, phát triển
theo cách nhìn trực quan của mình, họ chưa giải thích được nguồn gốc của vận
động và phát triển.
Tóm lại, các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời cổ đại đã
thấy được các sự vật, hiện tượng của vũ trụ vận động trong sự sinh thành, biên
hóa vơ cùng vơ tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng thời đó thấy được chỉ
là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh
chứng.
+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức: Phép biện chứng duy tâm được
khởi đầu từ Cantơ hoàn thiện ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
Hêghen đã hệ thống phép biện chứng dưới dạng các nguyên lý, các cặp phạm trù.
Tuy nhiên thế giới quan của Hêghen là thế giới quan duy tâm.
Quan điểm của Hêghen về “ý niệm tuyệt đối” là khởi đầu của tồn tại tự
“tha hoá” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần

“Tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, cịn thế giới hiện thực là một bản sao
chép của ý niệm”1.
+ Phép biện chứng duy vật.
K/n: Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen xây dựng, sau được V.I. Lênin và các nhà triết học hậu thế phát triển.
C.Mác Ph. Ăngghen đã gạt bỏ tính thần bí, tư biện của triết học cổ điển Đức, kế
thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện
chúng duy vật với tính cách là học thuyết vê mối liên hệ phổ biến và về sự phát
triển dưới hình thức hồn bị nhất. Cơng lao của Mác và Ph.Ăngghcn còn ở chỗ tạo
được sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng trong lịch sử phát
4


triển triết học nhân loại, làm cho phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy
vật và chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng
Câu 3: Quan điểm của triết học Mác Lênin về vật chất
Quan điểm của Mác – Ăngghen về vật chất
- Mác và Ph. Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết
bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật - siêu hình, máy móc đã đưa ra những tư
tưởng hết sức quan trọng về vật chất. Theo Ph.Ảngghen, để cổ một quan niệm
đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa vật chât với tính cách
là một phạm trù của triết học,
- Ph. Ăngghen chỉ rõ, các sự vật, hiện tượng của thế giới dù rất phong phú,
mn vẻ nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất tính tồn tạỉ, độc lập khơng lệ thuộc vào ý thức
- Định nghĩa vật chất của Lênin
Kế thừa tư tưởng thiên tai của Mác và Ăngghen, tổng kết thành quả của
khoa học tự nhiên, xuất phát từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm bảo vệ chủ nghĩa duy vật. Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất.

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, mang lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”4.
- Những nội dung cơ bản của định nghĩa.
Thứ nhất, Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học là kết quả khái
quát hóa, trừu tượng hóa của tư duy con người nhằm phản ánh về những thuộc
tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật hiện tượng. Tư duy con con người đã
hình thành lên phạm trù triết học với tư cách là khái niệm có ngoại diên rộng nhất
để chỉ cái cái nằm ngoài tư duy, không phụ thuộc vào tư duy là “vật chất” - cái vô
hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
+ Thứ hai: vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
* Đặc trưng quan trong nhất của vật chất là thuộc tính khách quan là cái tồn
tại ngồi ý thức, khơng phụ thuộc vào ý thức, (con người có muốn hay khơng
muốn; con người có nhận thức được hay khơng nhận thức được thì vật chất vẫn
tồn tại). Trong thế giới vật chất vô cùng vô tận, từ thế giới vĩ mô, đến thế giới vi
mơ, dù tồn tại ở dạng hạt hay sóng, ở dạng nào đi nữa, và có khác nhau đến đâu
thì giữa chúng vẫn có một điểm giống nhau là tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào cảm giác con người.
+ Thứ ba: vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì
đem lại cho con người cảm giác
Lênin khảng định vật chất là cái tác động, ý thức (cảm giác) là cái nhận sự
tác động – lưu gữ thông tin của cái tác động dưới dạng cảm giác, tinh thần (cái
5


tác động là cái có trước, cái nhận sự tác động là cái có sau). Vật chất ln biểu
hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình thơng qua sự tồn tại không lệ thuộc
vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là lụôn biểu hiện sự tồn tại hiện
thực của mình dưới dạng các thực thể.

+ Thứ tư, vật chất là cái tác động vào cảm giác, gây nên cảm giác ở con
người, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh ánh nó.
Vật chất là cải mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. ý thức phản
ánh vật chất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Con người nhận thức về vật chất từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhận thức cảm tính, đến nhận thức lý
tính. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy
luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần.
- Ý nghĩa của định nghĩa
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết được cả hai mặt cùa vấn đề
cơ bản của triết học. Mặt thứ nhất, đã được V.I. Lênin khẳng định rõ, vật chất thực tại khách quan là có trước; cảm giác, ý thức của con người là có sau (chép
lại, chụp lại - nghĩa là có sau vật chất). Mặt thứ hai, được V.I. Lênin khẳng định
cảm giác của con người chép lại được, chụp lại được, phản ánh lại được thực tại
khách quan. Nghĩa làj ý thức có thể phản ánh, nhận thức được vật chất. Trên cơ sở
đó, củng cố, khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại được cả quan niệm của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, cả quan niệm của chủ nghĩa duy tâm khách quan về vật
chất, về vấn đề cơ bản của triết học, góp phần trực tiếp củng cố thế giới quan duy
vật biện chửng.
+ Định nghĩa vật chất cùa Lênin đã khắc phục được những quan niệm trực
quan, siêu hình, máy móc về vật chất của các nhà duy vật cũ. Đồng thời đã thể
hiện được sự kế thừa, phát triển sâu sắc những tư tưởng của C. Mác, nhất là của
Ph. Ăngghen về vật chất.
+ Định nghĩa vật chất của Lênin đã trở thành cơ sở khoa học cho các nhà
khoa học tự nhiên nghiên cứu thế giới tự nhiên, cung cấp cho họ một thế giới quan
duy vật để họ tiếp cận, nghiên cứu
+ Định nghĩa vât chất của Lênin đã trở thành cơ sở khoa hoc cho việc xây
dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong lĩnh vực lịch sử, xã hội. Bởi lẽ, định
nghĩa này đã bao quát toàn bộ hiện thực cả trong tự nhiên, cả trong xã hội, nhất

là trong lĩnh vực xã hội, giúp hiểu đúng vật chất xã hội là dạng vật chất không tồn
tại dưới dạng vật thể. Làm cho thế giới quan duy vật biện chứng có cơ sở khoa
học trở thành duy vật triệt để khoa học.
Câu 4 Các hình thức tồn tại của vật chất
6


- K/n vận động
Ph. Ăngghen viết "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (...) bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy".
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc
tính cố hữu của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất".
Nguồn gốc sinh ra vận động là sự thống nhất và đấu tranh của của các mặt
đối lập. Tự bản thân vận chất đã tồn tại những mặt đối lập, những mặt đối lạp này
vừa đấu tranh vừa thống nhất với nhau tạo ra vận động.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: điều này có nghĩa là vật
chất tồn tại bằng vận động. Cách thức tồn tại của vật chất là vận động, thông qua
vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình (Trong thực tiễn
khơng có một sự vật hiện tượng nào tồn tại mà không phải là vật chất, không có
một dạng vật chất nào tồn tại lại khơng vận động).
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động gắn liền với vật chất, không tách rời khỏi vật chất và ngược lại.
Vận động là tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lân nhau
của chính những thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Nguồn gốc của vận động
là sự đấu tranh, thống nhất của các mặt đối lập.
+ Vật chất tồn tại vĩnh viễn khơng ai có thể sáng tạo ra, không thể tiêu diệt
vận động cũng thế. Qúa trình vận động làm cho vật chất chuyển hoá từ dạng này
sang dạng khác.
+ Vận động được bảo tồn về cả chất và lượng, các hình thức của vận động

có sự chuyển hố lẫn nhau.
Vận động bên trong là vận động giữa các thuộc tính của một kết cấu vật
chất nhất định.
Vận động bên ngoài là sự vận động do sự tác động giữa kết cấu vật chất này
với kết cấu vật chất khác.
- Những hình thức cơ bản vận động của vật chất
+ Thứ nhất: Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong
khơng gian. Ví dụ: ta thả mội hịn đá rơi tự do suống đất.
+ Thứ hai: Vận động vật lý là vận động của các nguyên tử, của các hạt cơ
bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện.Ví dụ: các điện tử quay quanh hạt
nhân trong một nguyên tử.
+ Thứ ba: Vận động hoá học là vận động của các ngun tử, các q trình hố
hợp và phân giải chất. Ví dụ: 2AL + 6HCL = 2ALCL3 + 2H3
Thứ tư: Vận động sinh học là vận động của quá trình trao đổi chất giữa cơ thể
sống với mơi trường. Ví dụ cây hút nước và ơxy để sống

7


Thứ năm: Vận động xã hội là sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của
hình thái kinh tế - xã hội. Ví dụ: đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản.
Vận động xã hội bao gồm tất của các hình thức vận động khác .
Vận động cơ học là cái cơ bản nhất .
- Vận động và đứng im.
Sự vận động không ngừng của vật chất khơng những khơng loại trừ mà
trái lại cịn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.
+ Đứng im là một trạng thái của vận động trong thế cân bằng. Sự vật hiện
tượng mà chúng ta tưởng như đứng im thì thực chất chúng lại đang vận động, vận
động cả bên trong và bên ngoài.
+ Đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, chứ khơng

phải mọi quan hệ cùng một lúc.
+ Khi nhìn sự vật, hiện tượng đứng im là đặt sự vật, hiện tượng ấy trong hệ
quy chiếu. Khơng có đứng im tuyệt đối mà chỉ có vận động là tuyệt đối.
Ph.Ăngghen chỉ rõ "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân
bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt" và "mọi sự cân bằng chỉ
là tương đối và tạm thời'' .
Câu 5: Không gian và thời gian
Khái niệm không gian: “Bất kỳ một khách thể chất nào cũng chiếm một vị
trí nhất định, có một kích thước nhất định, ở một khung cảnh nhất định trong mối
tương quan với khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể gọi là
không gian”1
+ Không gian tồn tại khách quan: vật chất tồn tại khách quan, không gian
gắn niền với với vật chất, không gian cũng tồn tại khách quan
+Khơng gian có 3 chiều thuận nghịch : rộng, dài, cao
+Thời gian chỉ có 1 chiều khơng thuận nghịch : đó là từ quá khứ đến tương
lai .
+Không gian hữu hạn và không gian vô hạn. Không gian gắn gắn liền với
sự vật cụ thể là không gian hữu hạn, sự vật cụ thể có giới hạn, giới hạn cả về kích
thước, vị trí và giới hạn tồn tại của nó (sự vật cụ thể nào cũng có sinh và có
chuyển hóa). Khơng gian vật chất - vũ trụ là không gian vô hạn. Vật chất vô hạn
không gian cũng vô hạn, vũ trụ vô tận, không gian cũng vô tận.
* Không gian của vật chất cụ thể mang tính đa dạng: Vật chất có vơ vàn
dạng thì khơng gian cũng vơ vàn rạng
+ Khái niệm thời gian: “sự tồn tại của các khách thể vật chất tồn tại nâu
dài hay mau chóng ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động, các
hình thức tồn tại như vậy gọi là thời gian”2

8



* Thời gian hữu hạn và thời gian vô hạn: thời gian gắn liền với sự vật hiện
tượng cụ thể là thời gian hữu hạn. (ví dụ thời gian của 1 đời người cụ thể)
* Thời gian vô hạn là thời gian gắn với vật chất - vũ trụ: Vũ trụ khơng có
điểm khởi đầu và khơng có điểm kết thúc thời gian cũng vậy. Vật chất vơ hạn, thì
thời gian cũng vô hạn...x
Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vơ tận, xét về cả phạm vi
lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới khơng ở đâu có
tận cùng về khơng gian, cũng như khơng ở đâu có ngưng đọng khơng biến đổi hoặc
khơng có sự tiếp nối của các q trình.
Khơng gian, thời gian mang tính khách quan. Vì, vật chất tồn tại khách quan
mà vật chất gắn niền với khơng gian, thời gian. Ph.Ăngghen viết: "Các hình thức
cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngồi thời gian thì cũng
hết sức vơ lý như tồn tại ngồi khơng gian".
* Khơng gian và thời gian đều là hình thức tồn tại của vật chất, khơng tách
khỏi vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Do vậy, khơng có vật khơng tồn
tại khơng có khơng gian, thời gian.
Câu 6: Tính thống nhất vật chất của thế giới.
1.5.1. Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận sự
tồn tại của nó làm tiền đề. Không thừa nhận sự tồn tại của thế giới thì khơng thể
nói tới việc nhận thức thế giới.
 Thế giới thống nhất ở tính vật chất
- Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, là thế giới vật chất
tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức của con
người phản ánh.
- Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất
với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, do vật
chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến
của thế giới vật chất.
- Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được

sinh ra và không tự mất đi; chúng ln vận động, biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau,
là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Thứ tư, tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện
thực của con người. Con người không thể sáng tạo ra vật chất, con người chỉ có thể
tìm ra những thuộc tính, những quy luật vận động của vật chất và tổ chức chúng
lại, để tạo ra những sự vật, hiện tượng mà trong giới tự nhiên chưa có để phục vụ
mục đích của con người.
Câu 7: Nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức
 Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
9


+ Ý thức có nguồn gốc từ bộ não người
Bộ não người phải là bộ não sống, bộ não đang hoạt động bình thường, bộ
não khơng bị tổn thương ở bất kỳ chức năng thần kinh nào. Bộ não con người
cùng với hệ thần kinh trung ương là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là một
dạng thuộc tính của vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não con người, là chức năng
của bộ não, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não (bộ não phải là bộ
não sống, bộ não đang hoạt động bình thường). Theo kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học thì bộ não con người có khoảng 14 -15 tỷ nơ ron thần kinh, các nơ
ron thần kinh có sự kích thích, cảm ứng. Bộ não của con người phải có q trình
hoạt động, tác động vào thế giới khách quan thì mới hình thành lên sự phản ánh
của ý thức.
Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng
lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
+ Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não của con người thông qua
hoạt động của các giác quan, hình thành nên quá trình phản ánh.
Bộ não con người cùng với thế giới khách quan tác động vào bộ não con
người, bộ não con người thu nhận thông tin và phản ánh những thông tin từ thế
giới khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Ý thức của con người là cái phản ánh, thế giới khách quan là cái được phản
ánh. Sự tác động qua lại giữa cái phản ánh và cái được phản ánh, cái phản ánh
mang tính chủ quan - là ý thức, cái được phản ánh là sự vật, hiện tượng mang tính
khách quan, cái phản ánh tác động lên cái được phản ánh (là vật chất), cái được
phản ánh tác động trở lại đối với cái phản ánh (là ý thức), cái phản ánh lưu giữ
thông tin của cái được phản ánh (là vật chất), cái phản ánh xử lý thông tin đó theo
quan điểm chủ quan của mình. Nghĩa là ý thức là “cái nhận thức”, thế giới khách
quan là “cái được nhận thức”. “Cái nhận thức” không phản ánh “cái được nhận
thức” một cách thụ động mà “cái nhận thức” lưu giữ thông tin và xử lý thông tin
của “cái được nhận thức” theo quan điểm chủ quan của mình.
Ý thức là quá trình phản ánh, là quá trình phản ánh cao nhất, nó bao hàm
trong nó tất cả các hình thức phản ánh.
+ Các hình thức của phản ánh.
* Phản ánh vật lý là phản ánh giữa các vật thể với nhau, phản ánh giữa các
hạt, trường, sóng điện từ
* Phản ánh hoá học là phản ảnh phản ứng hóa học giữa các chất.
* Phản ánh sinh học là phản có sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với mơi
trường là phản ánh giữa đồng hóa và dị hóa.
* Phản ánh tâm lý: là phản ánh của động vật có hệ tần kinh trung ương.
10


* Phản ánh năng động sáng tạo: là phản ánh của xã hội lồi người. Đây là
hình thức cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện dưới dạng
vật chất phát triển cao là bộ óc người. Ví dụ: con người sáng tạo ra cơng cụ lao
động…
Việc phân chia các hình thức của phản ánh, khác nhau về chất, hay nói cách
khác khác nhau về trình độ mà trình độ cao nhất của các hình thức phản ánh là

phản ánh năng động sáng tạo.
Sự ra đời của ý thức khơng phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn
gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiên của loài người
mới là nguôn gôc trực tỉêp quyết định sư ra đời của ý thức. c. Mác và Ph.
Ăngghen khăng định: “Con người cũng có cả “ý thức” nữa. Song, đó không phải
là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần tuý”... Do đó, ngay từ đầu, ý
thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn
tại”. Sự hình thành, phát triển của ý thức là một quá trình thống nhất khơng tách
rời giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong các cơng trình nghiên
cứu khoa học của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ rang, ý thức
khơng những có nguồn gốc tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội và là một hiện
tượng mang bản chất xã hội.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức
+ Lao động
K/n: Lao động là q trình con người sử dụng cơng cụ lao động tác động
và giới tự nhiên, nhằm cải biện giới tự nhiên phục vụ mục đích của con người.
Ăng ghen viết: “Với quá trình phát triển của bàn tay- và với quá trình lao
động, con người bắt đầu thống trị tự nhiên và cứ mỗi lần sự thống trị đó tiến lên
một bước, là mỗi lần nó mở rộng thêm tầm mắt của con người”
Nhờ kết quả lao động cơ thể của con người, đặc biệt là bộ óc và các giác
quan ngày càng hoàn thiện dần cả về cấu tạo và chức năng.
Nhờ có lao động mà con người đã dần chuyển hóa từ vượn thành người;
nhờ có lao động con người đã thoát khỏi cuộc sống bầy đàn, đi tới khẳng định
mình và từng bước trinh phục giới tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ mục đích
của mình; nhờ có lao động mà tri thức của con người ngày càng hoàn thiện, con
người ngày càng phát hiện ra các thuộc tính mới của vật chất và các quy luật của
tự nhiên, đồng thời con người chế tạo ra các công cụ mới giúp con người nối dài
bàn tay của mình để trinh phục và từng bước tiến tới làm chủ tự nhiên; nhờ có lao
động đã làm cho thân thể con người đẹp hơn và bộ não của con người ngày càng

có khả năng sáng tạo hơn, lao động chính là một trong những nguồn gốc xã hội để
hồn thiện ý thức của con người.
- Ngơn ngữ
6

11


Nhờ có lao động mà ngơn ngữ được hình thành. Khi đề cập đến vấn đề này,
Ph. Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ
rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách
giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngơn ngữ”.
Trong hoạt động lao động và sản xuất, để săn bắn, hái lượm đạt kết quả tốt
nhất, con người cần phải quan hệ với nhau, phối hợp với nhau, trao đổi thông tin
cho nhau, nhu cầu ấy ngay càng phát triển, “Phát triển đến mức là họ thấy cần
thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”9. Như vậy, nhu cầu đó dẫn đến xuất hiện
ngơn ngữ.
Khái niệm Ngơn ngữ: Là toàn bộ những ký hiệu, ký tự, chữ viết tiếng nói,
nhằm trao đổi thơng tin giữa con người với con người trong q trình sống.
Tóm lại, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần và đủ
cho sự ra đời của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì con người
khơng thể có ý thức. Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức
cho thấy, ý thức xuất hiện la két quả của q trình tiến hố lâu dài của giới tự
nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết qụả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch
sử của con người.
Nguồn gốc xã hội quyết định ý thức
Câu 8 Bản chất của ý thức
- Thứ nhất: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Ý thức không phải là bản sao đơn giản, thụ động, máy móc của sự vật mà ý
thức là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não

người qua hoạt động thực tiễn.
+ Với tư cách là hình ảnh chủ quan: ý thức là cái phản ánh, cái phản ánh
mang tính chủ quan. Ý thức là của con người, thuộc về con người, do con người
suy nghĩ. Con người nhận thức về thế giới, phản ánh thế giới theo cách của riêng
mình. Cách nhận thức, cách hiểu của mỗi con người cụ thể về thế giới khơng giống
nhau. Vì vậy, ý thức thuộc về chủ thể nhận thức, do chủ thể nhận thức quy định. Ý
thức của con người chỉ đạo nhận thức của con người đó về thế giới có thể đúng,
hoặc sai, đây là quan điểm chủ quan của mỗi người. Cái chủ quan và cái khách
quan là hai mặt đối lập cần phải phân biệt rõ.
+ Với tư cách ý thức là của thế giới khách quan được hiểu, nguồn gốc của ý
thức và đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan. Do vậy, cái
chủ quan và cái khách quan đều tồn tại trong một cấu trúc, cái chủ quan bị thế giới
khách quan quy định. Nói rõ hơn, bộ não của con người và đối tượng nhận thức
của con người quy định sự suy nghĩ của con người. Bộ não con người mà bộ não
của con người thuộc về thế giới khách quan vừa là nguồn gốc tự nhiên của ý thức,
vừa là đối tượng phản ánh của ý thức. Đối tượng phản ánh của ý thức là thế giới
khách quan. Ý thức phụ thuộc vào thế giới khách quan, thế giới khách quan quy
12


định sự nhận thức của ý thức, thế giới khách quan như thế nào thì nhận thức của
người như vậy, thế giới khách quan thay đổi thì ý thức con người cũng thay đổi
theo.
Ý thức là cái phản ánh, ý thức mang tính chủ quan, thế giới khách quan là
cái được phản ánh. Cái phản ánh (cái chủ quan) bị cái được phản ánh (cái khách
quan) quy định nên nó khơng có tính vật chất, khơng được lẫn lộn đồng nhất vật
chất với ý thức.
+ Thứ hai: Ý thức phản ánh thế giới khách quan một các năng động sáng
tạo
Để hiểu vấn đề này trước hết chúng ta cần phải thừa nhận cả vật chất và ý

thức mang tính đối lập, "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong
vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có
sau? Ngồi giới hạn đó, thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương
đối"1
Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh, vật chất là cái được phản ánh - tồn tại
khách quan bên ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý thức - cái chủ quan. Khác
với động vật, sự phản ánh của ý thức con người khi tiếp nhận thông tin, không tiếp
nhận một cách thụ động, mà mô hình hóa đối tượng trong tư duy của mình, tìm ra
những thuộc tính và những quy luật vốn có của cái được phản ánh tức vật chất, từ
đó, tổ chức lại lại các lực lượng vật chất, để phục vụ mục đích của chính mình. Khi
đề cập đến vấn đề này Mác cho rằng: “Con nhện làm động tác giống như động tác
của người thợ dệt,con ong còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng
điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi
xây dựng ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng nó trong đầu óc của
mình rồi”1. Ở đây chúng ta nhận thấy tính mục đích của sự phản ánh của ý thức
vượt trước hiện thực, hướng dân hoạt động của con người cải tạo thế giới xung
quanh.
Tính năng động, sáng tạo hiện thực theo nhu cầu thực tiễn của xã hội
được thống nhất trên 3 mặt:
+ Trao đổi thông tin hai chiều theo cách chọn lọc.
+ Mơ hình hóa các đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, tìm
ra các thuộc tính, các quy luật vốn có của đối tương nhận thức.
+ Chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
* Ý thức có khả năng tập hợp các quy luật, các thuộc tính của các dạng vật
chất, tổ chức chúng lại – thông qua hoạt động thực tiễn của con người để tạo ra
những thứ mà trong tự nhiên khơng có.
* Ý thức có khả năng tạo ra đời sông tinh thần làm phong phú thêm đời
sống tinh thần của con người.
13



Từ những phân tích trên cho thấy: sự phát triển của bộ não con người, làm
duy khoa học của ý thức con người sẽ tiếp tục phát triển và chính những tư duy
khoa học là “chiếc mai” đào mồ chôn những tư duy thần thoại, hoang đường.
Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: ý
thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử.
Nguồn gốc xã hội quyết định ý thức
Câu 9: Kết cấu của ý thức
- Các lớp cấu trúc của ý thức:
+ Tri thức: là kết quả của quá trình nhận thức, sự hiểu biết của con người
về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng nhưng thuộc tính, những quy luật
của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ, hoặc các hệ thống ký
hiệu khác. Theo Mác “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại mà theo đó một cái
gì tồn tại đối với ý thức là tri thức. Tri thức là hành vi duy nhất của ý thức. Cho
nên một cái gì đó nảy sinh ra đời với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó”1
+ Tình cảm là cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại
xung quanh và đối với bản thân mình.
Tình cảm có thể mang tính chất chủ động chứa đựng hai sắc thái gồm: cảm
xúc tích cực và cảm xúc tiêu cực. Tình cảm mang tính tích cực là một trong những
động lực nâng cao năng lực hoạt động sống của con người. Tri thức kết hợp với
tình cảm tạo nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành động thực tế
mới phát huy được sức mạnh của mình.
+ Ý chí: Để đạt đến trình độ cao của nhận thức, con đường đi lên chiếm lĩnh
đỉnh cao ấy không bằng phẳng mà nó vơ cùng khó khăn để đến được đỉnh cao ấy
địi hỏi con người phải có ý chí.
Ý chí là sự quyết tâm, cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng để
đạt tới mục đích của con người trong hoạt động thực tiễn.
Ý chí thể hiện là lịng tin, lịng quả cảm, sự quyết đốn, quyết tâm, dũng cảm

sự định hướng rõ ràng mục tiêu phấn đấu.
- Cấp độ của ý thức
+ Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người
đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý
thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về
bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngồi sự kiểm
sốt của chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang
diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức

14


mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ
năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
+ Vô thức:Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy
nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội
tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính tốn của lý trí.
+ Vấn đề “trí tuệ nhân tạo: Trí tuệ nhân tạo là bộ não do con người sản
xuất ra bằng hệ thống các vi mạch (chất bán dẫn – vật liệu thơng minh…), tích
hợp những phần mềm được con người lập trình dựa trên các hoạt động của bộ não
con người, có khả năng nhận thức, tự động xử lý những vấn đề gần giống với con
người, chịu sự điều khiển của con người.
Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội có ý thức, chủ thể sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội .
Khẳng định vai trò to lớn của ý thức trong đời sống hiện thực của con người về
thực chất là khẳng định vai trò của con người - chủ thể mang ý thức đó. Cần có
thái độ đúng đối với con người, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện
cả về thể chất và tinh thần.
Câu 10: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

 Vật chất quyết định ý thức
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ỷ thức, cịn ỷ thức tác động tích cực trở lại vật
chất.
- Thứ nhất: Vật chất quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức.
Có thế giới vật chất mới sản sinh ra vũ trụ, trái đất và con người, mới có ý
thức của con người.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì: ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của
con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá
trinh phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật
chất.
Ý thức có nguồn gốc từ bộ não con người, bộ não con người là một dạng
thuộc tính của vật chất, bộ não con người là tập hợp của các tế bào, nơ ron thần
kinh, các tế bào, nơ ron thần kinh đều là những thuộc tính của vật chất. sự kích
thích của các nơ ron thần kinh, kích hoạt một loại vật chất đặc biệt, sự hoạt
động này là là nguồn gốc của ý thức.
- Thứ hai: Vật chất là nội dung phản ánh của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế
giới vật chất, ý thức mới có cái để phản ánh. Thế giới khách quan là cái nằm ngồi
ý thức, khơng phụ thuộc vào ý thức, tác động vào ý thức, ý thức chỉ là sự chụp lại,
15


chép lại, phản ánh thế  giới khách quan vào bộ  não con người, nội dung thế  giới
khách quan như thế nào thì ý thức sẽ chụp lại, chép lại, phản ánh như thế. 
- Thứ ba: Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý
thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh”

hoặc là “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo
thông qua thực tiễn.
Tự bản thân vật chất đã chứa trong nó những thuộc tính, những quy luật, do
nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người đã kích thích sự sáng tạo của ý thức,
sự sáng tạo ấy không phải ý thức sáng tạo ra vật chất mà ý thức chỉ có cơng phát
hiện ra nó, tổ chức nó thành một cái khác với bản thân nó. Hoạt động thực tiễn
quy định sự sáng tạo của ý thức.
- Thứ tư: Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Khi điều kiện vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức của con người
cũng phải thay đổi theo. Vật chất không bao giờ đứng im để cho con người nhận
thức mà nó ln luôn vận động và biến đổi không ngừng, sự biến đổi của nó tuân
thủ theo những quy luật, mỗi lần biến đổi, nó bộc lộ ra những quy luật, những
thuộc tính mới.
 Vai trị của ý thức đối với vật chất
Ý thức chỉ có vai trị tác động trở lại đối với vật chất, chứ ý thức không thể
quyết định định được vật chất "Trong công việc sản xuất của mình, con người chỉ
có thể hành động như bản thân thiên nhiên đã làm, nghĩa là chỉ có thể làm thay đổi
hình thái của vật chất mà thơi"1
- Thứ nhất: Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất góp
phần cải biến thế giới khách quan. Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở
chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ não của con người, do vật chất
sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động,
phát triển riêng, khơng lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất, nó có tính độc lập
tương đối tác động trở lại đối với vật chất có thể nhanh hay chậm, có thể phát triển
hoặc thối triển, nhưng nhìn chung thường thay đổi chận so với sự biến đổi của thế
giới vật chất.
- Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động của
con người. Nhờ họat đơng thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hồn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc
sống của con người. Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách

quan, hiểu biết những quy luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu phương hướng,
biện pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức
có thể tìm ra quy luật, các thuộc tính của vật chất, tổ chức, kết hợp các lực lượng
vật chất làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra
16


“thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Cịn tự bản thân ý thức
thì khơng thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế
giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu phương
hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định.
- Thứ ba, vai trị của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người; nó có thể làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đốn
một cách chính xác quy luật vận động của hiện thực khách quan, từ đó có thể hình
thành nên những lý luận, xây dựng kế hoạch, định hướng đúng đắn và hành động
đúng đắn. Ngược lại, một khi ý thức phản ánh sai lạc, xun tạc hiện thực khách
quan thì nó sẽ chỉ đạo hành động của con người phá hoại chính bản thân và đồng
loại của mình.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Một phát minh khoa học vĩ đại đem ứng dụng vào thực
tiễn, nó có thể tạo ra một lượng của cải vật chất khổng lồ cho nhân loại, một tư
tưởng chỉ đạo đúng đắn có thể làm thay đổi bộ mặt của một dân tộc hơn nữa ngày
nay những ý tường khoa học có thể trở thành hàng hóa đem lại giá trị kinh tế lớn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trị của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị,
tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tóm lại, mặc dù tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng
nó khơng thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải

dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy
tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên khơng tránh khỏi thất bại trong hoạt động
thực tiễn.
Câu 11: Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất quyết định ý thức.
+ Khi vạch ra kế hoạch, đường lối phải xuất phát từ lực lượng vật chất, phải
chỉ được ra các lực lượng vật chất. Phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
các quy luật khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở. Chống lại bệnh
chủ quan, duy ý chí.
Nguồn gốc của bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ trình độ thấp kém, thói quen của các
tập tục lạc hậu. Bệnh chủ quan, duy ý chí.
Biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí trong đời sống xã hội là: Tuyệt đối hóa
vai trị của ý thức; coi thường lý luận khoa học; coi thường hiện thực khách quan.

17


Khi xây dựng đường lối chính sách khơng tn thủ nguyên tắc khách quan mà lại
xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Biện pháp chữa bệnh chủ quan duy ý chí.
Khơng ngừng học tập nâng cao trình độ khoa học; nâng cao trình độ cho cán
bộ và tồn thể nhân dân.
Loại bỏ những thói quen và những tập tục lạc hậu. Khắc phục những tình
trạng sản xuất nhỏ manh mún.
+ Khi xây dựng các đường lối, chính sách phải tuân thủ quy luật khách quan,
từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tơn trọng và hành động theo qui
luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu
quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn,

trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó
khơng có. Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thăng vào sự thật, phản ánh
đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện
tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những
thuộc tính, mối liên hệ bên trong vơn có của nó. cần phải tránh chủ nghĩa chủ
quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tam thường, chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa khách quan.
- Ý thức tác động trở lại đối với vật chất
+ Thứ nhất: Ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo vì vậy trong hoạt động
thực tiễn phải phát huy các nhân tố chủ quan, phát huy tính năng động sáng tạo của
ý thức bằng cách tích cực học tập, nghiên cứu khơng ngừng tìm tri thức mới.
Chống lại tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều, ỷ lại, trông chờ.
+ Thứ hai: ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào óc con người, giúp con
người hiểu được bản chất, quy luật vật động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trên cơ sở đó hình thành phương hướng mục tiêu và những phương pháp, cách
thức thực hiện phương hướng mục tiêu đó.
Trong hoạt động thực tiễn, sự vật bao giờ cũng bộc lộ nhiều khả năng. Nhờ đó
ý thức, con người biết lựa chọn những khả năng thực tế, phù hợp mà thúc đẩy sự
việc phát triển, đi lên.
Nói đến vai trị của ý thức đối với vật chất thực chất là nói tới vai trị hoạt
động thực tiễn của con người, vì ý thức “ tự nó “ khơng thể thực hiện được gì hết .
Mác nói “Ý thức khơng thể tự đưa người ta ra khỏi trật tự, xã hội cũ”1, ý thức chỉ
có tác dụng đối với hiện thực trong thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Thứ ba: Ý thức chỉ có thể tác động đối với vật chất khi nó được thực hiện
thơng qua hoạt động thực tiễn của con người. Trong hoạt động thực tiễn phái đánh
giá cao vai trò của con người, phát huy khả năng sáng tạo của con người. Do vậy,
phải giáo dục nâng cao trình độ nhận thức khoa học cho con người.
Câu 12. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan( chương 2 )
18



- Biện chứng khách quan
K/n: Biện chứng khách quan là biện chứng chứng của thế giới vật chất. Thế
giới vật chất mn hình, mn vẻ, tự nó đã có sự tác động qua lại lẫn nhau cùng
vận động và phát triển, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con
người có nhận thức được, hay khơng nhận thức được thì tự bản thân thế giới đã có
mối liên hệ, quy định nhau, giàng buộc nhau và tự nó vận động và phát triển khơng
ngừng.
Từ phân tích trên có thể nhận thấy: thế giới vật chất, tự nó khơng tồn tại độc
lập, khơng tĩnh tại. Con người có muốn hay khơng muốn, có nhận thức được hay
khơng nhận thức được thì mối liên hệ và sự vận động vẫn là thuộc tính cố hữu của
vật chất. Do vậy, với phương thức tồn tại này của vật chất người ta gọi nó là biện
chững khách quan.
- Biện chứng chủ quan
K/n: Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong
đời sống ý thức của con người.
Biện chứng chủ quan là chỉ sự nhận thức của con người, con người đã sử
dụng phương pháp biện chứng để nhận thức về thế giới vật chất.
Trong quá trình nhận thức con người đã tìm ra những phương pháp của mình
để nhận thức, trong đó con người đã sử dụng phương pháp biện chứng để nhận
thức thế giới. Con người nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động và
biến đổi không ngừng, nhận thức chúng trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau cùng vận động và phát triển, cách nhận thức như vậy gọi là biện chứng chủ
quan. Biên chứng chủ quan là biện chứng của phương pháp tư duy con người về
thế giới vật chất. Biện chứng chủ quan là sự nhận thức của con người phù hợp với
biện chứng khách quan.
Phép biện chứng với tư cách là sản phẩm của tư duy con người, do con
người tìm ra và sử dụng nó để nhận thức thế giới, thì phép biện chứng mang tính
chủ quan.
Tóm lại: Khi phân tích về biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan

Ăngnghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối tồn bộ giới tự nhiên,
còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ phản ánh chi phối
tồn bộ giới tự nhiên”1
Câu 13: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
K/n: Mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự
tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
Quan điểm siwwu hình cho rằng: sự vật tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời,
ngược lại chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Trong thế giới mn hình,
19


mn vẻ khơng có một sự vật hiện tượng nào tồn tại cô lập, tác rời mà chúng luôn
tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, quy định nhau.
- Những tính chất của mối liên hệ
+ Tính khách quan của mối liên hệ
Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là cái vốn có của mọi
sự vật hiện tượng chúng khơng phụ thuộc vào cảm giác của con người. Con người
có muốn hay khơng muốn thì các sự vật, hiện tượng vẫn cứ liên hệ với nhau. Tự
bản thân sự vật, hiện tượng đã có mối liên hệ.
Sự vật hiện tượng có sự khách quan mà sự vật hiện tượng gắn liền với mối
liên hệ nên mối liên hệ có sự khách quan.
+ Mối liên hệ mang tính phổ biến:
Bất cứ sự vật hiện tượng nào củng có cấu trúc của nó, có khơng gian, thời
gian của nó, ngồi việc việc liên hệ với nội tại với bản thân nó, nó cịn liên hệ với
sự vật hiện tượng khác.
+ Mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú:
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có khơng gian khác nhau, thời gian khác nhau vì
vậy, chúng có mối liên hệ khác nhau, khơng có mối liên hệ nào trùng khít, hoặc

giống hệt mối liên hệ nào. vật chất mn hình vạn trạng khác nhau, thì mối liên hệ
cung mn hình vạn trạng khác nhau. Chính điều này đã tạo lên sự mn hình,
mn vè của mối liên hệ.
Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo
từng cặp:
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu.
Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản.
Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên.
Mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng
Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất
Mối liên hệ nền tảng và mối liên hệ phái sinh
Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo
phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật.
Ví dụ: nếu xem xét các doanh nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập
thì mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Mối liên hệ mang tính khách quan. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn khi
tìm hiểu mối liên hệ thì tìm ngay chính bản thân sự vật. Khơng đi đi tìm mối liên hệ
ở các hiện tượng duy tâm (đặc biệt là duy tâm khách quan).
+ Mối liên hệ mang tính phổ biến, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần
phải có quan điểm tồn diện.
20


* Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực
tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự
vật. Chúng ta càng biết được nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng thì trong

hoạt động thực tiễn chúng ta càng tránh sự thất bại bấy nhiêu.
Quan điểm tồn diện cịn địi hỏi trong q trình nhận thức phải xem xét
mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Xuất phát từ nhu cầu khác nhau
phải có cách thức giải quyết khác nhau. Đồng thời, quan điểm tồn diện địi hỏi
chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên. Trong
giải quyết các vấn đề xã hội cần phải hiểu thật sâu sắc về bản chất con người
thông qua mối liên hệ kinh tế, bởi chỉ trong mối liên hệ kinh tế bản chất con người
mới phơi bày một cách rõ nét nhất.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể.
* Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi trong quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, phải đặt chúng vào đúng không gian, thời gian, môi trường cụ thể để giải
quyết cho đúng.
Khơng có luận điểm nào đúng trong mọi không gian, mọi thời gian. Một
luận điểm nào đó ngày hơm qua là luận điểm khoa học nhưng chưa chắc đã là luận
điểm khoa học của ngày hôn nay. Có luận điểm trong điều kiện này thì khoa học,
nhưng chưa chắc đã là khoa học trong điều kiện khác. Chân lý sẽ trở thành sai lầm,
nếu bị đẩy ra ngồi giới hạn tồn tại của nó. Ví dụ: trong thời chiến tập trung bao
cấp thì đúng, nhưng sau thời chiến nó lại là sai lầm. Vì vậy phải xác định rõ vai trị,
vị trí cụ thể của mối liên hệ để giải quyết cho đúng đắn.
* Quan điểm lịch sử cũng cho chúng ta hiểu, mối liên hệ theo không gian,
thời gian và mối liên hệ cũng không ngừng biến đổi. Do vây, trong hoạt động thực
tiễn phải biết chớp thời cơ.
Câu 14: Nguyên lý về sự phát triển
+ Quan điểm biện chứng: Xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ
thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự
phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời nhưng vẫn nằm trong khuynh
hướng của sự phát triển..

K/n: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật.
21


+ Phát triển từ thập đến cao dùng để chỉ về trình độ thấp, cao của sự vật,
hiện tượng. Cần phân phân biệt thấp - cao khác với dài ngắn. Cao ở đây là trình độ
đi lên.
+ Từ đơn giản đến phức tạp, nghĩa là nói đến quy mơ rộng - hẹp, đồ sộ thô sơ, sâu sắc – nông cạn. Từ đơn giản đến phức tạp nghĩa là làm cho sự vật đi từ
hẹp đến rộng, từ thô sơ đến đồ sộ, từ nông cạn đến sâu sắc.
+ Từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện được hiểu: làm cho sự vật hiện tượng
khắc phục những khuyết điểm, bổ xung váo đó những yế tố tích cực làm cho sự
vật, hiện tượng tiến bộ dần đến sự hoàn chỉnh, chỉnh chu.
- Tính chất của sự phát triển
+ Sự phát triển mang tính khách quan: Theo quan điểm duy vật biện
chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là q
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động
của sự vật, nhờ đó sự vật ln ln phát triển.
Phát triển là sự phát triển tự bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn,
nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Con người có muốn hay không muốn, sự vật
vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất của nó.
+ Sự phát triển mang tính phổ biến: vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Ở bất cứ sự vật hiện tượng nào, ở vào không gian nào,
thời gian nào cũng nằm trong khuynh hướng của sự phát triển. Ngay cả các khái
niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát
triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng ln phát triển.
+ Phát triển có tính kế thừa: phát triển là trên nền tảng của cái cũ, tìm ra
những khiếm khuyết, những yếu tố chưa hoàn thiện, bổ sung vào sự vật cho hoàn
thiện hơn. Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ

định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự
vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư
vơ, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới cịn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu
tố cịn tác dụng, cịn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi
thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục phát
triển.
+ Sự phát triển cịn có tính đa dạng phong phú: Khuynh hướng phát triển
là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện
tượng lại có q trình phát triển khơng giống nhau. Các sự vật, hiện tường tồn tại
ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, cấu trúc của chúng khác nhau,
không sự vật hiện tượng nào trùng khít nên sự vật hiện tượng nào vì vậy các dạng
phát triển của chúng mang tính khác nhau.
- Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức
tồn tại cụ thể của từng dạng vật chất.
22


+ Sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở dạng biến đổi các yếu tố và hệ
thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong các điều kiện nhất định sẽ
làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm xuất hiện các hợp chất hữu
cơ ban đầu - tiền đề của sự sống.
+ Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải
biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi con người biểu
hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần, phù hợp với sự vận
động và phát triển của môi trường trong đó có con người sinh sống.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện
xu hướng biến đổi của nó để khơng chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn
dự báo được khuynh hướng phát triển của nó tronx`g tượng lại. Điều đó có nghĩa
là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận

động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
+ Thứ hai, cần nhận thức, phát triển là quá trình trải qua đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương
pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kim hãm sự phát triển đó.
Quan điểm phát triển địi hỏi khơng chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại
ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng,
phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi.
Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến
đổi chính của sự vật. Từ đó đưa ra những kế hoạch có tín chất chất đón đầu.
+ Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo
điều kiện cho nó phát triển; chơng lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Mỗi khi một cá nhân nào đó đưa ra quan điểm mới, cần phải nghiên cứu kỹ
lưỡng, xem quan điểm đó có khoa học hay khơng, khi thấy quan điểm nào đó khoa
học thì phải dũng cảm ủng hộ. Không được đố kỵ, rèm pha những quan điểm mới.
+ Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ băng đôi tượng mới phải
biết kế thừa các yểu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong
điều kiện mới.
+Thứ năm, xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân
chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn.
Tóm lại, sự vận dụng nội dung của hai nguyên lý biện chứng duy vật nêu trên
vào hoạt động nhận thức và thực tiễn can tuân theo nguyên tắc lịch sử cụ thể xuất
phát đồng thời từ chúng. Nói cách khác, cơ sờ lý luận của nguyên tắc này là đồng
thời nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
Nội dung nguyên lý :

23


Các sự vật hiện tượng các quá trình khác nhau của thế giới khơng những tồn
tại riêng biệt mà cịn có sự liên hệ với nhau , nghĩa là tác động qua lai quy định

chuyển hóa lẫn nhau .
Câu 15: Cái chung và cái riêng
- Cái riêng là phạm trù triết học, dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
q trình nhất định.
Ví dụ: cái bàn, cái ghế, cái bảng, bạn A, bạn B là những cái riêng cụ thể.
Những cái riêng cụ thể này khác nhau về khơng gian và thời gian, tính chất…
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ
vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà khơng lặp lại ở sự vật,
hiện tượng nào khác.
Thí dụ: vân ngón tay của mỗi người, AND của mỗi người là cái đơn nhất.
Thí dụ khác: Trên thế giới năm 1917 duy nhất có cuộc cách mạng vơ sản
tháng 10 Nga.
- Cái chung: là phạm trù triết học, dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
giống nhau, được lặp lại trong nhiều sự vật, nhiều hiện tượng, nhiều q trình
riêng lẻ.
Ví dụ: cái bàn, cái ghế, cái bảng, bạn A, bạn B Trong các sự vật riêng lẻ này
chúng có điểm chung là đều tồn tại khách quan, điểm chung đó là cái chung. Ví dụ
khác: Bạn A, bạn B, bạn C là những cái riêng. Bạn A, bạn B, bạn C đều là dân tộc
kinh, đều máu đỏ, da vàng là cái chung
- Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Thứ nhất, “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thơng qua cái riêng”1.
Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng chứ
không tồn tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng. Trong sự vật, hiện
tượng tồn tại cả hai loại thuộc tính, thuộc tính chung và thuộc tính riêng ngồi
những thuộc tính quy đinh cái riêng thì có những thuộc tính quy định cái chung
Ví dụ khác: Bạn A, bạn B, bạn C là những cái riêng nhưng giữa Bạn A, bạn
B, bạn C lại có điểm chung là các bạn đều có mái tóc….). Mái tóc chỉ là một bộ
phận của bạn A hoặc bạn B cụ thể.
+ Thứ hai, “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, đưa tới cái
chung”1. Tại sao vậy? Vì, bất cứ sự vật, hiện tượng hay q trình riêng lẻ nào

khơng bao giờ tồn tại một cách biệt lập mà không đưa đến một cái chung nào đó.
Thậm chí có cái ta tưởng nó hết sức sa lạ, nhưng giữa chúng vẫn có sự ảnh hưởng
nhau, và đưa đến một cái chung.
Ví dụ: cái cây ở trong rừng với con người ở thành phố, chúng ta cứ tưởng
rằng giữa chúng khơng có điểm chung, nhưng thực chất chúng có rất nhiều điểm
chung, chúng đều xuất phát từ tế bào, các tế bào của chúng đều giống nhau về hình

24


thức có vỏ, mang, nhân tế bào đề có sự tác động của môi trường, đều chung một hệ
sinh thái, đều tồn tại chung một sinh quyển.
Ví dụ của Lênin: Ivan là người, Ivan là “cái riêng”, người là “cái chung”.
+ Thứ ba, Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn Cái chung. Cái chung là
cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn Cái riêng.
Cái chung tồn tại trong cái riêng có những trường hợp cụ thể nhất định, cái
chung và cái riêng khơng có sự mâu thuẫn. Thí dụ: Con người cụ thể là cái riêng,
con người ai cũng có mái tóc, mái tóc là cái chung, mái tóc và con người cụ thể
khơng có sự mâu thuẫn.
Cái chung là cái bộ phận, nhưng sắc hơn cái riêng: Ví dụ: Bạn A, bạn B, bạn
C là những cái riêng. Bạn A, bạn B, bạn C đều có lịng u nước là cái chung. Tuy
nhiên, việc tìm ra thuộc tính yêu nước trong cả 3 bạn không đơn giản. Trong thực
tiễn, những người có tài tổ chức là những những người có khả năng tìm ra được cái
chung trong vơ vàn cái riêng của mỗi con người, có tìm được cái chung mới quy tụ
được nhân tâm về một mối. Năm 1945 Hồ Chí Minh tìm được cái chung của toàn
thể dân tộc Việt Nam là ai cũng cần cơm no, áo ấm, độc lập, tự do. Vì vậy, Người
mới quy tụ được nhân tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt
Nam giành chính quyền. Việc nhìn thấy mỗi con người cụ thể thì đơn giản, nhưng
việc tìm thấy điểm suy nghĩ giống nhau trong hàng triệu con người thì khơng đơn
giản giản. Do vậy, phải có người có tư duy thật sâu sắc mới tìm ra được cái chung

trong hàng triệu triệu cái riêng. Vấn đề đồn kết dân tộc chính là đồn kết hàng
triệu con người có chung lý trưởng, chung trí hướng thống nhất với nhau cùng xây
dựng đất nước.
+ Thứ tư, Cái đơn nhất và Cái chung có thể chuyển hố lẫn nhau, trong
quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung:
có những sự vật, hiện tượng mới đầu xuất hiện là cái đơn nhất, cái cá biệt. Nhưng
theo quy luật cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở thành hoàn
thiện, tiến tới hoàn toàn chiến thắng cái cũ và trở thành cái chung.
Ví dụ: năm 1920 trên thế giới chỉ có duy nhất 1 người Việt Nam là đảng viên
Đảng Cộng sản là Hồ Chí Minh (cái đặc thù). Bởi vì, lúc bấy giờ hơn 20 triệu
người Việt Nam chỉ có 1 người duy nhất là đảng viên, Đảng cộng sản. Nhưng sau
100 năm đến năm 2020 Việt Nam có gần 5 triệu đảng viên Đảng Cộng sản. Thời
điểm hiện nay, đảng viên Đảng Cộng sản khơng cịn là cái đặc thù nữa mà là cái
chung của gần 5 triệu người.
Cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất: trong thực tiễn có những
cái cũ ngày càng mất dần đi và từ chỗ là cái chung, nó biến dần thành cái đơn nhất:
Ví dụ: cách đây 50 năm, cái cối xay là cái chung phổ biến trong mỗi gia đình của
người Việt Nam, nhưng đến nay chỉ duy nhất ở viện bảo tàng dân tộc học mới có.

25


×