Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO TẠI HUYỆN MAI CHÂU – TỈNH HÒA BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
---------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ
CHO NGƢỜI NGHÈO TẠI HUYỆN MAI CHÂU – TỈNH HỊA BÌNH

NGÀNH: CƠNG TÁC XÃ HỘI
MÃ SỐ: 7760101

Giáo viên hƣớng dẫn

: Nguyễn Thu Trang

Sinh viên thực hiện

: Tạ Thùy Linh

Mã sinh viên

: 1654060843

Lớp

: K61A-CTXH

Khóa học

: 2016 - 2020


Hà Nội, 2020


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này đã khơng thể hồn thành nếu thiếu sự hướng dẫn, cổ vũ
động viên và hỗ trợ của nhiều cá nhân và tổ chức.
Để đạt được kết quả trên, trước hết cho phép em bày tỏ lòng biết ơn tới
Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa, các thầy cô giáo trong Khoa Kinh Tế &
Quản Trị Kinh Doanh trường Đại học Lâm Nghiệp đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực hiện khóa luận để em có thể hồn
thành được bài khóa luận với kết quả cao nhất.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô Nguyễn Thu Trang –
giảng viên hướng dẫn đã nhiệt tình tận tụy chỉ bảo, hướng dẫn sinh viên trong
suốt q trình thực hiện khóa luận dài như vậy. Cơng việc của cô mặc dù rất
bận rộn nhưng cô đã luôn đồng hành cùng chúng em trong mọi hoạt động và đã
khơng quản ngại khó khăn để hỗ trợ từng cá nhân sinh viên. Cơ đã tận tình giúp
đỡ và truyền đạt thêm cho chúng em những kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn để
sinh viên vận dụng vào quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
Hơn nữa, em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến Uỷ ban
nhân dân huyện Mai Châu, đặc biệt là các cán bộ phòng Lao động thương binh
huyện đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp tài liệu thông tin và giúp đỡ sinh viên
trong suốt q trình hồn thành khóa luận.
Với bản thân em, mặc dù đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc thực hiện
khóa luận tốt nghiệp. Tuy nhiên, trong cả q trình tìm hiểu thơng tin tài liệu và
viết bài không tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót nhất định, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ phía q thầy cơ để bài khóa luận tốt nghiệp của
sinh viên được hồn thiện hơn. Đồng thời, cũng là để em có thêm những kinh
nghiệm hoàn thiện bản thân và làm tốt hơn trong những cơ hội tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2020

Sinh viên thực hiện
Tạ Thùy Linh


M CL C
LỜI CẢM ƠN
M C

C

DANH M C TỪ VIẾT TẮT
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO .. 5
1.1. Các khái niệm liên quan .............................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm sức khỏe .................................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm BHYT ..................................................................................... 5
1.1.3. Khó khăn của việc ngƣời dân tham gia bảo hiểm y tế: .............................. 6
1.1.4. Khái niệm nghèo ...................................................................................... 6
1.2 Bản chất của BHYT ..................................................................................... 8
1.3. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo ....................................... 14
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của BHYT. ....................................................... 16
1.5. Đối tƣợng tham gia và phạm vi BHYT ...................................................... 18
1.5.1. Đối tƣợng BHYT .................................................................................... 18
1.5.2. Đối tƣợng tham gia BHYT ..................................................................... 18
1.5.3. Phƣơng thức tham gia BHYT ................................................................. 20
CHƢƠNG 2.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI
NGHÈO TẠI HUYỆN MAI CHÂU – TỈNH HỊA BÌNH. ............................... 21
2.1.Khái qt chung về huyện Mai Châu - Hịa Bình ....................................... 21
2.1.1 Vị trí địa lý .............................................................................................. 21
2.1.2 Dân số ..................................................................................................... 22

2.1.3 ao động ................................................................................................. 22
2.1.4 Kinh tế ..................................................................................................... 22


2.1.5 Y tế.......................................................................................................... 22
2.2 Tổ chức BHXH huyện Mai Châu ............................................................... 23
2.2.1 Chức năng của BHXH tại huyện Mai Châu ............................................. 23
2.2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH tại huyện Mai Châu ......................... 23
2.2.3 Bộ máy tổ chức của BHXH huyện Mai Châu .......................................... 25
2.3 Tình hình thực hiện BHYT cho ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu .............. 26
2.3.1 Cơng tác tổ chức, triển khai rà sốt xã định hộ nghèo .............................. 26
2.3.2 Thực trạng hộ nghèo và ngƣời nghèo trên địa bàn huyện Mai Châu ........ 26
2.3.2.1 Thực trạng hộ nghèo và ngƣời thuộc hộ nghèo qua 3 năm .................... 26
2.3.2.2 Thực trạng hộ nghèo theo các xã qua 3 năm ......................................... 27
2.3.3 Tình hình cấp phát thẻ BHYTcho ngƣời nghèo ...................................... 30
2.3.3.1 Quy trình cấp phát thẻ BHYT cho ngƣời nghèo .................................... 30
2.3.3.2 Tình hình thực tế ngƣời nghèo đƣợc cấp phát thẻ BHYT qua ba năm ... 31
2.3.3.3 Đánh giá của ngƣời dân về việc cấp phát thẻ ........................................ 31
2.3.4 Tình hình sử dụng thẻ BHYT của ngƣời nghèo trong việc khám chữa bệnh
trên địa bàn huyện Mai Châu ............................................................................ 32
2.3.4.1 Mạng lƣới cơ sở khám chữa bệnh ........................................................ 32
2.3.4.2 Thực trạng khám chữa bệnh ................................................................. 32
2.3.4.3 Đánh giá của ngƣời dân về thực trạng khám chữa bệnh bằng BHYT .... 33
2.3.4.4 Thực trạng việc thanh tra giám sát BHYT cho ngƣời nghèo ................. 33
CHƢƠNG 3 ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ................................................. 41
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho ngƣời nghèo về lợi
ích của BHYT trong việc khám chữa bệnh ....................................................... 41
3.2. Quy định mức viện và điều chỉnh viện phí phù hợp ................................... 43
3.3. Nâng cao chất lƣợng mạng lƣới y tế .......................................................... 44



3.4. Đổi mới chính sách, cơ chế đi đơi với tăng cƣờng quản lý tài chính y tế các
cơ sở Khám chữa bệnh. .................................................................................... 45
3.5. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế trong việc
khám chữa bệnh, đầu tƣ trang thiết bị y tế ........................................................ 46
3.6. Huy động tài chính từ xã hội...................................................................... 46
3.7. Đầu tƣ kinh phí để phát triển y tế cơ sở: .................................................... 47
3.8. Tăng cƣờng công tác quản lý y tế: ............................................................. 48
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 50
DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU………………………………………………..


DANH M C TỪ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2

BHYT


Bảo hiểm y tế

3

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

4

CTXH

Cơng tác xã hội

5

KBC

Khám chữa bệnh

6

ĐTB&XH

ao động thƣơng binh và xã hội

7

UBND


Ủy ban nhân dân

8

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo


DANH M C ẢNG
Bảng 2.1: Số liệu thống kê hộ nghèo và ngƣời thuộc hộ nghèo qua 3 năm 20172019 ................................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.2 Thực trạng ngƣời nghèo theo các xã 2017-2018Error! Bookmark not
defined.
Bảng 2.3: Thực trạng ngƣời nghèo năm 2019 ................................................... 32
Bảng 2.4 : Số liệu ngƣời đƣợc cấp phát thẻ tại huyện…………….……………31


ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển nhanh và bền vững đang là mục tiêu quan trọng trong cải cách
kinh tế - xã hội của đất nƣớc ta. Bên cạnh việc thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế,
cơng tác xóa đói giảm nghèo đƣợc Nhà nƣớc coi là một bộ phận quan trọng của
mục tiêu phát triển. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt đƣợc nhiều thành tựu
trong cải cách kinh tế, từng bƣớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân trong đó khơng thể khơng đề cập đến các chính sách chăm sóc sức
khỏe cho một bộ phận không nhỏ ngƣời nghèo là một trong những định hƣớng
ƣu tiên của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm đảm bảo công bằng trong tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ y tế. Xác định đƣợc tầm quan trọng của công tác Chăm sóc sức
khỏe nhân dân, nhiều chính sách y tế quan trọng đã đƣợc ban hành, góp phần
đảm bảo quyền lợi cho ngƣời dân trong chăm sóc sức khỏe, Khám chữa bệnh

(KCB), trong đó có chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) dành cho đối tƣợng ngƣời
nghèo.
Huyện Mai Châu với điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn, mức sống
ngƣời dân còn thấp so với mặt bằng của Thủ đơ. Dù vậy Đảng bộ chính quyền
nơi đây vẫn hết sức quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe cho ngƣời dân mà thể
hiện rõ nét nhất đó là việc xây dựng các chính sách, chƣơng trình xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc sức khỏe cho ngƣời nghèo thơng qua chính sách BHYT đã bao
phủ hầu hết số ngƣời nghèo với nhiều chế độ hỗ trợ cả về tài chính, dinh dƣỡng,
chế độ KCB.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số những tồn tại làm ảnh hƣởng đến
hiệu quả sử dụng BHYT, chất lƣợng KCB BHYT cho ngƣời nghèo. Công tác rà
sốt, xác định hộ nghèo cịn nhiều bất cập, thiếu công bằng, dân chủ dẫn đến
ngƣời nghèo không đƣợc hƣởng thẻ BHYT, công tác triển khai cấp thẻ BHYT ở
một số xã còn chậm chễ, còn để xảy ra tình trạng cấp thiếu thẻ, trùng thẻ hoặc
cấp thẻ sai thông tin dẫn đến khi ngƣời dân đi KCB gặp nhiều khó khăn, Chất
lƣợng KCB cho ngƣời nghèo cịn ở mức thấp chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu
1


nguyện vọng của ngƣời nghèo, Việc sử dụng thẻ BHYT của ngƣời nghèo bị chi
phối bởi một số những rào cản cần khắc phục về cơ sở hạ tầng, máy móc trang
thiết bị, thủ tục, thời gian, thái độ và trách nhiệm của cán bộ y tế, việc tiếp cận
và sử dụng các dịch vu y tế cịn nhiều khó khăn, nhận thức về quyền lợi khi
tham gia BHYT của ngƣời nghèo còn hạn chế làm ảnh hƣởng đến việc tiếp cận
và sử dụng các dịch vu y tế trong khi đó ngƣời nghèo lại có nhu cầu KCB cao,
sự bất bình đẳng trong KCB, chăm sóc y tế đối với ngƣời nghèo còn diễn ra khá
phổ biến. Xuất phát từ thực trạng khảo sát tại địa phƣơng và từ những mong
muốn, nguyện vọng của ngƣời nghèo trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
BHYT, tiếp cận và thụ hƣởng các chính sách BHYT đem lại.
Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu tình hình thực hiện

bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu, Hịa Bình” làm đề tài
nghiên cứu của mình nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả sử dụng thẻ
BHYT cho ngƣời nghèo và đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé cùng với các
cấp, ban ngành, đoàn thể, trong nỗ lực cải thiện chăm sóc sức khỏe cho ngƣời
dân ở địa phƣơng.
1. Ý nghĩa lí luận của nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu cho
việc phân tích về chính sách Bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
2. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Đối với địa phƣơng: nghiên cứu làm rõ nét hơn về thực trạng vấn đề sử
dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo tại địa phƣơng, góp phần giúp địa phƣơng xây
dựng, điều chỉnh, bổ sung, hồn thiện chính sách về BHYT cho ngƣời nghèo,
đƣa ra những hỗ trợ phù hợp trong quá trình tổ chức, triển khai ban hành các
chính sách phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng chất lƣợng sử
dụng thẻ BHYT cho ngƣời nghèo trong khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
nhân dân, góp phần nâng cao đời sống ngƣời dân địa phƣơng.
3. Mục tiêu nghiên cứu

2


Tìm hiểu rõ thực trạng và phân tích các ngun nhân tồn tại trong công
tác triển khai bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo,hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế cho
ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu – tỉnh Hòa Bình, từ đó đề xuất một số giải
pháp, khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế cho ngƣời
nghèo trong việc khám chữa bệnh tại địa phƣơng.
3.1. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống đƣợc cơ sở lý luận về BHYT cho ngƣời nghèo
- Tìm hiểu và đánh giá đƣợc thực trạng cấp phát và sử dụng thẻ BHYT tại
huyện Mai Châu – tỉnh Hịa Bình

- Đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng sử dụng thẻ
BHYT cho ngƣời dân nghèo trong việc KCB tại địa bàn nghiên cứu.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về BHYT cho ngƣời nghèo
- Tình hình thực hiện bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo tại huyện Mai Châu
– tỉnh Hịa Bình
- Giải pháp và khuyến nghị
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là BHYT cho ngƣời nghèo huyện Mai Châu –
Hịa Bình.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian tại huyện Mai Châu – tỉnh Hịa Bình
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập trong vòng thời gian điều tra
nghiên cứu làm khóa luận từ ngày 10/ 02/ 2020 đến 03/ 05/ 2020
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phƣơng pháp thu thập và kế thừa tài liệu thứ cấp
Thu thập, kế thừa có chọn lọc các tài liệu có liên quan đến bảo hiểm y tế
cho ngƣời nghèo huyện Mai Châu đã đƣợc nghiên cứu và xác định trƣớc đó.
6.2. phƣơng pháp thu thập tài liệu sơ cấp
3


- Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu các hộ nghèo huyện Mai Châu và mức độ sử dụng bảo hiểm
y tế của những thành viên trong hộ.
Phỏng vấn cán bộ huyện để tìm hiểu về chính sách, các phƣơng pháp để
thống kê BHYT cho ngƣời nghèo huyện Mai Châu.
6.3.Phƣơng pháp phân tích và sử lí số liệu
-Phương pháp phân tích số liệu: Sử sụng phƣơng pháp thống kê so sánh

phƣơng pháp tính tỷ lệ để thấy đƣợc độ tăng giảm và tỷ lệ của các yếu tố đƣợc
đề cập đến trong đề tài
- Phương pháp xử lý số liệu: Ngƣời nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp
phân tích định lƣợng (Excel) để xử lý kết quả của những câu hỏi thu thập đƣợc.

4


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO

1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm sức khỏe
Theo Tổ chức y tế thế giới “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về
thể chất, tinh thần và xã hội chứ khơng chỉ bao gồm tình trạng khơng có bệnh
hay thƣơng tật”.
1.1.2. Khái niệm BHYT
Khái niệm BHYT, theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “là loại bảo hiểm
do Nhà nƣớc tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể
và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân
dân". Cũng nhƣ hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam thừa nhận quan
điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức ao động Quốc tế (ILO) với
cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là loại hình bảo
hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho ngƣời tham gia khi gặp rủi
ro, ốm đau, bệnh tật.
Theo Luật BHYT do Quốc hội ban hành ngày 14/11/2008, BHYT là hình
thức bảo hiểm đƣợc áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục
đích lợi nhuận, do Nhà nƣớc tổ chức thực hiện và các đối tƣợng có trách nhiệm
tham gia theo quy định của Luật. Về cơ bản, đó là một cách dành dụm một
khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi cá nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng

vào quỹ do Nhà nƣớc đứng ra quản lý, nhằm giúp mọi thành viên tham gia quỹ
có ngay một khoản tiền trả trƣớc cho các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, khi ngƣời tham gia khơng may ốm đau phải sử dụng các dịch vụ đó, mà
khơng phải trực tiếp trả chi phí khám chữa bệnh. Cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ
thanh tốn khoản chi phí này theo quy định của Luật BHYT.
BHYT là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng, là cơ chế
tài chính vững chắc giúp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Chính sách
5


BHYT của Việt Nam đƣợc bắt đầu thực hiện từ năm 1992. Trong suốt hơn 20
năm qua, BHYT đã khẳng định tính đúng đắn của một chính sách xã hội của
Nhà nƣớc, phù hợp với tiến trình đổi mới đất nƣớc. BHYT cịn góp phần đảm
bảo sự cơng bằng trong khám chữa bệnh, ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao
động và ngƣời dân nói chung ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về sự cần thiết
của BHYT cũng nhƣ trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội . Đông đảo ngƣời lao
động, ngƣời nghỉ hƣu, mất sức, đối tƣợng chính sách xã hội và một bộ phận
ngƣời nghèo yên tâm hơn khi ốm đau đã có chỗ dựa khá tin cậy là BHYT.
1.1.3. Khó khăn của việc người dân tham gia bảo hiểm y tế:
Khó khăn tham gia bảo hiểm y tế của ngƣời dân thuộc hộ nghèo là do
điều kiện kinh tế hộ gia đình cịn khó khăn, khả năng nhận thức và tiếp cận với
quyền lợi mà bảo hiểm y tế đem lại còn hạn chế. Hầu hết ngƣời nghèo không
tham gia bảo hiểm đa phần bị kinh tế chi phối và một phần là chƣa hiểu hết lợi
ích mà bảo hiểm y tế đem lại.
Khi chính quyền xã tuyên truyền là vận động ngƣời dân tham gia bảo
hiểm y tế cịn gặp nhiều khó khăn. Các hộ gia đình thuộc hộ nghèo thƣờng
khơng quan tâm đến bảo hiểm y tế vì điều kiện kinh tế cịn hạn hẹp. Một số hộ
gia đình nghèo do điều kiện kinh tế khó khăn khơng đủ khả năng tiếp cận với
nền giáo dục, dẫn đến nhận thức về bảo hiểm y tế còn hạn chế. Cái ăn cái mặc
hàng ngày vẫn cịn hết sức khó khăn.

1.1.4. Khái niệm nghèo
Nghèo đói là vấn đề mang tính lịch sử, nó ln vận động và biến đổi theo
thời gian và không gian nhất định. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi
quốc gia, mỗi khu vực hay mỗi tổ chức đều có quan niệm khác nhau về vấn đề
này. Để đƣa ra khái niệm nghèo đói một cách chính xác là vấn đề rất khó.
Ở Việt Nam, đã có nhiều quan điểm đƣa ra xung quanh vấn đề khái niệm,
chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói. Tuy nhiên, có rất nhiều ý kiến tách
riêng đói và nghèo, theo đó:

6


Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cƣ chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần các nhu cầu tối thiểu, cơ bản của cuộc sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phƣơng diện.
Ngồi khái niệm nghèo (nghèo đói) nói chung, ở Việt Nam cịn có khái
niệm đói. Theo Nguyễn Hữu Hải: “Đói là tình trạng một bộ phận dân cƣ nghèo
có mức sống dƣới mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập
khơng đủ đảm bảo duy trì cuộc sống”.
Một chuyên gia của tổ chức ao động quốc tế (ILO), ông Abapiasen ngƣời đƣợc giải Noben năm 1998 thì cho rằng: “Nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa
chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”.
Theo quan niệm này, rõ ràng nghèo đói là những ngƣời đang phải đối
mặt với cái ăn, cái mặc, cuộc sống thiếu thốn mọi thứ đối với bản thân, thì
khơng thể có điều kiện tham gia với cộng đồng trong việc phát triển chung.
Tại hội nghị chống nghèo đói ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng do
ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Băng Cốc – Thái an đã đề cập đến nghèo
đói nhƣ sau: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cƣ khơng có khả năng
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngƣời, mà những nhu cầu ấy đƣợc xã
hội thừa nhận phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập
quán của địa phƣơng”.

Theo cách nhìn nhận của Ngân hàng phát triển Châu Á, thì ngƣời nghèo
đƣợc tiếp cận theo 2 cách, đó là: Nghèo tuyệt đối và nghèo tƣơng đối.
“Nghèo đói tuyệt đối là việc khơng có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu để duy trì cuộc sống của con ngƣời”. Nghèo đói tuyệt đối có xu hƣớng đề
cập đến những ngƣời thiếu ăn theo nghĩa đen.
“Nghèo đói tƣơng đối là tình trạng khơng có khả năng đạt tới mức sống
tối thiểu tại một thời điểm nào đó”.
Theo nghiên cứu của ILO cho rằng: “nghèo đói khơng chỉ là thiếu thốn về
thu nhập mà thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ cơ
bản khác”.
7


Ở Việt Nam, trƣớc đây quan niệm những ngƣời nghèo khổ là những
ngƣời bần cố nơng, khơng có ruộng đất, đi làm thuê cuốc mƣớn, cấy rẽ.
Ngày nay, xác định những ngƣời nghèo, hộ nghèo là những hộ có mức thu
nhập thấp không đảm bảo cuộc sống tối thiểu, những hộ gia đình thƣờng xun
thiếu ăn.
Cịn ngƣời dân thì quan niệm nghèo đói của họ rất đơn giản và thực tế.
Nếu có sự thiếu thốn gì đó thì họ có thể cho là nghèo. Ví dụ: khơng có tiền cho
con đi học, khơng có tiền mua sắm vật dụng…đều đƣợc họ cho là nghèo đói.
Từ những cách tiếp cận trên, tác giả cho rằng dù đƣợc xuất phát từ những
quan điểm, cách tiếp cận nào thì khái niệm nghèo đói cũng dùng để chỉ một
ngƣời hay một nhóm ngƣời trong xã hội và đang phải sống trong cảnh thiếu
thốn, không đảm bảo đƣợc cuộc sống hàng ngày với những nhu cầu tối thiểu cho
bản thân và không đƣợc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội thiết yếu. Nhƣ vậy,
khái niệm nghèo đói là sự thiếu hụt có thể là một khái niệm phù hợp và bao quát
nhất.
Tóm lại, có thể đƣa ra một khái niệm chung về nghèo đói nhƣ sau:
Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một

nhóm dân cƣ là thấp, không đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của con ngƣời (ăn,
mặc, ở, học tập, sức khoẻ, chăm sóc, đi lại,…) mà những nhu cầu này theo một
tiêu chuẩn đã đƣợc xã hội thừa nhận.
1.2 Bản chất của BHYT
BHYT trƣớc hết là một nội dung của BHXH - một trong những bộ phận
quan trọng của hệ thống bảo đảm xã hội hay còn gọi là hệ thống an sinh xã hội.
Cùng với các hệ thống cung cấp (hay còn gọi là chế độ ƣu đãi xã hội, chế độ bao
cấp) và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động của BHYT nói riêng và hoạt động
của BHXH nói chung, đã thực sự trở thành nền móng vững chắc cho sự bình ổn
xã hội. Chính vì vai trị cực kỳ quan trọng của BHXH nhƣ vậy, cho nên ở mọi
quốc gia trên thế giới, hoạt động của BHXH luôn do Nhà nƣớc đứng ra tổ chức
thực hiện theo hệ thống pháp luật về BHXH. Đó cũng là một cơ sở quan trọng
8


để phân biệt giữa BHXH về y tế và bảo hiểm tƣ nhân về y tế. Trong các nƣớc
công nghiệp phát triển thì loại hình BHYT tƣ nhân cũng đƣợc phát triển và cùng
tồn tại song song với BHXH về y tế. Vì vậy, nói đến BHYT ở đây là chúng ta
hiểu là đang đề cập đến BHXH về y tế hay nói cách khác là BHYT theo luật
pháp. Thực ra BHXH ở nƣớc ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau, Chế
độ trợ cấp thai sản, Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, Chế độ
hƣu trí, Chế độ tử tuất thì cũng có thể hiểu BHYT là Chế độ khám chữa bệnh.
Khi lâm bệnh, ngƣời bệnh buộc phải đến các cơ sở y tế để đƣợc khám chữa bệnh
(KCB). Cũng từ bệnh tật, nhất là những bệnh tật kinh niên, bệnh mãn tính hoặc
bệnh hiểm nghèo đã dẫn đến các khoản chi phí KCB cực kỳ lớn. Có những
ngƣời bệnh phải đƣợc sử dụng các công nghệ kỹ thuật cao trong việc chẩn đoán
và chữa trị bệnh, phải sử dụng các loại thuốc đắt tiền và phải lƣu trú dài ngày tại
bệnh viện. Những khoản chi phí này khơng phải ai cũng có thể tự lo liệu đƣợc.
Bệnh tật đã dồn con ngƣời vào những thảm cảnh đáng lo ngại. Đối với những
ngƣời bệnh do hồn cảnh nghèo túng thì phải vay mƣợn để chữa trị bệnh tật và

sau đó trả nợ và có nhiều ngƣời cũng khơng thể vay mƣợn để tiếp tục đƣợc chữa
trị. Những ngƣời có điều kiện kinh tế khá giả hơn hoặc cận nghèo thì sau những
đợt bệnh tật cũng có thể bị đẩy vào tình cảnh nghèo khó. Đồng thời, với bệnh tật
cũng kéo theo sự mất mát về thu nhập do ngƣời bệnh khơng có sức khoẻ để làm
việc. Từ đó đã đe doạ đến cơ sở kinh tế và sự tồn tại trƣớc hết của bản thân
những ngƣời lao động, sau đó đến các thành viên, những ngƣời ăn theo trong gia
đình ngƣời bệnh và sau đó ảnh hƣởng đến sự ổn định xã hội. Do vậy, ngƣời ta
phải cần đến BHYT. BHYT sẽ đảm bảo chi trả toàn bộ hoặc từng phần (tuỳ theo
điều kiện kinh tế xã hội của từng nƣớc) những chi phí KCB "khổng lồ" nói trên,
giúp cho ngƣời bệnh vƣợt qua cơn hoạn nạn về bệnh tật, sớm phục hồi sức khoẻ
cũng nhƣ ổn định cuộc sống gia đình. BHYT sẽ bảo đảm cho những ngƣời tham
gia BHYT và các thành viên gia đình của họ những khả năng để đề phòng, ngăn
ngừa bệnh tật; phát hiện sớm bệnh tật; chữa trị và khôi phục lại sức khoẻ sau
bệnh tật. Do các chế độ BHXH về khám chữa bệnh, chế độ thai sản và chế độ
9


ốm đau (chi trả tiền thay thế tiền lƣơng trong những ngày ốm đau khơng làm
việc đƣợc) đều có cùng phƣơng thức hoạt động và các nguyên tắc cơ bản chung,
cho nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán của từng nƣớc mà BHYT có thể bao
gồm cả chế độ khám chữa bệnh, chế độ thai sản và chế độ ốm đau hoặc đƣợc
tách ra theo từng chế độ riêng biệt. Điều đó liên quan đến phạm vi đối tƣợng
tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ đƣợc hƣởng.
Ở các nƣớc công nghiệp phát triển ngƣời ta định nghĩa BHYT trƣớc hết
là một tổ chức cộng đồng đồn kết tƣơng trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ
sức khỏe, khơi phục lại sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của ngƣời
tham gia BHYT. Nhƣ vậy, trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đồn kết
cùng chia xẻ rủi ro rất cao; nó là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe; nó điều tiết mạnh mẽ giữa ngƣời khoẻ mạnh với ngƣời ốm yếu, giữa thanh
niên với ngƣời già cả và giữa ngƣời có thu nhập cao với những ngƣời có thu

nhập thấp. Sự đồn kết tƣơng trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo cho từng
ngƣời dựa trên cơ sở của sự đồn kết khơng điều kiện, của sự hợp tác cùng
chung lòng, chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Theo định nghĩa BHYT
nêu trên, thì sự đoàn kết tƣơng trợ vừa mang một ý nghĩa tự giác, vừa mang ý
nghĩa cùng chịu trách nhiệm và vừa có sự thống nhất về quan điểm chung.
Ngƣời ta cịn cho rằng: Đồn kết tƣơng trợ là nền tảng xã hội cho sự phát triển
của mỗi chế độ xã hội lồi ngƣời và nó mang lại một gƣơng mặt nhân đạo mới
cho chế độ xã hội đó. Tính nhân đạo của hoạt động đoàn kết tƣơng trợ sẽ đánh
dấu bƣớc tiến bộ của thể chế xã hội. Đây cũng chính là bản chất nhân văn của
hoạt động BHYT mà chúng ta thƣờng đề cập đến. Tuy nhiên đoàn kết tƣơng trợ
khơng chỉ là quyền đƣợc nhận mà cịn phải là nghĩa vụ đóng góp. Sự cơng bằng
và bình đẳng của một chế độ xã hội đƣợc gắn bó với sự đoàn kết đƣợc thể hiện ở
chỗ: ai muốn đạt đƣợc sự bền chặt về đồn kết thì cần thực hiện nhiều hơn sự
cơng bằng. Điều đó chỉ có thể đƣợc tạo ra thông qua sự điều chỉnh trong thực tế,
vì "sự cơng bằng" là yếu tố động, nó chỉ đạt đƣợc tại một thời điểm, còn lại đều
là sự không công bằng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến sự phát
10


triển xã hội. Do vậy, cần phải có sự tích cực điều chỉnh thực tế một cách thƣờng
xuyên nhằm đảm bảo mối quan hệ tƣơng thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong
hoạt động của BHYT.
Nếu nhìn trên tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phƣơng diện điều
tiết kinh tế vĩ mơ thì cơng cụ BHXH - trƣớc hết phải kể đến BHYT là công cụ
thứ hai trong q trình phân phối lại (cơng cụ thứ nhất là thuế) góp phần bảo
đảm sự bình đẳng và cơng bằng xã hội.
Nếu nhìn trên tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phƣơng diện điều
tiết kinh tế vĩ mơ thì cơng cụ BHXH - trƣớc hết phải kể đến BHYT là cơng cụ
thứ hai trong q trình phân phối lại (cơng cụ thứ nhất là thuế) góp phần bảo
đảm sự bình đẳng và cơng bằng xã hội. Hệ thống BHXH về y tế ngay từ khi

hình thành đã không định hƣớng theo mức độ rủi ro mà định hƣớng theo nguyên
tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều đó đƣợc thể hiện rất rõ
là: khi bị ốm đau thì ngƣời bệnh sẽ đƣợc chữa trị cho đến khi khoẻ mạnh trở lại
bằng mọi phƣơng pháp, kỹ thuật y tế hiện thời mà khơng căn cứ vào trƣớc đó họ
đã đóng góp BHXH đƣợc bao nhiêu. Nếu định hƣớng theo mức độ rủi ro thì khi
ốm đau họ sẽ đƣợc đền bù với mức là bao nhiêu căn cứ vào trƣớc đó họ đã đóng
góp theo mức nào nhƣ trong BHYT tƣ nhân hay cịn gọi là bảo hiểm thƣơng
mại. Chính định hƣớng này đã làm nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản về
BHYT, nó đƣợc tồn tại và phát triển đến ngày nay. Đến nay, đặc trƣng của hoạt
động BHXH trong lĩnh vực y tế vẫn là sự định hƣớng theo nhu cầu sức khoẻ cần
bảo vệ, đối tƣợng tham gia vẫn là đơng đảo những ngƣời có quan hệ lao động,
đối tƣợng này chiếm phần lớn trong BHYT. Trong quá trình phát triển, BHYT
ln mở rộng phạm vi đối tƣợng tham gia theo nghĩa vụ (mang tính chất bắt
buộc) và ban đầu là BHYT cho ngƣời lao động làm thuê (ngƣời có quan hệ lao
động), rồi đến BHYT cho ngƣời lao động tự do, cho ngƣời lao động trong nông
nghiệp cho đến khi BHYT tồn dân.
Nếu nhìn nhận dƣới góc độ kinh tế thì BHYT trƣớc hết đƣợc hiểu là sự
hợp nhất kinh tế của số lƣợng lớn những ngƣời trƣớc cùng một loại hiểm nguy
11


do bệnh tật gây nên mà trong từng trƣờng hợp cá biệt khơng thể tính tốn trƣớc
và lo liệu đƣợc. Nhƣng cái chung đó cần phải đáp ứng đƣợc bằng nguồn tài
chính dự tính một cách thoả đáng thơng qua hệ thống cân bằng rủi ro tƣơng ứng
do Nhà nƣớc đứng ra tổ chức thực hiện. Cụ thể nhƣ sau: Tổng chi phí cho khám
chữa bệnh = Tổng số tiền đóng góp của những ngƣời tham gia BHYT. Nhƣ vậy,
cân đối về chi phí KCB đƣợc thực hiện cân bằng giữa một bên là tổng số chi phí
KCB cho những ngƣời có nhu cầu và cần phải KCB và bên kia là tổng số đóng
góp của tất cả những ngƣời tham gia BHYT bất kể họ có hoặc khơng có nhu cầu
KCB (tức là cả những ngƣời đang khoẻ mạnh). Thời gian cân đối về thu - chi

của BHYT thông thƣờng là một năm. Có những nƣớc ngƣời ta tính tốn cân đối
để dự trù kinh phí chi trả cho thời gian thêm là 1 tháng. Việc cân đối thu chi cịn
có thể đƣợc bổ sung thêm tuỳ tình hình cụ thể của từng nƣớc và từng năm cụ
thể. Trong tổng số chi cịn phải tính thêm khoản chi phí cho bộ máy quản lý làm
công tác BHYT. Trong khoản thu có thể bao gồm cả các khoản thu từ đóng góp
của ngân sách địa phƣơng, của Trung ƣơng và các khoản thu khác.
Nguyên tắc cộng đồng chia xẻ rủi ro với ý tƣởng nhân văn cao cả của nó
đã loại trừ mục tiêu lợi nhuận thƣơng mại của cộng đồng những ngƣời tham gia
BHYT. Do vậy, hoạt động BHXH về y tế khơng có khoản thu lợi nhuận và
đƣơng nhiên cũng khơng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, tỷ lệ đóng góp chỉ đƣợc
nâng lên theo địi hỏi quyền lợi chung của quá trình thực hiện BHYT. Tức là tỷ
lệ đóng góp BHYT chỉ đƣợc nâng lên theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu
nâng cao chất lƣợng KCB và ứng dụng những thành tựu khoa học tiến tiến vào
công tác KCB của cả cộng đồng.
Phƣơng thức đoàn kết, tƣơng trợ, chia xẻ rủi ro phải đƣợc thực hiện bằng
sự điều tiết nhằm cân bằng mang tính xã hội. Việc lập ra quỹ BHYT và từng
bƣớc mở rộng phạm vi đối tƣợng tham gia mà từng bƣớc mở rộng phạm vi cân
bằng, chia xẻ rủi ro trong cộng đồng những ngƣời tham gia BHYT. Về mặt kỹ
thuật bảo hiểm thì ngun tắc đồn kết tƣơng trợ chia xẻ rủi ro chính là q trình
phân phối lại giữa những ngƣời khoẻ mạnh với ngƣời ốm đau, ngƣời trẻ với
12


ngƣời già. Vì vậy, đối tƣợng tham gia bảo hiểm phải khơng ngừng đƣợc mở
rộng trong suốt q trình phát triển và đƣợc định hƣớng cho nhiều nhóm đối
tƣợng lao động khác nhau (ví dụ khơng phân biệt giữa ngƣời lao động có thu
nhập cao với ngƣời có thu nhập thấp, giữa ngƣời đi làm việc với ngƣời thất
nghiệp hoặc ngƣời đã nghỉ hƣu, giữa gia đình có thu nhập cao, khơng con cái
với gia đình đơng con) mới có ý nghĩa trong việc điều tiết trong cộng đồng xã
hội.

Nguyên tắc đoàn kết tƣơng trợ cùng chia xẻ rủi ro chỉ đƣợc thực hiện một
cách đầy đủ và hợp lý thông qua những giới hạn nhất định. BHYT chỉ bao gồm
những đối tƣợng là những ngƣời về nguyên tắc luôn có nhu cầu đƣợc bảo vệ về
sức khoẻ. Những đối tƣợng cụ thể sẽ đƣợc quy định trong pháp luật.
BHXH về y tế đƣợc thực hiện trƣớc hết đối với những ngƣời lao động
phụ thuộc, tức là ngƣời lao động khơng có tƣ liệu sản xuất và phải đi làm thuê
hay những ngƣời có quan hệ lao động. Đây là loại hình BHXH nghĩa vụ, nó
mang tính chất bắt buộc đối với mọi ngƣời lao động phụ thuộc và chủ sử dụng
lao động. Sau đó với bản chất ƣu việt của BHXH về y tế nên nó đƣợc mở rộng
ra các đối tƣợng lao động khác nhƣ ngƣời hành nghề tự do, lao động nông, lâm
ngƣ nghiệp và BHYT theo đơn vị gia đình.
Vấn đề KCB khơng đơn thuần chỉ liên quan đến vấn đề kỹ thuật y tế mà
còn liên quan một cách rất chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế nhƣ: các khoản chi trả
cho các nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật (khám bệnh, phẫu thuật, thủ thuật...) của
các bác sĩ, chi phí cho bệnh viện với các trang thiết bị, vật tƣ y tế phục vụ cho
KCB và thuốc men - nếu nhìn dƣới giác độ kinh tế - đó là "Cung" của ngành y
tế. Cịn phía "Cầu" là bệnh tật, những bệnh tật này cần đến các dịch vụ KCB và
những hàng hóa cần thiết cho sức khoẻ. Vì vậy khi thực hiện BHYT, ở các nƣớc
công nghiệp phát triển bên cạnh việc sử dụng vai trò điều tiết của Nhà nƣớc,
ngƣời ta còn chú trọng sử dụng quan hệ cung - cầu điều tiết trên thị trƣờng sức
khoẻ hay còn gọi là thị trƣờng y tế nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn quỹ
đóng góp của ngƣời tham gia BHYT và nâng cao chất lƣợng KCB.
13


Trong các nƣớc công nghiệp phát triển ở châu Âu, số ngƣời tham gia
BHYT theo luật pháp chiếm tới 90% dân số, chỉ 10% dân số cịn lại khơng tham
gia BHXH. Nhóm ngƣời này khơng thuộc diện đối tƣợng điều chỉnh của luật
BHYT và phần lớn trong số họ là những ngƣời giàu có, họ có đủ khả năng tự lo
liệu khi ốm đau hoặc tham gia BHYT tƣ nhân để hƣởng những quyền lợi cao

hơn khi ốm đau
Ở nƣớc ta BHYT xã hội đƣợc tiến hành từ năm 1992 và cho đến nay vẫn
thực hiện BHYT bắt buộc đối với ngƣời lao động có quan hệ việc làm giữa
ngƣời sử dụng lao động với ngƣời lao động. Những đối tƣợng xã hội nhƣ: ngƣời
có cơng với cách mạng, thân nhân sĩ quan quân đội, ngƣời nghèo cũng đƣợc
Nhà nƣớc cấp kinh phí để tham gia BHYT xã hội. Các đối tƣợng là trẻ em dƣới
6 tuổi đƣợc khám chữa bệnh miễn phí bằng nguồn ngân sách của Nhà nƣớc và
địa phƣơng và đang đƣợc xem xét để tham gia BHYT. Hình thức BHYT tự
nguyện đang đƣợc vận động thực hiện đối với học sinh, sinh viên và nhóm cộng
đồng theo địa bàn dân cƣ hoặc theo tổ chức xã hội.
1.3. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo
Con ngƣời trong cuộc sống, cũng nhƣ trong quá trình lao động ln phải
chịu ảnh hƣởng và chịu sự tác động của môi trƣờng xung quanh. Sự tác động
này bao gồm các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trong thời đại cơng nghiệp hố
hiện đại hố, lồi ngƣời lại chịu ảnh hƣởng của những thứ do chính mình gây ra,
đó là nền sản xuất cơng nghiệp đã phá vỡ môi trƣờng sinh thái do chất thải từ
các khu cơng nghiệp tạo ra. Thêm vào đó lao động khơng cịn đơn thuần là một
hành vi có ý thức của con ngƣời, không chịu bất cứ một ảnh hƣởng hay tác động
nào khác, mà ở nhiều nơi, nhiều ngƣời đã phải làm việc ở những môi trƣờng
nguy hiểm, độc hại. Mơi trƣờng xung quanh có tác động lớn đến sức khoẻ của
con ngƣời, nên ốm đau bệnh tật là khó ai tránh khỏi.
Đặc biệt ở nƣớc ta, hậu quả do chiến tranh để lại là rất nặng nề từ đó ảnh
hƣởng lớn đến sức khoẻ của nhân dân. Chính vì vậy mà nhu cầu đƣợc chăm sóc
sức khoẻ, bảo vệ sức khoẻ là một nhu cầu tất yếu của mọi ngƣời dân trong cộng
14


đồng xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu này càng tăng lên tuy vậy khi ốm
đau không phải ai cũng đủ khả năng để trang trải các khoản chi phí khám chữa
bệnh, đặc biệt là những ngƣời nghèo. Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định

BHYT là một trong những loại hình hoạt động có bản chất nhân văn, nhân đạo
cần phải đƣợc triển khai.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, ngành y tế cũng đã
có những bƣớc chuyển biến lớn, đi sát với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
do đó mà phƣơng tiện khám chữa bệnh ngày càng hiện đại và đắt tiền. Hệ thống
dịch vụ đƣợc nâng cấp, đội ngũ cán bộ y tế đƣợc đào tạo ngày một chu đáo hơn,
lành nghề hơn, trình độ quản lý kinh tế và hệ thống y tế ngày càng chặt chẽ hơn,
từ đó làm cho chi phí khám chữa bệnh tăng lên rất nhiều. Đặc biệt, ngày nay y
học đã phát triển mạnh mẽ, nhiều loại thuốc đặc trị ra đời, nên việc chăm sóc
sức khoẻ và chữa bệnh ngày càng đắt đỏ. Tình trạng này làm cho một bộ phận
lớn dân cƣ khơng có khả năng chi trả khi ốm đau, bệnh tật, buộc phải có sự hỗ
trợ của BHYT.
Mặt khác khi chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, dịch vụ khám chữa bệnh
thƣờng đắt đỏ, có thể nói là cao nhất trong tất cả các dịch vụ xã hội. Khi không
may bị ốm đau bệnh tật bất ngờ, đại đa số ngƣời dân không đủ khả năng tài
chính để bảo vệ sức khoẻ của mình cũng nhƣ gia đình. Điều này dẫn đến sự cần
thiết phải có một giải pháp để giải quyết vấn đề trên và Bảo hiểm y tế ra đời trên
cơ sở đó.
Hơn nữa nền kinh tế tăng trƣởng, đời sống nhân dân ngày càng đƣợc
nâng cao, tuổi thọ của ngƣời dân ngày càng đƣợc tăng lên, cơ cấu dân số đƣợc
chuyển dịch theo chiều hƣớng số ngƣời già nhiều lên, làm cho nhu cầu khám
chữa bệnh khơng ngừng tăng lên. Vì vậy hệ thống khám chữa bệnh, cơ sở vật
chất y tế chƣa đáp ứng nổi, đặc biệt ngân sách Nhà nƣớc không thể thoả mãn
đƣợc nhu cầu này. Chính vì thế chỉ có BHYT mới đáp ứng đƣợc với tính chất
huy động sự đóng góp của số đơng ngƣời khoẻ mạnh để bù đắp cho số ít ngƣời
ốm đau, giúp các gia đình, doanh nghiệp tháo gỡ đƣợc khó khăn.
15


Ở nƣớc ta đã có một thời gian dài, Nhà nƣớc dùng tiền từ ngân sách để lo

việc chữa bệnh cho nhân dân. Ðến nay khả năng đó rất hạn chế vì nhu cầu chữa
bệnh ngày càng tăng, chi phí y tế ngày càng đắt, trong khi đó cơ sở vật chất
ngành y tế ngày càng giảm sút, cần phải sửa chữa cũng nhƣ cần có thêm các
phƣơng tiện để điều trị hữu hiệu.
Việc thu một phần viện phí trong những năm qua khơng những khơng đủ
chi phí cho ngành y tế, vì mức thu đƣợc là q ít so với thực chi khám chữa
bệnh, mà còn tạo ra sự bất cơng mới, gây khó khăn cho ngƣời nghèo. Để khắc
phục từng bƣớc những điều chƣa tốt trong việc thu viện phí cần phải sớm tổ
chức thực hiện BHYT.
Từ những vấn đề trên, BHYT ra đời là tối cần thiết vì nó đáp ứng đƣợc
nguyện vọng của đại đa số ngƣời dân trong xã hội.
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của BHYT.
BHYT là một chính sách xã hội do nhà nƣớc tổ chức thực hiện, nhằm
huy động sự đóng góp của ngƣời sử dụng lao động, ngƣời lao động, các tổ chức
và cá nhân có nhu cầu đƣợc bảo hiểm, từ đó hình thành nên một quỹ và quỹ này
sẽ đƣợc dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh, khi một ngƣời nào đó khơng
may mắc phải bệnh tật mà họ có tham gia BHYT.
Mặc dù ở mỗi nƣớc khác nhau thì sẽ có các hình thức tổ chức khác nhau,
có nƣớc tổ chức độc lập với loại hình bảo hiểm khác, có nƣớc lại coi đây là một
trong những chế độ của BHXH. Ở nƣớc ta BHYT đã xác nhập vào BHXH kể từ
ngày 24/01/2002. Nhƣng mặc dù đƣợc tổ chức nhƣ thế nào đi chăng nữa, thì
BHYT vẫn có vai trị riêng biệt mang tính xã hội rộng rãi nhƣ sau:
Thứ nhất BHYT chính là biện pháp để xố đi sự bất cơng giữa ngƣời giàu
và ngƣời nghèo, để mọi ngƣời có bệnh đều đƣợc điều trị với điều kiện họ có
tham gia BHYT. Với BHYT, mọi ngƣời sẽ đƣợc bình đẳng hơn, đƣợc điều trị
theo bệnh, đây là một đặc trƣng ƣu việt của BHYT. BHYT mang tính nhân đạo
cao cả và đƣợc xã hội hố theo ngun tắc “Số đơng bù số ít”. Số đơng ngƣời
tham gia để hình thành quỹ và quỹ này đƣợc dùng để chi trả chi phí khám chữa
16



bệnh cho một số ít ngƣời khơng may gặp phải rủi ro bệnh tật. Tham gia BHYT
vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho xã hội. Sự đóng góp của mọi ngƣời chỉ là
đóng góp phần nhỏ so với chi phí khám chữa bệnh khi họ gặp phải rủi ro ốm
đau, thậm chí sự đóng góp của cả một đời ngƣời cũng khơng đủ cho một lần chi
phí khi mắc bệnh hiểm nghèo. Do vậy sự đóng góp của cộng đồng xã hội để
hình thành nên quỹ BHYT là tối cần thiết và đƣợc thực hiện theo phƣơng trâm:
“Mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”, khi khoẻ thì để hỗ trợ ngƣời ốm đau,
khi không may ốm đau thì ta lại nhận đƣợc sự đóng góp của cộng đồng, điều này
đã thực sự mang lại sự công bằng trong khám chữa bệnh.
Thứ hai: BHYT giúp cho ngƣời tham gia khắc phục khó khăn cũng nhƣ
ổn định về mặt tài chính khi khơng may gặp phải rủi ro ốm đau. Nhờ có BHYT,
ngƣời dân sẽ an tâm đƣợc phần nào về sức khoẻ cũng nhƣ kinh tế, bởi vì họ đã
có một phần nhƣ là quỹ dự phịng của mình giành riêng cho vấn đề chăm sóc
sức khoẻ, đặc biệt với những ngƣời nghèo chẳng may mắc bệnh. Nhƣ vậy
BHYT ra đời có tác dụng khắc phục hậu quả và kịp thời ổn định đƣợc cuộc sống
cho ngƣời dân khi họ bị ốm đau, tạo cho họ một niềm lạc quan trong cuộc sống,
từ đó giúp họ yên tâm lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất cho chính bản
thân họ và sau đó là cho xã hội, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
Thứ ba: Bảo hiểm y tế ra đời cịn góp phần giáo dục cho mọi ngƣời dân
trong xã hội về tính nhân đạo theo phƣơng châm: “ á lành đùm lá rách”, đặc
biệt là giúp giáo dục cho trẻ em ngay từ khi cịn nhỏ tuổi về tính cộng đồng
thơng qua loại hình BHYT học sinh - sinh viên.
Thứ tƣ: BHYT làm tăng chất lƣợng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông
qua hoạt động quỹ BHYT đầu tƣ. úc đó trang thiết bị về y tế sẽ hiện đại hơn,
có kinh phí để sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa bệnh hiểm nghèo, có điều
kiện nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh một cách có hệ thống và hoàn thiện
hơn, giúp ngƣời dân đi khám chữa bệnh đƣợc thuận lợi. Đồng thời đội ngũ cán
bộ y tế sẽ đƣợc đào tạo tốt hơn, các y, bác sỹ sẽ có điều kiện nâng cao tay nghề,


17


tích luỹ kinh nghiệm, có trách nhiệm đối với cơng việc hơn, dẫn đến sự quản lý
dễ dàng và chặt chẽ hơn trong khám chữa bệnh.
Thứ năm: BHYT cịn có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân
sách Nhà nƣớc. Hiện nay kinh phí cho y tế đƣợc cấu thành chủ yếu từ 4 nguồn:
Từ ngân sách Nhà nƣớc.
Từ quỹ BHYT.
Thu một phần viện phí và dịch vụ y tế.
Tiền đóng góp của các tổ chức quần chúng, của các tổ chức từ thiện và
viện trợ quốc tế.
Trong bốn nguồn trên từ khi chƣa có BHYT thì nguồn do ngân sách Nhà
nƣơc cấp là chủ yếu. Do vậy BHYT ra đời đã thực sự góp phần giảm bớt gánh
nặng cho ngân sách Nhà nƣớc.
1.5. Đối tƣợng tham gia và phạm vi BHYT
1.5.1. Đối tượng BHYT
BHYT nhƣ trên đã nói nhằm mục đích chăm lo sức khoẻ, khám bệnh và
chữa bệnh cho nhân dân do đó đối tƣợng của BHYT chính là sức khoẻ của mọi
ngƣời đƣợc bảo hiểm. Có nghĩa là nếu ngƣời đƣợc bảo hiểm gặp rủi ro về sức
khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật…) thì sẽ đƣợc cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi
thƣờng. BHXH ở nƣớc ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ
cấp ốm đau, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hƣu trí,
chế độ tử tuất nhƣ vậy cũng thể hiểu BHYT là chế độ khám chữa bệnh (KCB).
Hoạt động y tế thƣờng bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng.
Tuỳ theo tính chất và phạm vi hoạt động mà BHYT ở mỗi quốc gia có các loại
hình nhƣ: Phịng bệnh và chữa bệnh, Chữa bệnh và phục hồi chức năng. Ở các
quốc gia có các loại hình nhƣ vậy thì BHYT đƣợc gọi là Bảo hiểm sức khoẻ, còn
nếu chỉ gồm hoạt động chữa bệnh thì chỉ gọi là BHYT.
1.5.2. Đối tượng tham gia BHYT


18


×