Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.78 KB, 83 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
ưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan
tâm đến sức khoẻ của nhân dân lao động, đặc biệt là của học sinh,
sinh viên trong các trường học. Sau khi cách mạng Tháng Tám
thành công, trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Bác Hồ đã viết:”Giữ gìn
dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức khoẻ
mới thành công” (Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Hồ Chủ Tịch ngày 27
tháng 3 năm 1946).[59,60]
D
Năm 1954 sau ngày hoà bình lập lại, đặc biệt là sau khi đất nước thống
nhất năm 1975, cả nước ta đã hình thành một phong trào tập luyện TDTT rộng
rãi, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, trong đó có học sinh, sinh
viên. Phong trào này diễn ra liên tục trong suốt 40 năm qua và nó đã góp phần
to lớn vào sự nghiệp củng cố, nâng cao sức khoẻ phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN.
Ở các trường học, từ bậc mẫu giáo, phổ thông đến bậc đại học, Bộ Giáo
dục và đào tạo đã quy định một chương trình GDTC bắt buộc, nhằm đào tạo
con người mới - con người XHCN, phát triển toàn diện về các mặt đức, trí,
thể, mỹ. Tuy nhiên, sau nhiều năm chiến tranh liên tục, do điều kiện kinh tế
còn gặp nhiều khó khăn, nên cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, chưa được
thoả mãn nhu cầu tập luyện TDTT, ở hầu hết các trường Đại học còn nhiều
khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất, chưa thoả mãn nhu cầu tập luyện của
sinh viên. Hơn nữa, ở các trường đại học trong cả nước, chương trình GDTC
chỉ mới tập trung ở hai năm đầu, bao gồm những nội dung chính của môn điền
kinh, thể dục và một số môn thể thao tự chọn, thời gian còn lại của hai năm
cuối sinh viên không bị những điều kiện ràng buộc nên hầu hết sinh viên ít
hoặc không tham gia luyện tập TDTT.[20,22,25]
Những năm gần đây, trong chương trình nghiên cứu khoa học của các
tác giả Vũ Đức Thu, Lưu Quang Hiệp (1986, 1990), Trần Văn Tác, Bùi Hoàng
1
1


Phúc (1998), Phạm Thị Nghi, Phạm Thu Thái (1999), Trần Thuỳ Linh, Phạm
Tất Thắng (2002), đều xác nhận tình trạng thể lực của sinh viên cuối khoá ở
các trường đại học đều giảm sút. Điều đó, buộc các nhà sư phạm trong lĩnh
vực GDTC phải tìm ra những biện pháp khắc phục, với mục đích duy trì trạng
thái thể lực, sức khoẻ cho sinh viên trong suốt quá trình học, để sau khi tốt
nghiệp, sinh viên có sự chuẩn bị đầy đủ về sức khoẻ và kiến thức, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.[41,61]
Ngày nay, công cuộc đổi mới trên đất nước ta đang diễn ra với tốc độ
nhanh và mạnh mẽ, sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước đòi hỏi
đội ngũ thanh niên không chỉ có tri thức khoa học vững vàng, có đạo đức trong
sáng, mà còn cần có sức khỏe tốt.
Trường đại học Dân Lập Thăng Long là một trong những trường đào tạo
đội ngũ cán bộ về lĩnh vực tin học, quản lý và ngôn ngữ, phần đông sinh viên
là nữ có độ tuổi 18 - 22. Song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo
chuyên môn, nhà trường còn chú trọng đến công tác GDTC cho nữ sinh viên.
Theo số liệu nghiên cứu ban đầu, tình trạng thể lực của nữ sinh viên trong
những năm qua chủ yếu tăng ở hai năm đầu là do có luyện tập TDTT thường
xuyên, ở hai năm tiếp theo, tình trạng thể lực của sinh viên hướng giảm sút
đáng lo ngại. Tuy nhiên, trong các giờ nhàn rỗi buổi sáng, buổi chiều, đã xuất
hiện nhiều sinh viên tham gia tập chương trình GDTC của Bộ Giáo Dục và
Đào Tạo quy định. Song, việc tập luyện của hầu hết sinh viên còn mang tính tự
phát, thiếu hướng dẫn tổ chức và quản lý của trường, Hội thể thao sinh viên.
Thể dục tổng hợp cổ truyền là môn tập được nữ thanh niên ưa thích,
việc tổ chức tập luyện môn tập này không đòi hỏi điều kiện tập luyện phức tạp,
nhưng góp phần làm phong phú hiệu qủa cao về sức khoẻ, giáo dục nhân cách,
nếp sống lành mạnh và đặc biệt là tạo dáng vẻ đẹp cho người tập - một nhu cầu
của sinh viên hiện nay. Qua điều tra sơ bộ, ở 4 khoá học từ năm thứ nhất đến
năm thứ tư, có tới 65 - 70% số sinh viên nữ trả lời có nguyện vọng tập môn thể
dục tổng hợp cổ truyền.[38]
2

2
Một vấn đề quan trọng đặt ra là phải sớm nghiên cứu hình thức tập
luyện và xây dựng một chương trìng giảng dạy hợp lý, phong phú nội dung tập
luyện ở hai năm đầu và nâng cao hiệu quả môn tập tự chọn ở hai năm cuối cho
sinh viên.
Trên cơ sở ý nghĩa của công tác GDTC cho sinh viên, nhất là sinh viên
nữ, do tầm quan trọng của môn thể dục tổng hợp cổ truyền đối với đối tượng
tập luyện này, chúng tôi nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp
cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh
trường đại học Dân Lập Thăng Long”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở đánh giá sự phát triển thể chất nữ sinh viên của trường đại
học Dân Lập Thăng Long, chúng tôi biên soạn chương trình tập luyện thể dục
dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền được thực hiện bắt buộc nhằm nâng cao trình
độ thể chất cho nữ sinh viên.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để giải quyết đề tài nghiên cứu trên đây, các nhiệm vụ sau đây được đặt
ra:
1.Điều tra sự phát triển thể chất của nữ sinh viên trường đại học Dân
Lập Thăng Long Hà nội.
2. Nghiên cứu hiệu quả chương trình thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ
truyền đối với sự phát triển thể chất của nữ sinh viên trường đại học Thăng
Long Hà nội.
3
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Quan điểm của Đảng và nhà nước về Giáo dục thể chất cho học sinh,
sinh viên các trường học.
Từ trước tới nay, trung thành với học thuyết Mác - Lê Nin, Đảng, nhà

nước ta và Hồ Chủ Tịch rất chú ý đến giáo dục toàn diện cho thế hệ thanh
thiếu niên, học sinh, sinh viên trong các trường học từ phổ thông đến đại học,
thường xuyên quan tâm đến TDTT, coi đó là một mục tiêu quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh thiếu niên. Với tư tưởng chỉ đạo
đó, Đảng, nhà nước ta không ngừng tạo ra những điều kiện kinh tế và xã hội
thuận lợi, để biến học thuyết phát triển con người toàn diện thành hiện thực
trong đời sống xã hội nước ta. [59,60]
Tư tưởng của học thuyết Mác - Lê Nin về thể dục thể thao đã được cụ
thể hoá trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính phủ và của Hồ Chủ Tịch.
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và là nhà văn hoá lớn, sinh
thời, Bác rất quan tâm đến hoạt động TDTT, lịch sử đã chứng minh: Bác Hồ là
người khai sinh, người sáng lập nền TDTT cách mạng nước ta. Tư tưởng bao
trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT mới của nước ta
là sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác TDTT, là nhu cầu khách
quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi một người dân yêu nước.
Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp
phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cường nước thịnh. Những ý tưởng đó,
được xuyên suốt trong các lời huấn thị, văn kiện, bài viết của Bác Hồ.[3,10,59]
Ngay từ tháng 3 năm 1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận
Việt Minh, Bác Hồ nêu rõ: “Khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân,
làm cho nòi giống thêm khoẻ mạnh”. Sau khi nước nhà vừa mới độc lập, chính
quyền Cách mạng còn non trẻ, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như
4
4
thù trong, giặc ngoài, kinh tế đói kém, xã hội chưa ổn định... Vậy mà, ngày 30
tháng 1 năm 1946, với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành
lập Nha thể dục trung ương thuộc bộ thanh niên, trên cơ sở: “Xét vấn đề thể
dục rất cần thiết, để bồi bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”.
Ngay sau đó, ngày 27.3.1946, Hồ Chủ Tịch lại ra Lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục. Trong thư, lần đầu tiên người đã chỉ ra cho nhân dân ta thấy rằng: “Giữ

gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức
khỏe mới làm thành công:, và người cũng đã chỉ rõ: Muốn có sức khỏe thì:
“Nên tập luyện thể dục thể thao” và coi đó là: “Bổn phận của mỗi ngưòi dân
yêu nước”.[60]
Ngày 31.3.1960, Bác Hồ đã tự tay viết thư gửi hội nghị cán bộ TDTT
toàn miền Bắc. Trong thư Người dạy: “Giữ Gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công”, và
Người đã chỉ rõ muốn có sức khoẻ thì: “Nên luyện tập “Muốn lao động, sản
xuất và học tập tốt, thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường
xuyên luyện tập TDTT. Vì vậy, chúng ta nên phát triển phong trào TDTT cho
rộng khắp. Đồng thời, Bác còn luôn qua tâm đến sức khoẻ của nhân dân, Bác
rất tin yêu và luôn quan tâm đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ. Về thăm
trường đại học TDTT TW I năm 1961, Bác đã căn dặn: “Các cháu học TDTT ở
đây không phải đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng kia mà cái chính là làm
người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết của mình hướng
dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật”.[59,60]
Đề cập về tầm quan trọng của thể dục thể thao khi phê phán tình trạng
yếu kém về GDTC trong nhà trường của nước ta thời Pháp thuộc, Phan Bội
Châu - một nhân sỹ yêu nước lỗi lạc đã viết: “Các môn trong trường tiểu học,
không có môn gì quan trọng hơn môn thể dục, thế mà trong trường không có
môn học đó. Thể dục tay không, thể dục với vũ khí, thể dục giải trí cho đến các
thứ vận động khác, đều không được đưa vào trong chương trình giảng dạy. Lạ
hơn nữa, là các trường tiểu học của trẻ em người Pháp thì có sân thể dục, sân
5
5
vận động, mà trường tiểu học của con em người Việt Nam thì ngược lại vì trẻ
em người Việt Nam mà khoẻ mạnh thì người Pháp “không ưa”, nên môn thể
dục phải là môn “nghiêm cấm”.
Sau Cách Mạng Tháng Tám thành công, Đảng và nhà nước ta luôn quan
tâm đến nền TDTT cách mạng. Đảng lãnh đạo công tác TDTT bằng việc hoạch

định dường lối, quan điểm, chính sách, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế
hoạch, đưa công tác TDTT lên một tầm cao mới. Trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội năm 2001 – 2002, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh hoạt động
thể thao, nâng cao thể trạng và tầm vóc người Việt Nam”.[7]
Đường lối quan điểm của Đảng được thể hiện ở nhiều nghị quyết, chỉ thị
trong suốt thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên
xây dựng CNXH, qua các thời kỳ Đại Hội Đại biểu toàn quốc của Đảng:
“Từng bước xây dựng nền TDTT XHCN phát triển cân đối, có tính chất dân
tộc, khoa học và nhân dân”.[3,6,8]
“Công tác TDTT cần coi trọng, nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân rèn luyện thân
thể hàng ngày”.[5]
Giáo dục toàn diện là mục tiêu luôn luôn được Đảng và nhà nước luôn
quan tâm, nhằm chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21. Bàn
về định hướng công tác giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ trong những
năm tới: nghị quyết TW II, khoá 8 đã khẳng định: “Cùng với khoa học công
nghệ, Giáo dục và đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu” [19].
“Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh phải
có con người phát triển toàn diện, tức là không chỉ phát triển về mặt trí tuệ,
đạo đức, mà còn phải cường tráng về thể chất, là trách nhiệm của toàn xã hội,
của tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục và đào tạo, y
tế và TDTT”.[59]
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
trong giai đoạn mới nêu rõ: “Những năm gần đây, công tác TDTT đã có nhiều
6
6
tiến bộ, phong trào TDTT từng bước mở rộng với nhiều hình thức, ở một số
ngành, địa phương đã được chú ý đầu tư nâng cấp, xây dựng mới. Tuy nhiên,
TDTT ở nước ta đang ở trình độ thấp, số người thường xuyên tập luyện TDTT
còn rất ít, đặc biệt là thanh niên chưa tích cực tham gia tập luyện. Hiệu quả

GDTC trong các trường học và trong các lực lượng vũ trang còn thấp”[18].
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém là do: nhiều cấp uỷ Đảng,
chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và còn xem nhẹ vai trò TDTT trong sự
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người; Chưa thực sự coi
TDTT là một bộ phân trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng, nhà nước chưa có chế độ phù hợp với yêu cầu phát triển TDTT, đầu tư
cho lĩnh vực này còn kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, nhằm phát triển TDTT.
Trước tình hình mới, sự nghiệp TDTT cần phát triển theo định hướng đã
nêu rõ: “TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế
xã hội của Đảng và nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe thể lực, giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh
thần của nhân dân, nâng cao năng xuất lao động của xã hội và sức chiến đấu
của các lực lượng vũ trang” (trích chỉ thị 36 CT/TW, ngày 24.3, Năm1994 của
Ban Bí Thư Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới) [9,18].
Chỉ thị 36 CT/TW còn khẳng định: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công
tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao
sức khoẻ, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện
GDTC trong tất cả các trường học, nhằm mục tiêu làm cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết sinh viên” [18].
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp TDTT nước nhà,
Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy
hoạch ngành TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành TDTT phải xây dựng định hướng
phát triển có tính chất chiến lược, trong đó quy định các môn thể thao và các
7
7
hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo
thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao quần chúng, khoẻ để xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”. Bộ giáo dục và đào tạo cần đặc biết coi trọng việc GDTC

trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại khoá, quy
định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, phải có sân bãi,
nhà tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ
giáo viên TDTT, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp học. Bộ giáo dục và đào tạo
cần có một thứ trưởng chuyên trách chỉ đạo công tác TDTT trường học” [21].
Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, ngày 21.4.1997, Bộ trưởng
Bộ giáo dục và đào tạo và Tổng cục TDTT (nay là Bộ văn hóa, thể thao và du
lịch), đã ký văn bản thoả thuận đề nghị chính phủ phê duyệt kế hoạch phát
triển đến năm 2010, trong đó nêu rõ một số điểm sau đây[23,24]:
- Mục tiêu GDTC trường học từ mẫu giáo đến đại học là góp phần đào tạo thế
hệ trẻ phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ và thể chất phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Do điều kiện giảng dạy nội khoá chưa đáp ứng được yêu cầu của GDTC, Bộ
giáo dục và đào tạo và uỷ ban TDTT chỉ đạo các trường học, khuyến khích và
hướng dẫn học sinh tập luyện những môn thể thao ưa thích tại trường, gia đình
và các câu lạc bộ thể thao nơi cư trú.
- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể thao cấp học, đặc biệt là Hội khoẻ Phù
đổng, phát triển mạnh các câu lạc bộ TDTT và các trung tâm thể thao sinh
viên, làm cơ sở tập luyện nâng cao thành tích một số môn thể thao trọng tâm
và vấn đề GDTC cho sinh viên trường học.[25]
- Quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Hiến Pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật của chính phủ về
công tác TDTT trong tình hình mới, cũng tiếp tục khẳng định cần phải khắc
phục thực trạng giảm sút thể lực của sinh viên hiện nay. Hai ngành giáo dục và
đào tạo - TDTT đã thống nhất những nội dung biện pháp và hợp đồng trách
nhiệm chỉ đạo, nhằm thúc đẩy nhanh và nâng cao chất lượng GDTC cho sinh
8
8
viên: “Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình mục tiêu cải tiến nâng cao
chất lượng GDTC” [33,34,35,36,37].

Với nội dung phối hợp giữa hai ngành, Bộ giáo dục và đào tạo đã chỉ
đạo các cấp học giảng dạy thể dục ngoại khoá, theo chương trình kế hoạch có
nề nếp, đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy phạm đánh giá quá trình
dạy - học thể dục, quy chế GDTC sinh viên; nghiên cứu và diều chỉnh chương
trình thể dục các cấp, thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho sinh
viên. Từng bước áp dụng thống nhất giữa các vùng, khu vực trên toàn quốc.
Điều chỉnh và ban hành tài liệu giảng dạy bao gồm sách giáo khoa, sách hướng
dẫn phương pháp giảng dạy, tập luyện TDTT cho từng cấp học. Bảo đảm cơ sở
vật chất tối thiểu để phục vụ việc thực hiện chương trình ngoại khoá; phát
động phong trào tập luyện rộng khắp trong các nhà trường, với mục tiêu: “Mỗi
sinh viên biết chơi một môn thể thao”; Chỉ đạo việc cải tiến chương trình, hình
thức hoạt động TDTT ngoại khoá, mở rộng mạng lưới câu lạc bộ TDTT sinh
viên. Tập trung hỗ trợ về cán bộ, cơ sở vật chất để củng cố, thành lập câu lạc
bộ TDTT mới, để thu hút nhiều sinh viên tham gia tập luyện.[20,21,22]
Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo, đã ban hành quy chế 931/RLTC về
công tác GDTC trong nhà trường là: “Các trường từ mầm non đến đại học phải
đảm bảo thực hịên dạy môn thể dục theo quy định cho học sinh, sinh viên”.
GDTC bao gồm nhiều hình thức và có liên quan chặt chẽ với nhau. Giờ học
thể dục, tập luyện thể thao theo chương trình, giờ tự tập luyện của học sinh,
sinh viên, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. TDTT là phương tiện
quan trọng để giáo dục thể chất. Chương trình thể dục và các hình thức GDTC
khác được sắp xếp phù hợp với trình độ sức khoẻ, giới tính và lứa tuổi. Hàng
năm, sinh viên tự tập luyện thể thao ngoại khoá ở trường, ở nhà (ở ký túc xá
đối với các trường có học sinh nội trú). Nhà trường phải có kế hoạch hướng
dẫn học sinh, sinh viên tập luyện thường xuyên, tổ chức ngày hội thể thao của
trường và xây dựng thành nề nếp truyền thống. Kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện
9
9
thân thể theo lứa tuổi và chỉ tiêu phát triển thể lực cho học sinh, sinh viên theo
quy định của chương trình GDTC”.[25]

GDTC trong các trường đại học và cao đẳng có tác dụng tích cực trong
việc hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách của người sinh viên.
Tăng cường và phát triển thể chất, phục vụ tốt cho công tác học tập, nghiên
cứu khoa học, đồng thời trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp khoa
học tập luyện thể thao, củng cố và trau dồi sức khoẻ góp phần xây dựng phong
trào TDTT lớn mạnh trong nhà trường. Để đáp ứng với yêu cầu, mục tiêu đào
tạo, Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành chương trình GDTC trong các trường
đại học, nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục: Trang bị kiến thức, kỹ năng
về rèn luyện thể lực cho học sinh, sinh viên.
Thể chất của con người biến đổi theo xu hướng nhất định. GDTC là một
quá trình nhằm hoàn thiện về mặt hình thể và chức năng của cơ thể con người,
nhằm hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ sảo vận động cơ bản quan
trọng trong đời sống, trong lao động sản xuất và chiến đấu. Trong các trường
đại học và cao đẳng, GDTC là mộ bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện
cho sinh viên, Bác Hồ đã nói: “Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh thì mới
tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”.[60]
1.2 Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện
cho sinh viên.
1.2.1 Nhiệm vụ của giáo dục thể chất cho sinh viên.
Để đạt được mục tiêu GDTC cho thế hệ trẻ, đặc biệt là đối tượng sinh
viên các trường đại học và chuyên nghiệp, cần giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
- Nâng cao thể chất và sức khoẻ cho sinh viên.
Thể chất là đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của
cơ thể con người, được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều
kiện sống.
Thể chất bao gồm thể hình, năng lực thể chất và năng lực thích ứng.
10
10
Thể hình liên quan đến hình thái, cấu trúc của thân thể, bao gồm trình độ

phát triển của cơ thể, những chỉ số tuyệt đối và tương đối của toàn thân hoặc
từng bộ phận và tư thế thân thể.
Năng lực thể chất thể hiện khả năng chức năng của các hệ thống, cơ
quan trong cơ thể, qua hoạt động cơ bắp là chính. Nó bao gồm các tố chất vận
động (sức nhanh, sức mạnh, độ dẻo, tính khéo léo, khả năng phối hợp vận
động), cùng các năng lực vận động cơ bản (đi, chạy, nhảy, ném, leo, chèo,
mang, vác). Một hoạt động vận động cụ thể, bao giờ cũng đòi hỏi một năng lực
thể chất cụ thể tương ứng.[50]
Năng lực thích ứng thể hiện khả năng thích ứng của cơ thể với hoàn
cảnh bên ngoài. Không chỉ là sự thích ứng đơn giản, mà còn là sự đề kháng với
bệnh tật phát sinh.
- Thúc đẩy phát triển thể hình lành mạnh.
Sự phát triển của thể hình chủ yếu dựa vào sự phát triển (lớn mạnh) của
từng tế bào và các chất gian bào, chính sự phát dục lại chỉ sự biến đổi về chức
năng và hình thái của các hệ thống và cơ quan trong cơ thể. Hai khái niệm
trên, có chỗ giống nhau và khác nhau, tuy chúng đều chỉ sự chi phối của các
yếu tố di truyền, dinh dưỡng, sự lớn mạnh tự nhiên và điều kiện sống. Tập
luyện TDTT có thể đẩy mạnh, nâng cao hơn thể trạng và duy trì được lâu hơn,
làm chậm quá trình suy giảm khi tuổi cao.
Sự hoàn thiện về thể hình và tư thế thân thể, làm cho ngoại hình thêm
đẹp, phần nào cũng phản ánh mức hoàn thiện về chức năng. Ngày nay, người
ta còn coi đó cũng thể hiện một phần bộ mặt tinh thần, văn minh của dân tộc.
Mặt khác, một cơ thể cường tráng lại là cơ sở vật chất của các năng lực chức
năng khác.[50,55]
- Phát triển toàn diện các năng lực thể chất.
Năng lực thể chất bao giờ cũng gắn chặt chẽ với chức năng của cơ thể.
Khi ta tập luyện chạy bền, thì đồng thời nâng cao được khả năng hoạt động lâu
dài của các hệ thống tim mạch, hô hấp, cơ bắp. Do đó, phát triển toàn diện các
11
11

năng lực thể chất cũng là một nhân tố quan trọng, thúc đẩy sự cải thiện về hình
thái chức năng và ngược lại. Đồng thời năng lực thể chất còn là điều kiện tất
yếu, đầu tiên cho sự tiếp thu, nâng cao trình độ thể thao của người tập.
- Nâng cao năng lực thể chất của cơ thể.
Tập luyện lâu dài, có hệ thống trong các điều kiện đa dạng, thay đổi về
thời tiết, khí hậu, địa thế sẽ có lợi cho nâng cao năng lực thích ứng trước các
điều kiện tự nhiên khác nhau. Mặt khác, cũng làm tăng cường khí huyết lưu
thông và khả năng tạo máu, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, do đó sẽ nâng
cao được sức đề kháng với vi khuẩn gây bệnh, bệnh tật và kịp thời góp phần,
trị được cả những căn bệnh của nền văn minh (động mạch vành, béo phì huyết
áp, tâm thần).
Thân thể, tinh thần và trí tụê con người không tách rời nhau, thể chất
cường tráng, tinh lực sung mãn, sức sống dồi dào, có ảnh hưởng to lớn đến
trạng thái tinh thần của con người và ngược lại. Kinh nghiệm và y học cổ kim,
đông tây y đã nói nhiều tới ảnh hưởng của những vết thương tinh thần của các
cơ quan trong cơ thể. Đồng thời, nhiều đời nay người ta đã biết đến những
dạng tập luyện TDTT để điều hoà trạng thái tâm lý, phòng trị một số bệnh tật.
Do đó, khi nói về tác dụng của TDTT, về giá trị sức khoẻ, Bác Hồ luôn gắn:
“Khí huyết lưu thông” và “tinh thần đầy đủ” với nhau. [50,55,56]
- Thể dục thể thao góp phần làm phong phú đời sống văn hoá và giáo dục con
người mới.
Thực tế nước ta cũng như nhiều nước khác cho thấy: Giải trí, tập luyện,
biểu diễn, thi đấu… về TDTT là một nhu cầu ngày càng nhiều, mạnh, không
thể thiếu hoặc thay thế đựơc. Nếu làm tốt, nó có thể góp phần đáng kể vào việc
xây dựng đời sống văn hoá vui tươi lành mạnh và văn minh trong xã hội. Còn
ngược lại, nó cũng ảnh hưởng xấu và hậu quả cũng rất phức tạp, dễ lan rộng.
Trong xã hội hiện đại, thể thao và văn nghệ với những đặc tính riêng của nó,
đã có sức thu hút và ảnh hưởng rộng lớn với thanh thiếu niên, là một nhu cầu
12
12

không thể thiếu được. Đó cũng là một công cụ để chuyển tải những giá trị tư
trưởng, tinh thần của một chế độ đến với họ.[46]
Là những chuẩn mực và phép tắc của một chế độ chính trị - kinh tế nhất
định, đặt ra để quy định mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với
xã hội, nhằm phục vụ cho chế độ xã hội chúng ta, đạo đức có vai trò hàng đầu,
“cái gốc” trong giáo dục con người. Đó là một quá trình tác động có mục đích
có kế hoạch đến ý thức, tình cảm và hành vi con người, nhằm bồi dưỡng nền
đạo đức tốt đẹp của họ. Khi con người đã có đạo đức, phẩm chất tốt, họ sẽ tự
nguyện, tích cực cống hiến toàn bộ sức mình cho đất nước. [56]
Các nhiệm vụ trên có liên quan mật thiết với nhau, cần kết hợp chặt chẽ
trong khi thực hiện. Chúng cần được quán triệt phù hợp với từng bộ phận trong
hoạt động TDTT như: dạy học TDTT, huấn luyện thể thao, thi đấu thể thao,
rèn luyện thân thể hàng ngày, giữa chúng có những nét chung và khác biệt.
Nhiệm vụ ưu thế, tính chất, mức độ, yêu cầu và cách thức thực hiện có chỗ
khác nhau.
Rèn luyện thân thể hàng ngày là một quá trình hoạt động TDTT trong
quần chúng có nhiệm vụ chính là tăng cường thể chất.
Huấn luyện thể thao là một quá trình GDTC đặc biệt, nhằm không
ngừng nâng cao trình độ các tố chất vận động, kỹ - chiến thuật chuyên môn,
đạo đức, ý chí chiến đấu thể thao, lại là một biện pháp quan trọng để kiểm tra,
thúc đẩy, nâng cao hiệu quả của GDTC, rèn luyện thân thể, huấn luyện thể
thao.
Do đó, khi thực hiện các nhiệm vụ TDTT trên từng bộ phận, từng người,
cần nắm rõ chức năng chuyên môn cụ thể của mình, không thể lẫn lộn, thay
thế hoặc bỏ qua. Nếu từng bộ phận nhỏ thực hiện tốt theo đúng chức năng của
mình, sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ lớn chung của TDTT trong cả nước.
1.2.2 Những nguyên tắc giáo dục thể chất cho sinh viên.
1.2.2.1 Nguyên tắc phát triển hợp lý con người toàn diện và cân đối
13
13

Bác Hồ nói: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người mới
XHCN”. Câu nói đó, có ý nghĩa sâu sắc với công tác TDTT của chúng ta.
Ngay từ bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ hiện nay, TDTT trước hết và chủ
yếu gắn với và phục vụ cho sự nghiệp đào tạo con người, từng bước góp phần
giải quyết một mâu thuẫn của xã hội cũ để lại – nhu cầu của những tiến bộ
trong sản xuất xã hội với con người và điều kiện phát triển hạn chế của họ. Đó
không chỉ là một mong muốn, tiềm năng, mà là một sự cần thiết thật sự cho
tiến bộ xã hội. Có hai yêu cầu chính khi quán triệt nguyên tắc này trong TDTT.
[59,60]
Thứ nhất khi thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong TDTT (hình thành
các kỹ năng vận động, phát triển các tố chất cận động…) phải chú ý bảo đảm
sự thống nhất giữa các mặt giáo dục, nhằm bồi dưỡng sinh viên thành con
người phát triển toàn diện, hợp lý. Tiền đề tự nhiên của mối tương quan giữa
các mặt giáo dục trên là sự thống nhất khách quan, không thể tách rời giữa sự
phát triển về thể chất và tinh thần của con người. Điều này, đã được nhiều nhà
khoa học về con người làm sáng tỏ. Bởi vậy, sự phân chia thành các mặt thể
chất, trí tuệ, thẩm mỹ, đạo đức… chỉ có ý nghĩa ưu thế tương đối, tuy chúng
không đồng nhất. Bản thân tiền đề tự nhiên của mối liên hệ này không thể biến
thành hiện thực, mà phải thông qua quá trình thực hiện giáo dục thống nhất,
kết hợp có mục đích và hợp lý các mặt giáo dục trên. Trong hoạt động TDTT,
cũng như các mặt văn hoá, giáo dục khác, phải có cách tiếp cận đồng bộ.
Trong đó, đức dục đóng vai trò chủ đạo, thì mới đạt được hiệu quả tốt trong
các mặt giáo dục khác.[46]
Thứ hai: phải cố gắng sử dụng đồng bộ các nhân tố, phương tiện, hình
thức hoạt động thể dục thể thao, sao cho phát triển toàn diện các tố chất thể
lực, năng lực vận động và có một “vốn” kỹ năng, kỹ xảo rộng rãi, phong phú,
cần thiết cho sự sống nói chung và hoạt động chuyên môn nói riêng.
Yêu cầu này bắt nguồn từ sự cần thiết chuẩn bị thể lực toàn diện cho
cuộc sống, phản ánh tính quy luật tự nhiên của sự phát triển thể chất con
14

14
người. Qua quá trình tiến hoá tự nhiên hàng vạn, hàng triệu năm, cơ thể chúng
ta ngày nay thực sự là thực thể hữu cơ, thống nhất và hoàn chỉnh. Những đặc
tính, chức năng của nó liên quan, tương tác và làm tiền đề cho nhau. Trong đó,
sự phát triển một đặc tính tự nhiên của cơ thể theo một hướng nào đó, bao giờ
cũng ảnh hưởng, chịu sự phụ thuộc vào sự phát triển của nó trong các hướng
khác nhau. Đương nhiên, sự phát triển thể chất toàn diện phải phù hợp với
những quy luật tự nhiên của sự tồn tại và hoàn thiện của cơ thể, đảm bảo được
mối tương quan giữa các đăc tính đã được hình thành trong quá trình tiến hoá,
đồng thời cũng mở rộng và nâng cao những khả năng thích nghi của cơ thể
trước những điều kiện luôn thay đổi từ bên ngoài. Đúng như P.F.Létsgáp, một
nhà lý luận GDTC nổi tiếng người Nga đã nói: “Chỉ có phát triển cân đối tất cả
các cơ quan, cơ thể con người mới thực sự được hoàn thiện và hoàn thành
được công việc lớn nhất với sự phát triển toàn diện này, không chỉ có ý nghĩa
tự nhiên mà còn cả xã hội”.[56]
Song, những yêu cầu, tiêu chuẩn về phát triển thể chất toàn diện, cần
được cụ thể hoá, căn cứ vào đặc điểm cá nhân, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
môn thể thao… Nói một cách khác, mức phát triển này phụ thuộc vào những
nhân tố di truyền – cá biệt và một phức hợp những điều kiện thay đổi trong đời
sống và hoạt động. Không nên hiểu đó là sự phát triển dàn đều, đồng loạt như
nhau, theo một phương thức cứng nhắc.
Về nguyên tắc, sự phát triển cân đối các tố chất vận động, không chỉ có
ý nghĩa là không cho phép. Trên cơ sở đó, ưu thế phát triển những tố chất,
phẩm chất trội theo yêu cầu của hoạt động chuyên môn, đồng thời vẫn đảm
bảo mối quan hệ hợp lý với các tố chất, phẩm chất khác. Có thể thấy rõ hơn
điều này trong chuẩn bị thể lực cho VĐV các môn thể thao khác nhau cho
những người làm các nghề đặc biệt. Ở đây, cần kết hợp giữa chuẩn bị thể lực
chung và chuyên môn. Nhưng cái gốc, cơ bản, phổ thông, ban đầu nhất đối với
mọi người dân phải là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đó là quy định về yêu cầu
phát triển thể chất toàn diện với mọi người.

15
15
1.2.2.2. Nguyên tắc TDTT kết hợp và phục vụ cho lao động, quốc phòng.
Trong một xã hội nhân đạo, sự phát triển con người toàn diện và cân đối
không mâu thuẫn với những mục đích thực dụng của TDTT, mà ngược lại
chúng gắn liền và hòa nhập với nhau. Bởi vậy, sau nguyên tắc đầu tiên trên,
còn có một nguyên tắc về tính thực dụng của hoạt động TDTT. Nguyên tắc về
mối liên hệ giữa TDTT và cuộc sống thực tế xã hội, trước hết phải gắn với lao
động và quốc phòng.
Trong lý luận TDTT, khi bàn về nguồn gốc của TDTT, đã có trình bày
phần nào về chức năng thực dụng, phục vụ cho lao động và quốc phòng trong
lịch sử loài người. Đặc điểm của sự thực hiện chức năng này và ảnh hưởng của
chúng đến phát triển nhân cách con người, chủ yếu phụ thuộc vào phương thức
kinh tế - xã hội. Cũng có người cho đó là quan điểm thiển cận, vụ lợi, đối
nghịch với sự phát triển tự nhiên của con người, làm sai lệch bản chất vốn có
của TDTT. Nhưng họ đã vô tình hoặc hữu ý quên một điều quan trọng: Sự tự
do phát triển của con người không bao giờ chung chung, ngược lại, lúc nào
cũng trước hết phải gắn với chức năng hoạt động cơ bản của họ, theo một nghề
nghiệp cụ thể trong đời sống. Chúng ta không đào tạo ra con người chỉ để làm
vật phụ thuộc vào cái máy, nhưng cũng không phát triển họ không theo một
định hướng cụ thể nào. Hiểu rõ điều này, rõ ràng thấy rõ sự thống nhất biện
chứng giữa chúng.
Khi quán triệt nguyên tắc này, cần tuân theo những yêu cầu sau:
a) Hoạt động TDTT trước hết phải nhằm hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận
động cần thiết cho đời sống.
Trong việc lựa chọn những phương tiện tập luyện TDTT, nếu các điều
kiện, yêu cầu khác nhau, thì ưu tiên chọn các bài tập có kỹ năng, kỹ xảo vận
động thực dụng. Có nhiều bài tập để luyện sức bền chung như chạy đường dài,
ngồi xuống - đứng lên nhiều lần… nhưng có hiệu quả thực dụng nhất trong
trường hợp này là chạy dai sức, vì nó còn gắn với một số nước, yêu cầu tối

16
16
thiểu về kỹ năng vận động thể hiện trong các tiêu chuẩn rèn luyện thân thể nói
chung, hoặc trong chương trình giáo dục thể chất cho các đối tượng cụ thể.
b) Hiệu quả thực dụng của hoạt động TDTT không chỉ thể hiện qua vốn kỹ năng,
kỹ xảo vận động phong phú tiếp thu được, mà còn cả ở mức phát triển đa dạng
các năng lực thể chất, trong đó tố chất thể lực có vai trò quan trọng.
Đương nhiên, không ai có thể chuẩn bị được trước mọi kỹ năng, kỹ xảo
và tố chất vận động cần thiết cho các hình thức hoạt động khác nhau trong đời
sống, bởi vì cuộc sống và điều kiện của nó rất đa dạng và luôn thay đổi. Nhưng
nếu có vốn kỹ năng, kỹ xảo rộng rãi, thì bao giờ cũng đáp ứng nhanh, tốt với
yêu cầu mới, ngày càng cao hơn. Ở đây, một lần nữa lại thấy rõ mối liên hệ
chặt chẽ giữa hai nguyên tắc đã phân tích ở trên.
c) Tác dụng giáo dục nhân cách qua hoạt động TDTT, trước hết cần thể hiện
trong giáo dục lao động, lòng yêu nước và trách nhiệm công dân.
Có thể có người tuy rất khoẻ, nhưng ít có ích, hoặc thậm chí làm hại cho
xã hội, nếu họ không có định hướng, đạo đức không tốt. Bởi vậy, đó cũng là
một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu.
1.3 Vấn đề nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực của sinh viên.
Từ kết quả nghiên cứu lý luận, phân tích về trình độ thể lực và trên cơ
sở phân tích tổng thể các công trình nghiên cứu cho thấy: Các tác giả khái
niệm trình độ thể lực không hoàn toàn giống nhau. Do đó, khi nghiên cứu đánh
giá, các tác giả tiến hành theo những cách tiếp cận khác nhau. Có thể thấy các
tác giả đã giải quyết vấn đề nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực theo hai định
hướng cơ bản:
- Nghiên cứu từng yếu tố, thành phần riêng biết của trình độ thể lực.
- Nghiên cứu trình độ thể lực mang tính tổng hợp, theo tất cả thành tố của nó.
Theo định hướng thứ nhất: Dưới góc độ hình thái học, khi nghiên cứu
các tác giả đã đi sâu khai thác các chỉ tiêu nhân trắc: dưới góc độ tâm - sinh lý
các nhà nghiên cứu lại dựa vào quan điểm y sinh học là chủ yếu. Do đó, họ có

thiên hướng đi sâu đánh giá chức năng tâm - sinh lý của từng cá thể. Trong lúc
17
17
đó, theo quan điểm sư phạm, các tác giả cho rằng, trình độ thể lực là những
biểu hiện bên ngoài của khả năng vận động cao hay thấp. Vì vậy, các tác giả
đánh giá từng tố chất vận động của đối tượng nghiên cứu.
Theo định hướng thứ hai: Các tác giả cho rằng, để kết quả đánh giá đảm
bảo chuẩn xác và khách quan, thì quá trình đánh giá cần được tiến hành đầy đủ
theo các yếu tố cấu thành của trình độ thể lực. Một trong những phương pháp
tương đối thuận lợi, khoa học và được nhiều nhà nghiên cứu tin dùng hiện nay
là phương pháp đánh giá “định hướng tổng hợp theo điểm” của một số nhà
nghiên cứu nước ngoài.
1.3.1 Quan điểm đánh giá trình độ thể lực mang tính tổng hợp.
Kết quả nghiên cứu ở mục 1.2.1 cho thấy trình độ thể lực là một tổ hợp
yếu tố nhiều thành phần, được đánh giá thông qua sự biến đổi tương ứng về
các mặt hình thái, chức năng cơ thể trong quá trình GDTC và huấn luyện thể
thao. Theo đó, việc nghiên cứu, đánh giá trình độ thể lực cũng bao gồm đầy đủ
các yếu tố hình thái, chức năng tâm - sinh lý, chức năng vận động của đối
tượng nghiên cứu.
Đối với sinh viên đại học, một trong ba nhiệm vụ cơ bản quan trọng và
bắt buộc của công tác GDTC là đánh giá trình độ chuẩn bị thể lực hàng năm
cho sinh viên theo tiêu chuẩn quy định, dưới góc độ toàn cục, đánh giá trình độ
thể lực cho sinh viên hàng năm có ý nghĩa thiết thực góp phần xây dựng cơ sở
khoa học cho việc hoạch định chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT, chiến
lược GDTC cho toàn dân. Trong từng trường đại học, đánh giá trình độ thể lực
tạo điều kiện để đánh giá hiệu quả GDTC, làm cơ sở biên soạn chương trình
giảng dạy hay lựa chọn phương tiện, phương pháp GDTC cho sinh viên. Vì
vậy, việc đánh giá trình độ thể lực cuả sinh viên có mối quan hệ hữu cơ trong
quá trình GDTC và huấn luyện thể thao trường học. Từ quan điểm này, việc
đánh giá trình độ thể lực thường được xem xét như một nhiệm vụ trong quá

trình nghiên cứu ở các đề tài mang tính tổng hợp.
18
18
Theo hướng nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực mang tính tổng hợp, đã
có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, chúng tôi khái lược một số công
trình có ý nghĩa tổng quát về mặt lý luận và thực tiễn sau đây :
Năm 1973 nhóm tác giả Lê Bửu, Lê Văn Lẫm, Bùi Thị Hiếu và cộng sự
đã điều tra trình độ thể lực học sinh huyện Ứng Hoà, Ba Vì (Hà Tây) gồm
7.135 học sinh, lứa tuổi từ 7 – 17. Các chỉ tiêu áp dụng để điều tra gồm chỉ tiêu
về hình thái, chức năng, tố chất thể lực của học sinh. Kết quả nghiên cứu đã
phản ánh trình độ thể lực của học sinh huyện Ứng Hoà, trong thời điểm đất
nước tập trung sức người, sức của để giải phóng miền Nam. Trình độ thể lực
của học sinh huyện Ứng Hoà nhìn chung thấp hơn trước đó (1962) và thấp hơn
ở nhiều chỉ tiêu của học sinh huyện Kiến Xương, Thái Bình (1970).[42]
Năm 1981, Phan Hồng Minh và cộng sự đã tiến hành điều tra hình thái,
thể lực của học sinh các tỉnh Bắc Thái, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Thái Bình,
Bình Trị Thiên, Thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang. Mẫu điều tra gồm 6.867
học sinh từ 7 đến 17 tuổi. Tổ hợp chỉ tiêu sử dụng: chiều cao, cân nặng, độ dài
lớp mỡ dưới da. Độ dài các chi, kích thước một số vòng (về hình thái); chạy
30m xuất phát cao, nắm bắt gậy, bật xa tại chỗ, lực bóp cổ tay phải, trái, test
Cooper, đứng gập chân (về tố chất thể lực). Kết quả nghiên cứu, các tác giả đã
phát hiện: nếu đối với học sinh ở thành phố, có ưu thế phát triển về sức nhanh
và yếu về sức bền, thì ngược lại, các học sinh ở vùng núi có ưu thế phát triển
về sức bền, nhưng lại kém học sinh thành phố về sức nhanh.
Năm 1983 - 1984, Nguyễn Kim Minh và cộng sự đã thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu năng lực thể chất của người Việt Nam từ 5 - 18 tuổi”. Các tác giả
đã sử dụng các chỉ tiêu hình thái là chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đùi,
độ dày lớp mỡ dưới da, và các chỉ tiêu về tố chất thể lực là chạy 30m, bật xa
tại chỗ, lực bóp tay thuận, nằm sấp co duỗi tay trong 30 giây. Kết quả thu được
cho thấy: một số chỉ tuy có sự gia tăng so với hằng số sinh học người Việt

Nam cùng lứa tuổi (1975), song vẫn thấp hơn nhiều so với học sinh các nước
trong khu vực và thế giới.[53]
19
19
Trong đề tài khảo sát một số đặc điểm y - sinh học của VĐV một số
môn thể thao, tác giả Nguyễn An Quý (1993), đã sử dụng các nhóm chỉ tiêu
hình thái, chức năng sinh lý, chức năng thần kinh - tâm lý và chức năng vận
động để khảo cứu. Từ kết quả thu được, cho thấy: VĐV ở các môn thể thao
khác nhau có đặc điểm hình thái, chức năng sinh lý và tố chất thể lực khác
nhau, VĐV ở các môn khác nhau, có những đăc trưng riêng không hoàn toàn
giống nhau về các yếu tố trình độ tập luyện.[58]
Để tìm hiểu tình hình thể lực của thanh niên mới nhập ngũ, tác giả
Nguyễn Hữu Thắng (1994) đã sử dụng các chỉ tiêu về nhân trắc, các chỉ tiêu về
chức năng tim - mạch và phổi, các chỉ số Pigner và QVC, các chỉ tiêu về lực
cơ, các chỉ tiêu về thần kinh - tâm lý, test PWC 170 và các chỉ tiêu sư phạm.
Tác giả đã so sánh kết quản nghiên cứu của mình với hằng số sinh học người
Việt Nam (1975) và kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác, đã đi đến kết
luận: Nhìn chung, thể lực của thanh niên mới nhập ngũ xếp vào loại trung
bình.[58]
Trong công trình nghiên cứu về hình thái - thể lực của học sinh các
trường nghề Việt Nam, tác giả Lưu Quang Hiệp (1994) đã sử dụng ba nhóm
chỉ tiêu là hình thái, chức năng và tố chất thể lực. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Các chỉ tiêu hình thái và các tố chất thể lực của học sinh các trường dạy
nghề, nhìn chung cao hơn các chỉ tiêu hình thái, thể lực học sinh, sinh viên các
trường đại học cùng lứa tuổi. Đồng thời, tác giả đã phát hiện, quá trình học tập,
lao động của học sinh trường nghề đã có những khuyết tật thể hình mắc phải
cần được uốn nắn, sửa chữa. [39]
Năm 1997 - 1998, tập thể tác giả Nguyễn Thế Truyền, Lê Quý Phượng,
Nguyễn Kim Minh, Ngô Đức Nhuận và Nguyễn Thị Tuyết, đã thực hiện công
trình: “Xác định chuẩn mực đánh giá trình độ tập luyện của VĐV một số môn

thể thao trọng điểm trong chương trình thể thao quốc gia”. Mục đích của đề
tài: Xây dựng hệ thống dữ liệu quản lý VĐV, bước đầu xây dựng các chuẩn
mực đánh giá trình độ tập luyện và đề xuất các chỉ tiêu tuyển chọn và đào tạo
20
20
VĐV. Các nhóm chỉ tiêu mà nhóm tác giả này lựa chọn bao gồm hình thái,
chức năng, tâm lý và chuyên môn. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được các
chuẩn mực đánh giá trình độ tập luyện theo phương pháp: “ Định mức tổng
hợp các yếu tố theo các mức điểm”. Đây là một trong những cách đánh giá
tương đối chính xác, toàn diện về trình độ tập luyện đối với các đối tượng
trong quá trình GDTC và huấn luyện thể thao.[61]
Với mục đích nâng cao quá trình tuyển chọn, tác giả Hà Khả Luân và
cộng sự (1997), đã xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu, hình thái, tố chất vận
động, tâm lý và chuyên môn, thông qua tuổi xương, nhằm đánh giá khả năng
hoạt động, thể lực, làm sơ sở cho việc xác định các chỉ tiêu tuyển chọn VĐV
trẻ ở một số môn thể thao. Dựa vào kết quả nghiên cứu của từng chỉ tiêu, đã
xây dựng “thang điểm tổng hợp theo thang điểm 10” cho từng lứa tuổi, giới
tính và môn chuyên sâu.
Lê Văn Thiện (1999) và Nguyễn Thị Việt Hương (1999) khi nghiên cứu
năng lực thể chất của sinh viên, cũng đã sử dụng một số các chỉ tiêu hình thái
và tố chất thể lực để nghiên cứu. Riêng Lê Văn Thiện, còn đưa cả một số chỉ
tiêu về hoạt động chức năng tâm - sinh lý để xem xét sự biến đổi thể lực của
sinh viên ở trường Đại Học Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh.[52]
Trong đề tài nghiên cứu: “Thực trạng phát triển thể chất của học sinh,
sinh viên”, Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải và Vũ Bích Hụê
(2000), đã sử dụng các chỉ tiêu thuộc hai nhóm hình thái và tố chất thể lực để
điều tra, khảo sát. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện: Trình độ thể lực của sinh
viên ở các năm học không đồng đều, trình độ thể lực chung tốt nhất vào năm
học thứ 1, năm thứ 2 và có xu hướng giảm ở các năm cuối khoá.[42]
Năm 2001, Viện khoa học TDTT chủ trì đề tài: “Điều tra thể chất nhân

dân từ 6 đến 60 tuổi”. Đối với độ tuổi từ 6 đến 20 tuổi, điều tra trong giai đoạn
I (2001 – 2002), đã quy định nội dung điều tra gồm các chỉ tiêu: chiều cao
đứng, cân năng, chỉ số Quetelet, chỉ số công năng tim, lực bóp tay thuận, bật
21
21
xa tại chỗ, độ dẻo gập thân, nằm ngửa co gối gập thân thành ngồi, chạy 30 m,
chạy 4x10 m, chạy (đi bộ) 5 phút tính quãng đường.
Một điểm chú ý là, những nghiên cứu trước đây đa phần chỉ dừng lại
trong việc đánh giá từng chỉ tiêu riêng lẻ, mà chưa chú ý đánh giá một cách
toàn diện, tổng hợp các chỉ tiêu. Ở nước ta, những năm gần đây mới xuất hiện
đánh giá tổng hợp bằng các thang độ đánh giá trung gian. Theo hướng đó,
những đánh giá năng lực thể chất gắn liền với việc xem xét mức độ tác động
của từng yếu tố, từng chỉ tiêu đến năng lực thể thao của từng người.
Từ kết quả phân tích các yếu tố cấu thành trình độ thể lực và quan điểm
nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực của nhiều tác giả kể trên, cho phép đưa ra
một số nhận xét sau:
Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau, khi lựa chọn
phương pháp và chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực có khác nhau đáng kể. Có
thể nhận thấy quan điểm đánh giá trình độ thể lực phân theo hai hướng: hướng
nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực theo từng yếu tố thành phần của trình độ
thể lực riêng biệt (hình thái, chức năng tâm - sinh lý và tố chất thể lực) và
hướng nghiên cứu mang tính chất tổng hợp, trong đó các tác giả xem xét tất cả
các yếu tố cấu thành trình độ thể lực và đánh giá một cách toàn diện. Các công
trình nghiên cứu mang tính tổng hợp, trong nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu
hiện diện đây đủ các yếu tố hình thái, chức năng sinh lý và chức năng vận
động. Đây là phương pháp nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực tương đối
chính xác và toàn diện về đối tượng nghiên cứu.[30,57]
Các công trình nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập
luyện của vận động viên theo phương pháp “Định mức tổng hợp theo điểm, có
tính đến tỷ trọng tác động tương ứng của các yếu tố thành phần, là cách làm

hợp lý, song đối với sinh viên, phương pháp đó chưa được nghiên cứu, áp
dụng nhiều hiện nay.
Từ quan điểm nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực cho các đối tượng,
chủ yếu là thanh thiếu niên, từ kết quả thu được qua phân tích và tổng hợp các
22
22
công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước rút ra một số ý kiến khi lựa
chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực của sinh viên đại học
Dân Lập Thăng Long sau đây:
Đánh giá trình độ thể lực cho sinh viên đại học Dân Lập Thăng Long
theo phương pháp “Mang tính tổng hợp: là phương pháp tiếp cận mang tính
hợp lý nhất, bởi vì nó cho phép tập trung đầy đủ các yếu tố thành phần:
Các yếu tố hình thái cơ bản như chiều cao, cân nặng, chu vi, vòng ngực
và chỉ số Pinhê.
Các yếu tố chức năng sinh lý như mức độ biến đổi về cấu trúc chức
năng hệ tuần hoàn, hô hấp.
Các tố chất vận động như tố chất sức mạnh, tố chất sức nhanh và tố chất
sức bền, độ dẻo và sự khéo léo.
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực phải là những chỉ tiêu được sử
dụng nhiều, có đủ độ tin cậy và tính thông báo, phù hợp với điều kiện nghiên
cứu lý luận được xác định như sau:
1. Các chỉ tiêu hình thái gồm 4 test: chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình và
chỉ số Pinhê.
2. Các chỉ tiêu chức năng sinh lý gồm 3 test: dung tích sống, Test Harward (công
năng tim).
Các chỉ tiêu chức năng vận động cho nữ gồm 6 test: Chạy 50m xuất phát
cao, chạy 500m, nằm sấp co duỗi tay chống trên bục cao 30cm, bật xa tại chỗ,
gập dẻo về trước, test phối hợp động tác.
1.4. Tập luyện TDTT đối với nữ sinh viên.
Cơ thể phụ nữ so với nam giới có những đặc điểm riêng về hình thái

chức năng. Khi so sánh chỉ tiêu về hình thái, thấy sự khác biệt rõ nét nhất giữa
nam giới và nữ giới là chiều cao và cân nặng: Trung bình, cơ thể phụ nữ thấp
hơn nam giới khoảng 10 - 12cm, trọng lượng cơ thể nhẹ hơn từ 10 - 11kg, chu
vi lồng ngực nhỏ hơn từ 10 -11cm, dung tích sống từ 1.400 - 1.600 ml, lực đẩy
23
23
từ 15 - 20kg, lực nâng từ 70 - 100kg, còn vòng đùi và hông tương đối lớn, lớp
mỡ dày hơn so với nam giới từ 2,5 - 5 mm.
Tổ chức cơ của phụ nữ chiếm từ 30 - 32% trọng lượng cơ thể. Tổ chức
mỡ của phụ nữ cao hơn 10% so với nam giới. ở phụ nữ, mỡ thường tập trung ở
vùng quanh bụng, ngực và mông, còn nam giới mỡ tập trung ở vùng dưới
bụng. Do vậy, khả năng làm việc và duy trì cơ thể trọng lượng vận động lớn ở
phụ nữ là kém hơn so với nam giới, cho nên dẫn tới sự mệt mỏi nhanh hơn. Bộ
xương của phụ nữ kém phát triển hơn so với nam giới, một số xương nhỏ hơn,
thành xương mảnh, mềm mại và tương đối nhẵn. Với cấu trúc xương như vậy,
làm cho khả năng chịu trọng tải lớn của phụ nữ dễ bị chấn thương khi mang
vác và hoạt động mạnh. Sự mệt mỏi từ quá trình vận động của phụ nữ chứng tỏ
khả năng thích nghi cơ thể kém. [50]
Phụ nữ có cấu tạo cột sống rất khác nam giới, tỷ lệ các đốt sống cổ và
ngực là ngắn so với toàn bộ cột sống của cơ thể. Trong khi các đốt sống cổ và
thắt lưng lại dài hơn, do đó tính linh hoạt cột sống của phụ nữ có hơn nam giới.
Phụ nữ có tỷ lệ chiều dài thân so với chiều dài cơ thể lớn hơn ở nam giới, trong
khi đó chiều dài của các chi lại ngắn hơn và kích thước chiều dài xương chậu ở
phụ nữ là lớn hơn. Đặc điểm này, làm cơ thể phụ nữ thấp hơn so với nam giới
và giúp cơ thể phụ nữ có ưu thế trong khi thực hiện động tác chạy và bật cao.
Sự phát triển của cơ thể ở giai đoạn trưởng thành ở các em nữ nhanh hơn các
em nam, kể cả mặt sinh lý và tâm lý theo lứa tuổi, nhất là giai đoạn từ 12 - 18
tuổi.[55]
Tim của mỗi người bằng khoảng nắm tay của mình và kích thước tim
của nữ nhỏ hơn tim của nam, trung bình trọng lượng tim của nữ xấp xỉ khoảng

250gr trong khi tim của nam xấp xỉ khoảng 300gr. Thể tích tim của nữ cũng
nhỏ hơn, do đó lượng máu tống ra sau một lần co bóp ít hơn và tần số co bóp
của tim cũng nhanh hơn. Sau cùng, cùng một lượng vận động thì mạch của
phụ nữ nhanh hơn, sự tăng huyết động mạch tối đa ít hơn và khả năng hồi phục
chậm hơn so với nam giới. [31,55]
24
24
Trong một công trình nghiên cứu, giáo sư Bueger người Đức viết: Phụ
nữ ở lứa tuổi thanh niên từ 16 - 20 tuổi có huyết áp thấp hơn nam, song gia
tăng về huyết áp càng về lứa tuổi trung niên (từ 40 tuổi trở lên). Hiện tượng
trên xuất hiện, do sự thay đổi nội tiết trong cơ thể người phụ nữ ở lứa tuổi này.
Ở phụ nữ, ngực có tiết diện nhỏ hơn nam giới và độ di động của cơ hoành kém
(phụ nữ thường thở dạng ngực còn nam giới thở dạng bụng). Về tần số hô hấp
của phụ nữ so với nam là nhanh hơn (20 - 24 lần/phút), độ sâu hô hấp, thông
khí phổi, dung tích sống của nữ thấp hơn nam (nữ 2500 ml, còn nam 3500ml).
Do dung tích sống và tần số hô hấp của nữ như vậy, nên khả năng vận động
với lượng vận động trong thời gian dài là rất kém, về tốc độ lắng máu của cơ
thể nữ nhanh hơn cơ thể nam, do lượng hồng cầu Hêmoglobin ít hơn.
Tập luyện TDTT gây tác động lớn đến cơ thể phụ nữ, song mức độ biểu
hiện của nó lại thấp hơn nhiều so với nam giới. Các phản ứng của mạch huyết
áp với thử nghiệm chức năng ở những người tập luyện thường xuyên ít biểu
hiện hơn so với những người không tập luyện và thời gian hồi phục sau thử
nghiêm ngắn hơn.
Do sự ảnh hưởng của việc tập luyện, tần số hô hấp giảm từ 6 - 8
lần/phút, dung tích sống tăng lên từ 1000 - 1500 ml, thậm chí ở các nữ VĐV
tăng lên đến 5000 ml.
Ở lứa tuổi 18 - 19, hình thể các em đạt đến mức độ hoàn chỉnh nhất và
kết hợp hài hoà giữa cấu trúc cơ thể với chức năng vận động. Thời kỳ này, các
em phát triển về chiều cao đạt 9/10 và trọng lượng cơ thể trưởng thành. Trong
độ tuổi thanh niên, các em nữ hầu như đạt ở mức phát triển về hình thái, chức

năng sinh lý ở mức hoàn toàn ổn định, não bộ đã đạt trọng lượng tối đa (trung
bình 1400g) và số tế bào thần kinh phát triển đầy đủ tới 100 tỷ nơron. Ở lứa
tuổi này quan trọng hơn cả là hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt đến mức độ
trưởng thành, hình thành sự phát triển của lứa tuổi sinh viên.[31,55]
Tuổi sinh viên là lứa tuổi trưởng thành, theo tác giả Lê Quang Long thì
các em với đặc điểm ở thời kỳ này là lứa tuổi dậy thì, phát triển cơ thể tốt nhất,
25
25

×