HỌC THUYẾT KINH LẠC
A.- ĐẠI CƯƠNG
Kinh là đường thẳng đi thông mọi chỗ.
Lạc là những nhánh phân ra từ kinh.
Kinh lạc làm thành 1 mạng lưới nối tiếp, chằng chịt, phân bổ khắp toàn thân.
Kinh lạc liên kết các tạng phủ, các tổ chức lại với nhau thành 1 chỉnh thể thống
nhất.
Đầu năm 1986, bác sĩ Jean Claude Darras và các nhà y học tại viện Neker, đã
chụp được các đường Kinh Lạc bằng 1 máy ảnh điện tử đặc biệt. Các nhà khoa
học tiêm vào 1 số huyệt 1 dung dịch chứa Tecnetic (1 chất hóa học có tính phóng
xạ). Máy ảnh bắt được những tia Gamma phát ra từ chất này. Qua đó người ta
thấy : Sau khi tiêm vào các huyệt, dung dịch chứa Tecnetic nói trên, đã lan tỏa
theo các Kinh phần nào trùng hợp với những Kinh đã miêu tả trong các sách
châm cứu. Ngược lại nếu tiêm vào 1 điểm khác trên cơ thể thì dung dịch chỉ tụ
lại 1 chỗ, khơng hề lan tỏa.
Đáng chú ý nhất là các nhà y học đã xác định được rằng các kinh châm cứu
được chụp ảnh, hồn tồn khơng tương ứng với các đường đi của mạch máu,
đường gân hoặc đường dây thần kinh. Đó là các kinh chức năng chạy theo
những đường mà cho đến nay khoa học chưa hề biết đến.
[../GENERAL/headpage.htm]
HỌC THUYẾT KINH LẠC
C.- TÁC DỤNG CỦA HỆ THỐNG KINH LẠC
- Về sinh lý : Kinh lạc là đường tuần hành khí huyết đi ni dưỡng tồn thân,
duy trì mọi hoạt động sinh lý của cơ thể, chống ngoại tà, bảo vệ cơ thể. Nếu
chức năng vận hành khí huyết của Kinh lạc bị trở ngại, khí huyết khơng thơng lập
tức sẽ xuất hiện dấu hiệu bệnh lý.
- Về bệnh lý : Kinh lạc là nơi bệnh tà xâm nhập vào cơ thể và truyền bệnh từ
nông vào sâu (khi bệnh nặng lên) hoặc từ sâu ra nơng (khi bệnh nhẹ đi). Vì thế,
khi tạng phủ có bệnh, bệnh sẽ thơng qua Kinh lạc mà phản ảnh ra ngoài cơ thể
như : Bệnh Phế, ấn thấy đau huyệt Trung phủ, Phế du. Bệnh ở Can, ấn đau
huyệt Kỳ môn, Can du...
- Về chẩn đốn : Mỗi đường kinh có liên hệ và biểu thị cho 1 Tạng phủ nhất
định, do đó, có thể dựa vào cách thăm khám các đường kinh, dựa vào điện trở
của huyệt Nguyên, hoặc độ cảm giác của huyệt Tĩnh... Mà xác định được Kinh
lạc, Tạng phủ bệnh.
Thí dụ : Người bệnh đau vùng sau gáy.
Áp dụng nguyên tắc "Kinh lạc sở qua, chủ trị sở cập" ta thấy, vùng gáy có kinh
Đởm và kinh Bàng quang chạy qua, như thế, có thể là Đởm kinh hoặc Bàng
quang kinh bị trở ngại, cũng có thể là cả 2 kinh trên cùng bị bệnh. Như vậy việc
điều trị mới có hiệu quả và chính xác được.
- Về chữa bệnh : Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất trong châm
cứu và dược. Học thuyết Kinh lạc chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương
ứng với Tạng phủ hoặc đường kinh nào đó, gọi là sự quy kinh của thuốc.
Thí dụ : Bạc Hà, vị cay, vào phế nên có tác dụng chữa ho, cảm...
Long nhãn, vị ngọt, vào Tỳ có tác dụng bồi bổ cơ thể...
Thí dụ 2 : Đau vùng cạnh đầu, lấy huyệt ở kinh Thiếu dương. Đau vùng sau gáy,
lấy huyệt ở kinh Thái dương...
Nắm được Kinh hoặc Tạng phủ bệnh... Tác động đúng vào huyệt có liên quan
với bệnh của những kinh, tạng phủ đó thì hiệu quả trị bệnh sẽ cao và chính xác
hơn.
Để kết thúc về hệ thống kinh mạch, chúng tôi xin mượn lời của thiên 'Kinh
Mạch' : "Kinh mạch là những con đường, dựa vào đó để quyết được việc sống
chết, là nơi sắp xếp trăm bệnh, là nơi điều hồ hư thực mà thầy thuốc khơng thể
không thông" (LKhu 10, 7).
Sách 'Y Môn Pháp Luật' cũng nhấn mạnh : "Phàm chữa bệnh mà không rõ tạng
phủ, kinh lạc thì hễ đụng đến việc là bị sai lầm".
BẢNG TĨM TẮT HỆ THỐNG KINH LẠC MẠCH
H
Ệ
Phần
Kinh
12 Kinh Chính đi dọc ở giữa cơ.
Mạch
12 Kinh Biệt tách từ Kinh Chính.
8 Kỳ Kinh Bát Mạch.
Kinh
K
Lạc
15 Lạc Mạch lớn, đi ngang, đi chéo.
I
Lạc
Lạc Mạch.
N
Mạch
Lạc Mạch nhỏ.
H
Lạc Mạch nổi ở nơng.
L
Phần
Đi vào trong :
Tạnng Phủ có liên hệ với Kinh Mạch..
Ạ
Phụ
Đi ra ngoài
12 Kinh Cân : có liên hệ với kinh Chính.
C
Thuộc
12 Khu Bì Bộ : có liên hệ với kinh Chính.
HỌC THUYẾT KINH LẠC
HỆ THỐNG 12 KINH BIỆT
a- Đại Cương
+ "Kinh Biệt là 1 bộ phận đi riêng biệt của 12 Kinh Mạch, nhưng nó lại khác với
Lạc mạch, vì thế, nó là ?đường đi riêng rẽ của kinh chính? gọi tắt là ?Kinh Biệt?
(Trung Y Học Khái Luận).
+ Kinh Biệt còn gọi là kinh Nhánh, là bộ phận đặc biệt phân ra từ 12 kinh Chính.
Mỗi kinh Chính tách ra 1 kinh Biệt.
+ Tên gọi của các kinh Biệt giống tên gọi của kinh Chính chỉ khác thêm chữ Biệt
ở đầu. Thí dụ : Biệt thủ Thái Âm Phế, Biệt túc Quyết âm Can...
+ Thiên ?Kinh Biệt? (LKhu 11) gọi là ?Lục Hợp?.
+ Tìm hiểu về Kinh Biệt rất quan trọng để hiểu được phương pháp ?Cự Thích?
và ?Mậu Thích? được mơ tả rất rõ trong thiên ?Mậu Thích? (TVấn 63).
b- Vận Hành Của Kinh Biệt
Đa số kinh Biệt đi từ khuỷ tay, khuỷ chân, nối liền các kinh Âm Dương để phối
hợp Biểu và Lý, nối liền các Tạng Phủ rồi đi lên gáy, cổ và đầu, mặt rồi nhập lại
với kinh mạch của các kinh Dương.
Nếu là kinh nhánh tách từ kinh Dương thì nhập về kinh cũ. Nếu là kinh Âm thì
nhập vào kinh Dương có quan hệ Biểu Lý với kinh Âm mà nó tách ra.
Theo thiên ?Kinh Biệt?, các đường kinh chính của Dương đều thành các đường
kinh Biệt của Âm.
Theo thiên ?Kinh Biệt? (LKhu. 11) :
Kinh Hợp
Vị Trí Hợp
Huyệt Tương
Ứng
Túc Thái Dương hợp với túc Thiếu
Âm
+ Bên dưới: ở
nhượng chân.
.Vùng huyệt Ủy
Trung - Bq.40.
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Nhất).
+ Bên trên : ở
sau gáy.
. Vùng huyệt Thiên
Trụ - Bq.12.
Túc Thiếu Dương hợp với túc Quyết
Âm
Ở lơng mu.
Vùng huyệt Khúc
Cốt - Nh.2
Ở háng.
Vùng huyệt Khí
Xung - Vi.30.
Ở đầu trong con
mắt.
Vùng huyệt Tình
Minh - Bq.1.
+ Ở đầu ngoài
. Vùng huyệt Đồng
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Hai).
Túc Dương Minh hợp với túc Thái
Âm
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Ba).
Thủ Thái Dương hợp với Thiếu Âm
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Tư).
Thủ Thiếu Dương hợp với thủ Quyết
Âm
con mắt.
Tử Liêu - Đ.1.
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Năm).
+ Ở dưới hoàn
cốt.
.Vùng huyệt Thiên
Dũ - Ttu.16.
Thủ Dương Minh hợp với thủ Thái
Âm
Ở cuống họng.
Vùng huyệt Phù
Đột - Đtr.18.
(Hợp của 2 kinh này là Hợp Thứ
Sáu).
Như vậy, theo quan hệ Biểu Lý thì kinh Biệt chia làm 6 tổ, hợp với 6 kinh Dương,
gọi là 6 hợp. Trong mối quan hệ này, kinh Dương giữ vai trị chính còn kinh Âm
phải hợp vào kinh Dương.
c-Cơ Cấu Của Kinh Biệt
Thiên ?Mậu Thích? ghi : "Tà khí khách ở đại lạc, nếu ở bên trái sẽ rót sang bên
phải và nếu ở bên phải sẽ rót sang bên trái. Trên dưới, phải trái cùng giao thông
với kinh tương ứng để phân tán ra tứ chi (tay chân). Khi đó, tà khí khơng ở hẳn 1
chỗ nào mà cũng khơng chuyển vào kinh, vì vậy gọi là Mậu Thích" (TVấn 63,4).
Cũng trong thiên ?Mậu Thích?, Hồng Đế đã đặt vấn đề : "Xin nói cho Ta biết :
Tại sao trong phép Mậu Thích, bệnh ở bên trái lại châm ở bên phải, bên phải
bệnh lại châm ở bên trái ... Mậu Thích với Cự Thích khác nhau ra sao?" - Kỳ Bá
trả lời : "Tà khách ở kinh, bên trái thịnh thì bên phải mắc bệnh, bên phải thịnh thì
bên trái mắc bệnh. Nhưng cũng có khi thay đổi. Bên trái đau chưa khỏi mà mạch
bên phải đã mắc bệnh, như vậy, phải dùng phép Cự Thích, nhưng phải châm
cho trúng Kinh mạch chứ không phải Lạc mạch. Cho nên bệnh ở Lạc mạch, sự
đau đớn khác với Kinh mạch cho nên gọi là Mậu Thích"(TVấn 63, 5-6).
d- Tác Dụng Của Kinh Biệt
12 Kinh Biệt có tác dụng duy trì mối quan hệ xuất nhập Biểu Lý, tăng cường mối
quan hệ giữa kinh chính với Tạng Phủ và mối quan hệ giữa các kinh Âm, Dương
có quan hệ Biểu Lý với nhau, làm cho sự liên hệ giữa các chức năng sinh lý
càng thêm chặt chẽ.
Sách Trung Y Học Khái Luận nhận định : " ...Một điểm đặc biệt là 6 kinh Âm cũng
đều có tác dụng ở bộ phận đầu, mặt, nếu chỉ đem bộ vị tuần hành của 12 Kinh
Mạch nói ở trên mà xét, thì trong 6 kinh Âm, trừ kinh mạch túc Quyết Âm có thể
lên đến đỉnh đầu ra, còn 5 kinh mạch Âm kia đều chỉ đi đến cổ họng là đứng lại.
Nhưng sau khi kinh Biệt của 6 kinh Âm đã đi đến đầu, mặt, cổ họng rồi, lại cũng
đều hội với kinh Biệt của 6 kinh Dương ở trên đầu mặt, và nhận lấy khí huyết
của 6 kinh Biệt Âm giao cho, do đó mới có thể hiểu được vì sao kinh Âm cũng có
thể tác dụng ở đầu và mặt" - " Chính vì giữa khoảng kinh Âm và Dương có sự
quan hệ mật thiết, cho nên, trong lâm sàng : nếu thấy kinh Dương nào bị bệnh,
có thể trị ở kinh Âm có quan hệ biểu lý với nó. Kinh Âm nào bị bệnh có thể trị ở
kinh Dương có quan hệ biểu lý với nó...) - "Một số vùng bệnh, có 1 số khơng
phải đường kinh mạch có thể đi đến mà là chỗ kinh Biệt đi đến.... Thí dụ : kinh
thủ Quyết Âm không đi đến họng nhưng huyệt Đại Lăng, Gian Sử của kinh đó
đều có thể trị được bệnh ở họng. Đó là do đường thơng vận hành của kinh Biệt
của kinh Quyết Âm ?theo ra đường cuống họng".
e- Chẩn Đốn Kinh Biệt
Vì Kinh Biệt là những nhánh tách ra của Kinh Chính, nên tà khí ở các Kinh Chính
bị thực thì tà khí có thể chuyển qua các nhánh của mình là Kinh Biệt, để từ đó
chuyển vào Tạng Phủ, và khi tà khí đang di chuyển như vậy, vẫn có sự giao
tranh giữa chính khí và tà khí, do đó triệu chứng chính của kinh Biệt là đau từng
cơn.
f- Điều Trị Kinh Biệt
"Điều trị các kinh Biệt, nếu chỗ tà khí đi qua mà khơng gây ra bệnh thì dùng
phép Mậu Thích" [châm ở lạc mạch nghịch với bên bệnh] (TVấn 63,24).
"Nếu tà khí khách ở Kinh thì dùng phép ?Cự Thích?" [đau bên phải châm bên
trái của kinh bệnh ](TVấn 63,6).
-Cách Châm
+ Đau bên phải châm bên trái và ngược lại (TVấn 63, 8).
+ Thường dùng huyệt Tỉnh + A Thị Huyệt.
Vì Mậu Thích liên hệ với Lạc Mạch (Kinh Cân), trong điều trị kinh Cân thường
dùng đến A Thị Huyệt do đó khi châm Mậu Thích, thường kèm theo dùng A Thị
Huyệt.
+"Quan sát ở bì bộ (vùng da), thấy có huyệt Lạc hiện lên, đều phải châm hết. Đó
là phương pháp Mậu Thích" (TVấn 63, 30).
Thiên ?Mậu Thích? từ câu 7 - 23, nêu lên 16 trường hợp thực tiễn áp dụng Mậu
Thích, trong đó, thường xử dụng cơng thức :
+ Châm huyệt Tỉnh của đường kinh liên hệ với bệnh chứng.
+ Châm theo Mậu Thích (châm bên khơng đau - bệnh bên phải châm bên trái và
ngược lại).
Dựa theo Nội Kinh Tố Vấn, khi điều trị Kinh Biệt thường theo các nguyên tắc sau
:
a- Do Tà Khí :
Châm huyệt Tỉnh của kinh bệnh và kinh có quan hệ Biểu Lý ( Phía đối
(nghịch) với bên bệnh - tức là theo Mậu Thích).
Châm huyệt Du của kinh bệnh và kinh có quan hệ Biểu Lý (ở phía bên
bệnh).
b-Do Nội Nhân :
Huyệt Khích của kinh bệnh.
Huyệt Bổ của kinh bệnh.
Huyệt dựa theo đường vận hành kinh Biệt (tuần kinh thủ huyệt).
HỌC THUYẾT KINH LẠC
B. HỆ THỐNG KINH LẠC
Kinh lạc là 1 hệ thống phong phú, gồm có :
- 12 Kinh Biệt.
- 12 Kinh Cân.
- 15 Lạc.
- 12 Kinh Chính.
- 8 Mạch Kỳ Kinh.
B1- HỆ THỐNG KINH CHÍNH
a- Cơ Cấu Hệ Thống Kinh Chính
Gồm 12 đường kinh, xếp theo thứ tự tuần hồn kinh khí :
Thủ Thái Âm Phế Kinh.
Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh.
Túc Dương Minh Vị Kinh.
Túc Thái Âm Tỳ Kinh.
Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh.
Thủ Thái Dương Tiểu Trường Kinh.
Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh.
Túc Thiếu Âm Thận Kinh.
Thủ Quyết Âm Tâm Bào Kinh.
Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh.
Túc Thiếu Dương Đởm Kinh.
Túc Quyết Âm Can Kinh.
Y học cổ truyền phân chia con người thành 6 Tạng (Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận và
Tâm bào) và 6 Phủ (Tiểu trường, Đởm, Vị, Đại trường, Bàng quang và Tam tiêu),
do đó cũng có 12 đường kinh tương ứng, mang tên các Tạng hoặc phủ đó.
Kinh nối với tạng là kinh âm, kinh nối với phủ là kinh dương, do đó có 6 kinh
dương và 6 kinh âm, chia ra như sau :
3 kinh âm ở tay, 3 kinh dương ở tay.
3 kinh âm ở chân, 3 kinh dương ở chân.
Mỗi kinh chính đều có 1 vùng phân bổ, thuộc về 1 Tạng hoặc phủ nhất định.
Các kinh Âm và Dương đều có quan hệ Biểu Lý với nhau.
Thí dụ : Thủ Thái Âm Phế có liên hệ biểu lý với Thủ Dương Minh Đại Trường...
Âm dương là 2 mặt mâu thuẫn, thống nhất, do đó, trong mỗi đường kinh, cũng
có 2 nhánh Âm và Dương tương phản nhau. Theo cách sắp xếp của Âm Dương,
bên phải thuộc Âm, bên trái thuộc Dương, áp dụng vào đồ hình Thái cực ta có :
Nhánh kinh bên trái cơ thể, mang đặc tính Dương.
Nhánh kinh bên phải cơ thể, mang đặc tính Âm.
Cần nắm vững nguyên tắc này để vận dụng cách chẩn đốn và chọn huyệt khi
điều trị.
Như vậy, khơng phải chỉ có 12 kinh chính mà là 12 cặp kinh chính, có tác dụng
âm dương tương phản và hỗ trợ cho nhau.
BIỂU TĨM TẮT 12 KINH CHÍNH
Kinh
chính
Đường tuần hành
Biểu hiện bệnh lý
Kinh
Bệnh
Tạng
Phủ
Bệnh
Chứng
Thủ Thái
âm PHẾ
KINH (Mỗi
bên 11
huyệt)
Mặt trong, bờ trước
của tay, từ hố nách
ngực chạy ra ngón
tay chiều ly tâm
Đau nơi
kinh đi
qua, đau
nhiều thì
tay bắt
chéo ơm
ngực,
mắt tối
sầm, tim
đập loạn
Ngực đầy Sốt bệnh ở ngực, phế, họng, thanh quả
tức, ho,
hoạt huyết, khí huyết ứ trệ
khó thở,
khát, tiểu
gắt, nước
tiểu vàng,
gang tay
nóng,
cảm
phong
hàn thì có
sốt và gai
rét
Thủ
Dương
minh ĐẠI
TRƯỜNG
(Mỗi bên
có 20
huyệt)
Mặt ngồi, bờ trước
của tay, từ ngón trỏ
chạy lên mặt, chiều
hướng tâm
Đau,
sưng nơi
kinh đi
qua,
ngón trỏ
và cái
khó vận
động. Tà
khí thịnh
Mắt vàng, Sốt, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, miệng,
miệng
khô họng,
chảy máu
cam,
bụng
đau, sôi,
nếu hàn :
tiêu chảy.
thì sưng
đau
Túc
Dương
minh VỊ
KINH (Mỗi
bên có 45
huyệt)
túc thái âm
tỳ kinh
(mỗi bên
có 21
huyệt)
Thủ Thiếu
âm TÂM
Mặt ngoài, giữa
chân, từ dưới mắt
xuống chân theo
chiều ly tâm
mặt trong, bờ trước
chân, từ ngón chân
cái lên ngực, theo
chiều hướng tâm
Mặt trong, bờ sau
của tay, từ hố nách
Sưng đau
nơi kinh
đi qua,
chảy máu
cam,
miệng,
mơi mọc
mụn,
miệng
méo,
chân teo
lạnh, tà
khí thịnh :
sốt cao,
vã mồ
hơi, có
thể cuồng
người ê
ẩm, nặng
nề, da
vàng,
lưỡi cứng
đau, mặt
trong chi
dưới phù,
cơ ở
chân tay
teo
Đau nơi
kinh đi
Nếu nhiệt
: tiêu
nhão,
dính, táo
bón. Tà
thịnh : sốt
phát
cuồng
Vị nhiệt :
ăn nhiều,
nước tiểu
vàng,
nóng nẩy
trong
người, có
thể phát
cuồng
khát
nước.
Sốt cao, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, răn
tâm thần, bệnh thần kinh
Vị hàn :
đầy bụng,
ăn ít
bụng trên
đau, đầy,
ăn khó
tiêu, nơn,
nuốt khó,
ỉa chảy,
tiểu
khơng
thơng
Vùng tim
đau, nấc
khan,
bệnh ở bụng trên, bao tử, ruột, bệnh sin
Bệnh ở tim, ngực, bệnh tâm thần
sườn
ngực đau
tức,
KINH (Mỗi
bên có 9
huyệt)
ngực ra ngón tay,
theo chiều ly tâm
qua, gan
tay nóng
hoặc
lạnh,
thực :
miệng
phát
khơ, khát, cuồng
mắt đau
hư : hay
sợ hãi
Thủ Thái
dương
TIỂU
TRƯỜNG
(Mỗi bên
có 19
huyệt)
Mặt ngồi, bờ sau
tay, từ ngón tay lên
mặt, theo chiều
hướng tâm
Đau sưng
nơi kinh
đi qua,
điếc, mắt
vàng, cổ
gáy cứng
đau
Bụng
Sốt, bệnh ở đầu gáy, cổ, mắt, tai, mũi, h
dưới đau kinh
trướng,
đau lan
ra thắt
lưng, xiên
xuống
dịch
hồn, tiêu
chảy, táo
bón,
bụng đau
Túc Thái
dương
BÀNG
QUANG
(Mỗi bên
có 67
huyệt)
Mặt ngồi, bờ sau
chân, từ ngón chân
lên đầu mặt, theo
chiều hướng tâm
Sốt, đau
nơi kinh
đi qua,
mắt đỏ,
chảy
nước
mắt, chảy
máu cam,
chảy
nước mũi
Bụng
dưới đau
tức, đái
dầm, đái
không
thông
Sốt, bệnh ở đầu gáy, mũi, mắt, thắt lưng
thần
Túc Thiếu
âm THẬN
KINH (Mỗi
bên có 27
huyệt)
Mặt trong, bờ trong
chân, từ chân lên
ngực, theo chiều
hướng tâm
Đau nơi
kinh đi
qua,
miệng
nóng,
lưỡi khơ,
họng
Phù, đái
khơng
thơng, ho
ra máu,
suyễn,
thích
nằm, mắt
Bệnh ở bụng dưới, sinh dục, tiết niệu, r
sưng,
mặt trong
chân
lạnh, lịng
bàn chân
nóng
hoa, da
xạm, hồi
hộp, tiểu
chảy lúc
gần sáng
Thủ Quyết
âm TÂM
BÀO (Mỗi
bên có 9
huyệt)
Mặt trong, giữa tay,
từ nách ngực ra
ngón tay, theo
chiều ly tâm
Mặt đỏ,
nách
sưng,
khuỷ tay
co quắp,
gang tay
nóng
Vùng tim Sốt, bệnh ở ngực, tim, bao tử, bệnh tâm
đau, bồn
chồn,
ngực
sườn tức,
tim đập
mạnh,
cuồng,
nói sảng,
hơn mê
Thủ Thái
dương
TAM TIÊU
(Mỗi bên
có 23
huyệt)
Mặt ngồi, giữa tay,
từ ngón tay lên đầu
mặt,weo chiều
hướng tâm
Đau sưng
nơi kinh
đi qua, tai
ù, điếc,
mặt đau
đỏ, ngón
tay thứ 4
khó cử
động
Bụng đầy Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, m
trướng,
bệnh tâm thần
bụng
dưới
cứng, đái
không
thông, đái
gắt, đái
són, phù
Túc Thiếu
dương
ĐỞM KINH
(Mỗi bên
có 44
huyệt)
Mặt ngồi, bờ trước
chân, từ đầu xuống
chân, theo chiều ly
tâm
Đau sưng
nơi kinh
đi qua,
sốt rét,
điếc, lao
hạch,
phía
ngồi bàn
chân
nóng,
ngón
chân thứ
4 khó vận
Cạnh
sườn
đau,
ngực
đau,
miệng
đắng,
nơn
Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, m
bệnh tâm thần
động
Túc Quyết
âm CAN
KINH (Mỗi
bên có 14
huyệt)
Mặt trong, bờ trong
cẳng chân, từ ngón
chân lên ngực, theo
chiều hướng tâm
Đau đầu,
váng, mắt
hoa nhìn
khơng rõ,
tai ù, sốt
cao, co
giật, đái
khó, đái
dầm
Ngực
Bệnh ở mắt, hệ sinh dục, đường tiểu, b
tức, nơn, sườn
nấc, bụng
trên đau,
da vàng,
nuốt
nghẹn,
thối vị,
bụng
dưới đau,
tiêu chảy
SỰ LIÊN HỆ GIỮA CÁC KINH
Có thể biểu diễn qua đồ hình sau :
VÙNG ĐẦU
THÁI DƯƠNG
Tiểu Trường
Bàng Quang
THIẾU DƯƠNG
Tam Tiêu
Đởm
DƯƠNG MINH
Đại Trường
Vị
THÁI ÂM
Phế
Tỳ
QUYẾT ÂM
Tâm Bào
Can
VÙNG NGỰC
THIẾU ÂM
Tâm
Thận
Quan Hệ Trên Dưới Giữa Các Đường Kinh
BIỂU ĐỔ LIÊN HỆ TỒNG QUÁT GIỮA CÁC KINH
b- Đường Vận Hành của Kinh Mạch
Theo thiên ?Doanh Khí? (LKhu 16), Khí huyết tuần hồn trong 12 kinh chính đi
khắp cơ thể thành 1 vịng khép kín. Tinh hoa thức ăn, sau khi được hấp thu ở
trung tiêu lên Phế, chuyển hóa thành Vinh khí, cùng với huyết tuần hồn từ kinh
Thái Âm Phế qua các kinh khác, theo trình tự nhất định sau : khởi đầu từ kinh
thủ Thái Âm Phế, chuyển qua Đại Trường Vị Tỳ Tâm Tiểu Trường
Bàng Quang Thận Tâm Bào Tam Tiêu Tiểu Trường Đởm Can
rồi lại chuyển về Phế, cứ theo vịng trịn khép kín như vậy khơng ngừng nghỉ. Vì
vậy, thiên 'Mạch Độ' ghi : " Khí khơng thể khơng vận hành, ví như nước phải
chảy, như trời trăng chuyển vận không ngừng. Cho nên Âm mạch làm vinh cho
Tạng, Dương mạch làm vinh cho phủ, như chiếc vòng ngọc không đầu mối,
không biết cái kỷ ở chỗ nào, chung rồi lại thuỷ. Khí tràn ngập của nó, bên trong
tưới ướt tạng phủ, bên ngoài làm trơn ướt tấu lý" (LKhu 17, 28-30).
c- Tác Dụng Của Kinh Mạch
- Về Sinh Lý :
1- Kinh lạc có chức năng vận hành khí huyết ni dưỡng tồn thân.
- Thiên 'Kinh Mạch' ghi : "Kinh mạch có nhiệm vụ doanh cho sự vận hành của
khí, nó 'chế' để cho khí trở thành 'độ lượng', bên trong nó làm cho khí của ngũ
hành vận hành thành thứ tự, bên ngồi nó làm cho lục phủ phân biệt nhau"
(LKhu 10, 1).
- Thiên 'Hải Luận' ghi : "12 kinh mạch, trong thì thuộc vào tạng phủ, bên ngoài
lạc với tứ chi và cốt tiết" (LKhu 33, 1).
- Nan thứ 23 Nan Kinh ghi : 'Kinh Mạch là nơi vận hành của khí huyết, là nơi để
cho khí Âm Dương thơng nhau nhằm làm cho cơ thể tươi tốt" (NKinh 23,6).
Như vậy chức năng của kinh mạch là vận hành khí huyết ni dưỡng tồn thân.
Khí tuần hành trong hệ thống kinh lạc gọi là 'Kinh khí'. Dưới sự thúc đẩy của
kinh khí, khí huyết tuần hành không ngừng trong kinh lạc, không ngừng đưa dinh
dưỡng đến tồn thân, bảo đảm chức năng sinh lý bình thường của các tổ chức
trong cơ thể và bảo đảm sự liên hệ ăn khớp giữa các tổ chức đó. Nếu tuần hồn
khí huyết mất điều hồ sẽ gây ra bệnh.
2- Kinh Lạc có chức năng phản ảnh thay đổi bệnh lý và dẫn truyền kích thích.
- Về Bệnh Lý :
Khi tạng phủ có bệnh, bệnh sẽ thơng qua kinh lạc mà phản ảnh ra ngồi cơ thể :
+ Thiên 'Bì Bộ Luận' ghi : "12 kinh mạch là bộ phận ngồi da, vì vậy trăm thứ
bệnh khi bắt đầu phát sinh là phát từ ngồi da lơng trước, tà khí trúng vào thì tấu
lý mở ra, tấu lý mở ra thì tà khí xâm nhập vào Lạc mạch. nếu tà khí cứ ở đó
khơng trừ được thì sẽ chuyển vào kinh. Tà khí ở kinh khơng trừ đi thì sẽ truyền
vào phủ, và ở tại trường Vị" (TVấn 56,9).
- Về Chẩn Đoán
+ Thiên 'Quan Năng' ghi : "Thẩm sát được những bộ vị đau trên cơ thể rồi kết
hợp với những biểu hiện về màu sắc ở trên, dưới, bên phải, bên trái, ở trên mặt
để biết được bệnh đang thuộc hàn hoặc ôn, đang xẩy ra ở kinh nào" (LKhu 73,
17).
+ Thiên 'Vệ Khí' ghi : " Nếu biết phân biệt 12 kinh của Âm Dương, sẽ biết được
bệnh sinh ra ở đâu" (LKhu 52, 8).
+ Mỗi đường kinh có liên hệ với 1 tạng phủ nhất định nào đó, vì vậy, có thể dựa
theo 1 số ngun tắc sau để chẩn đoán :
+ Theo Cơ Quan Bệnh
. Bệnh ở hệ hô hấp ( ho, hen suyễn...) nên nghĩ đến Phế vì theo Nội Kinh : Phế
chủ hơ hấp"; bệnh ở hệ tiêu hoá (bụng đầy, tiêu chảy...) nên nghĩ đến Tỳ Vị vì
theo Nội Kinh : 'Tỳ chủ tiêu hố'...
+ Dựa Vào Huyệt Chẩn Đốn
Mỗi đường kinh khi có xáo trộn, bị bệnh, thường phát ra dấu hiệu báo bệnh như
đau ở 1 số huyệt nhất định, gọi là Mộ huyệt, do đó, có thể dị tìm các huyệt chẩn
đốn này để tìm ra kinh bệnh.
Thí dụ : Kinh Phế bệnh, huyệt Trung Phủ (P.1) ấn vào sẽ đau, kinh Can bệnh, ấn
đau huyệt Kỳ Môn (C.14) ...
+ Theo đường vận hành của kinh (tuần kinh chẩn pháp) : dựa theo nguyên
tắc : 'Kinh lạc sở qua chủ trị sở cập' (kinh lạc đi qua chỗ nào, trị bệnh ở đó), cho
phép ta chẩn được bệnh lý liên hệ với kinh vận hành. Thí dụ :
. Đau vùng hơng sườn có liên hệ đến kinh Can.
. Đau vùng mặt trong cánh tay kèm ho, có liên hệ đến kinh Phế...
+ Dựa Vào Sự Cảm Nhiệt của Tỉnh Huyệt
Còn gọi là phương pháp Akabane's Test (Nhật Bản) : khi 1 đường kinh bị bệnh
thì cảm giác về nóng ở huyệt của kinh đó sẽ thay đổi, cảm giác bên bệnh khác
với bên lanh. Sự chênh lệch này rõ nhất ở các Tỉnh huyệt, do đó, có thể xử dụng
phương pháp đo cảm giác về nhiệt độ, so sánh sự chênh lệch giữa 2 bên phải
trái ( và giữa các kinh với nhau) có thể tìm ra kinh bệnh.
- Đổng Thừa Thống (Trung Quốc) cũng dùng phương pháp đo thời gian cảm ứng
với nhiệt độ để so sánh chênh lệch giữa 2 bên phải - trái, rồi chọn huyệt châm để
điều trị, cũng thấy có tác dụng đièu chỉnh sự chênh lệch của cảm giác đối với
nhiệt độ và cũng chữa được bệnh (Học Viện Y Học I Thượng Hải).
- Có thể dùng lượng thơng điện qua huyệt Tỉnh làm đại biểu để xem xét tình
trạng sinh lý, bệnh lý của mỗi đường kinh (Học Viện Y Học I Thượng Hải).
+ Dựa Vào Sự Thay Đổi Điện Trở Của Huyệt Nguyên
- Đo lượng dẫn điện qua các huyệt của 50 người khoẻ mạnh thấy : nếu lấy trung
bình cộng của tất cả các huyệt của 1 đường kinh thì bằng với lượng thông điện
qua huyệt Nguyên của đường kinh đó. Như vậy, có thể lấy huyệt Nguyên làm đại
biểu cho lượng thông điện của mỗi kinh (Trung Cốc Nghĩa Hùng , Nhật Bản).
Lấy lượng thơng điện trung bình của 5 huyệt Ngũ Du (Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp)
và huyệt Nguyên cũng thấy bằng lượng thông điện của huyệt Nguyên, do đó, có
thể dùng huyệt Nguyên làm đại biểu cho sự dẫn điện của mỗi kinh (Học Viện Y
Học I Thượng Hải).
HỌC THUYẾT KINH LẠC
HỆ THỐNG KINH CÂN
a- Đại cương
+ "Vì các đường kinh này đi ở gân (cân) thịt ngồi cơ thể, vì vậy gọi là ?Kinh
Cân? (Trung Y Học Khái Luận).
+ Kinh Cân là 1 bộ phận của hệ thống kinh lạc, nơi mà kinh kinh khí của 12 Kinh
mạch giao hội, phân tán và liên hệ với cơ, khớp. Kinh Cân là hệ gân cơ của cơ
thể (Châm Cứu Học Thượng Hải).
+ Tên của kinh Cân cũng giống tên của Kinh Chính chỉ khác là thêm chữ Cân ở
đầu. Thí dụ : Kinh Cân thủ Thái Dương, Kinh Cân túc Dương Minh...
b- Vận Hành Của Kinh Cân
Kinh Cân, cách chung, vận hành từ tay chân lên thân mình, cổ, đầu, thường
phân bố ở chân tay, thân, khoang bụng và ngực.
Kinh Dương đi ở mặt ngoài, kinh Âm đi ở mặt trong chân tay, đi vào khoang
bụng, ngực, nhưng không đi vào Tạng Phủ ( khác với 12 Kinh Chính thì ở cả
trong lẫn ngồi và khác với kinh Biệt là chú trọng ở Tạng Phủ).
Nếu theo đường vận hành của kinh Cân từ chỗ bắt đầu cho đến chỗ chấm dứt
thì kinh Cân đa số bắt đầu từ đầu ngón tay, ngón chân, đi qua những chỗ khớp
xương cổ tay, khủy tay, nách, vai, mắt cá, đầu gối, đùi háng, rồi sau đó chia ra ở
ngực, lưng, cuối cùng đến đầu và mình (khác hẳn với sự bắt đầu và chấm dứt,
hoặc lên hoặc xuống của 12 Kinh Chính, cũng như khác với kinh Biệt ở chỗ Kinh
Biệt bắt đầu từ khủy tay, đầu gối trở lên).
Theo thiên ?Kinh Cân? (LKhu 13) thì :
KINH CÂN
VỊ TRÍ GIAO HỘI
VÙNG HUYỆT TƯƠNG
ỨNG
+ Kinh Cân của 3 kinh
Dương ở chân
Giao hội ở xương gò má [lưỡng
quyền].
Vùng huyệt Tứ Bạch - Vi.2.
+ Kinh Cân của 3 kinh
Âm ở chân
Giao hội ở bộ phận sinh dục.
Vùng huyệt Khúc Cốt - Nh.2.
+ Kinh Cân của 3 kinh
Dương ở tay
Giao hội ở chỗ nhọn 2 bên đầu
(giốc).
Vùng huyệt Bản Thần - Đ.13.
+ Kinh Cân của 3 kinh
Âm ở tay
Giao hội ở hông ngực.
Vùng huyệt Uyên Dịch Đ.22.
Như vậy đường vận hành của kinh Cân khác với :
. 12 kinh Chính ở chỗ 12 kinh Chính dựa theo sự lưu chuyển của Âm Dương,
thủ, túc mà tạo nên sự tuần hoàn chỉnh thể.
. 12 kinh Biệt ở chỗ kinh Biệt dựa vào sự ra - vào, ly - hợp của 2 kinh Biểu Lý với
nhau.
c- Biểu Hiện Bệnh Lý Của Kinh Cân
Kinh Cân có nhiều nhánh nhỏ gọi là Tơn Lạc ở ngồi da (TVấn 56, 9). Khi tà khí
từ bên ngồi xâm nhập vào tơn lạc rồi vào kinh Cân. Khi Vệ khí suy thì tà khí sẽ
chuyển vào kinh Chính và Tạng Phủ. Tiến trình này khơng nhất định mà tùy
thuộc vào Vệ khí. Nếu Vệ khí trong kinh Chính mạnh thì tà khí chỉ ở kinh Cân,
đơi khi gây rối loạn ở cơ, xương.
Vì kinh Cân ở phần bên ngồi (vệ), liên hệ nhiều đến gân cơ, vì vậy khi tà khí
xâm nhập vào kinh Cân thì phần gân cơ chịu ảnh hưởng nhiều nhất, gân cơ chủ
sự chuyển động, do đó biểu hiện bệnh lý cách chung của kinh Cân là gân cơ
đau nhức và co rút hoặc mềm nhão.
d- Tác Dụng Của Kinh Cân
Tác dụng của kinh Cân là sắp nối các xương với nhau, tham gia duy trì sự liên
lạc tồn thân (Châm Cứu Học Thượng Hải).
Sách ?Trung Y Học Khái Luận? giải thích : " ...Có 1 số vùng bệnh vượt khỏi
phạm trù của Kinh Chính và kinh Biệt, cùng 1 tên mà khác kinh nhưng lại trị
được bệnh như nhau. Thí dụ : huyệt Hợp Cốc (Đtr.4), Dương Cốc (Ttr.5) của
kinh thủ Dương Minh và Thủ Thái Dương đều có thể trị đầu đau, đó là vì kinh
Cân thủ Dương Minh và thủ Thái Dương có thể ?lên góc trán bên trái, liên lạc
với đầu, xuống cằm bên phải".
e- Chẩn Đoán
Chứng trạng chính của kinh Cân là đau + co rút hoặc mềm nhão.
f- Điều Trị Kinh Cân
Khi điều trị kinh Cân :
+ Cách chung cần tìm cho được những điểm đau (A Thị Huyệt) để châm và
châm lần lượt các A Thị Huyệt cho đến khi có hiệu quả thì thơi.
+ Dùng phép Phần Châm + Kiếp Thích : sau khi châm xong phối hợp thêm cứu.
Thiên ?Kinh Cân? (LKhu 11) hướng dẫn :
Kinh Cân Túc : Cứu (Phần châm ) + A Thị Huyệt.
Kinh Cân Thủ : Cứu (Phần châm) + Kiếp Thích.
(Ghi chú : theo Linh Khu : Kiếp thích là đoạt khí nhanh).
Tuy nhiên nên phân ra 2 trường hợp sau :
1- Thực : Tà khí xâm nhập vào Kinh Cân, da thịt... làm cho Kinh Cân bị Thực mà
phần Lý bên trong ( gân xương = Kinh Chính) bị hư (Tà khí thịnh thì chính khí
suy) . Trường hợp này điều trị bằng cách :
Tả A Thị Huyệt Kinh Cân + Châm và cứu Bổ Kinh
Chính
2- Hư : Tà khí sau khi vào kinh Cân chuyển vào kinh Chính làm cho kinh Chính
bị Thực mà kinh Cân lại bị Hư.
Trường hợp này điều trị bằng cách:
Tả Kinh Chính + Châm và Cứu Kinh Cân
Như vậy, điều trị ở kinh Cân, phải chú ý đến :
+ Vùng cơ thể : bì phu, cơ nhục.
+ Tình trạng Hư, Thực.
Cần chú ý đến các hướng dẫn của thiên ?Thọ Yểu Cương Nhu? như sau :
"Thầy thuốc phải thẩm đốn về Âm Dương để biết cách xử trí về việc châm,
phải nắm được gốc bệnh bắt nguồn từ đâu để cho việc châm thuận được cái lý
của nó..." (LKhu 6, 3).
"Do đó ta biết được rằng bên trong có Âm Dương thì bên ngồi cũng có Âm
Dương" (LKhu 6,4).
"Cho nên mới nói rằng nếu Âm bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Vinh
(Huỳnh) và huyệt Du thuộc Âm, nếu dương bệnh ở tại Dương phận thì châm
huyệt Hợp thuộc Dương, nếu Dương bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Kinh
thuộc Âm, Nếu Âm bệnh ở tại Dương phận thì châm huyệt ở Lạc mạch" (LKhu 6,
6).
HỌC THUYẾT KINH LẠC
KỲ KINH BÁT MẠCH
Theo người xưa, 4 khí dương từ trên đi xuống (Thiên khí) và 4 khí âm (địa khí)
từ dưới đi lên, 8 dịng khí hóa trên giao lưu qua cơ thể con người, tạo thành 8
kinh, gọi là Kỳ kinh bát mạch.
Kỳ kinh bát mạch gồm : Nhâm mạch, Đốc mạch, Dương duy mạch, Âm duy
mạch, Dương Kiều (Kiểu) mạch, Âm Kiều (Kiểu) mạch, Xung mạch và Đái (Đới)
mạch.
Trong 8 mạch, trừ 2 mạch Nhâm và Đốc có huyệt riêng, cịn 6 mạch khác khơng
có huyệt riêng, có thể dùng 1 số huyệt của các kinh chính (huyệt Hội với 8 mạch)
để điều hịa mạch khí của 6 mạch này.
Khác với 12 kinh chính, đường tuần hồn mạch khí của 8 mạch, chỉ đi từ phần
dưới cơ thể lên đầu mặt, trừ mạch Đới đi vòng quanh bụng dưới và thắt lưng.
Trên lâm sàng, chỉ có Mạch Nhâm và Mạch Đốc là thường được dùng đến, các
mạch khác rất ít khi dùng hoặc chỉ được dùng như có tính cách phân chia trên lý
thuyết cho hợp với hệ thống hoặc chỉ được nghiên cứu và dùng trong phép
châm "Linh Quy Bát Pháp".
- 8 mạch, Nhâm, Đốc, Dương duy, Âm duy, Âm kiều, Dương kiều, Đới, Xung và
Đới giao hội với 8 kinh : Tỳ, Tâm bào, Tiểu trường, Bàng quang, Đởm, Tam tiêu,
Phế và Thận ở các huyệt : Công Tôn, Nội quan, Hậu khê, Thân mạch, Túc lâm
khấp, ngoại quan, Liệt khuyết và Chiếu hải.
- 8 mạch có tác dụng : bổ sung chỗ thiếu hụt của 12 kinh
- Đốc, Nhâm, Xung và Đới trực tiếp với chức năng sinh đẻ.
- Dương kiều, Âm kiều trực tiếp với chức năng vận động.
- Dương duy, Âm duy trực tiếp với chức năng thăng bằng của cơ thể.
BẢNG TÓM KẾT KỲ KINH BÁT MẠCH
Mạch
Biểu hiện Bệnh lý
Tác dụng chữa bệnh
ĐỐC
(28 huyệt riêng)
Cột sống vận động khó,
bệnh nặng thì như uốn
ván, đầu váng, lưng yếu
Cứng lưng, uốn ván do
bệnh não, bệnh của tạng
phủ
NHÂM
Nam : thoái vị
(24 huyệt riêng)
Hệ sinh dục, tiết niệu, bao
Nữ : khí hư, khơng sinh đẻ, tử, ngực, họng, trợ dương,
bụng có u
bổ âm
XUNG
(Khơng huyệt
riêng)
Kinh nguyệt khơng đều, vơ
sinh, khí hư, đái dầm, thối
vị, khí bốc lên đau trước
tim
Đau bụng, ngực cấp, các
chứng của kinh thận,
suyễn
Bụng đầy trướng, lưng
lạnh, kinh nguyệt khơng
đều, khí hư, chân teo, liệt
Bụng, thắt lưng đau thắt,
kinh nguyệt không đều, khí
hư, chân yếu
Mắt mờ, đau mắt đỏ, mất
ngủ, động kinh, lưng đau
Bàn chân lệch ngồi, động
kinh, mất ngủ
ĐỚI
(Khơng huyệt
riêng)
DƯƠNG KIỂU
(Không huyệt
riêng)
ÂM KIỂU
Ngủ nhiều, động kinh, bụng Bàn chân lệch trong, họng
dưới đau, thoái vị ở nam,
đau, động kinh, buồn ngủ
băng lậu ở nữ
(Không huyệt
riêng)
DƯƠNG DUY
(Không huyệt
riêng)
Sức yếu, sốt rét, đầu váng,
hoa mắt, suyễn, đau sưng
thắt lưng
Chứng sốt ở Biểu
Vùng tim đau, ngực sườn
đau, Thắt lưng đau, vùng
sinh dục nam
Bao tử đau, vùng tim đau,
ngực đau, bụng đau.
ÂM DUY
(Không huyệt
riêng)
HỌC THUYẾT KINH LẠC
HỆ THỐNG LẠC MẠCH
a- Đại Cương
-Thiên ?Kinh Mạch? ghi : "Các mạch nổi lên mà chúng ta thấy đều thuộc về Lạc
mạch" (LKhu 10, 117) và ?Những mạch hiện ra đều thuộc Lạc mạch" (LKhu 10,
121).
Trương Cảnh Nhạc khi chú giải đoạn này của thiên Kinh Mạch giải thích : "Phàm
những sợi gân nằm ở phía ngồi cánh tay đều hiện lên rõ ràng, tục gọi là gân
xanh. Thực ra đây không phải là gân , không phải là mạch, đó là những đại lạc
chứa huyết, gọi là ?Phù Lạc?".
b- Cơ Cấu Của Lạc Mạch
Sách Nan Kinh, điều 26 ghi : "Kinh có 12, Lạc có 15...".
Các tài liệu Kinh điển như Nội Kinh, Nan Kinh đều xác nhận có 15 Lạc Mạch, đó
là :
12 Lạc của 12 Kinh.
1 Đại lạc của Tỳ.
2 lạc của Kỳ Kinh Bát Mạch.
c- Phân Loại Lạc Mạch
Tuy gọi chung là Lạc Mạch nhưng xét về vị trí, chức năng, có thể phân làm 2 loại
Lạc Mạch là Lạc Dọc và Lạc Ngang.
c.1) Lạc Dọc : "Là những nhánh tách ra từ Kinh chính, có thể đi song song với
Kinh chính nhưng nó khơng đi vào sâu cũng khơng dài như các Kinh chính"
(Trung Y Học Khái Luận).
c.2) Lạc Ngang : (Sách ?Trung Y Học Khái Luận? gọi là Biệt Lạc) là những
nhánh từ kinh mạch rẽ ra, thường ngắn vì chủ yếu là nối kinh khí giữa các Lạc
và Nguyên huyệt của 2 đường kinh có quan hệ Biểu Lý với nhau.
d- Vận Hành Của Lạc Mạch
Xét kỹ về Lạc mạch, có thể nhận thấy :
+ Lạc ngang : đa số khu trú ở khủy tay, bàn tay và bàn chân.
+ Lạc Dọc : đi từ các kinh đến trực tiếp các tạng phủ và vùng đầu mặt.
+ Tôn lạc : đa số nổi dưới da thành các mạch máu nhỏ.
e- Tác Dụng Của Lạc Mạch
+ Lạc Ngang : Nối kết sự hoạt động liên lạc chủ yếu giữa 2 kinh có quan hệ Biểu
Lý với nhau [qua các huyệt Lạc và Nguyên] (Trung Y Học Khái Luận).
+ Lạc Dọc : Đưa kinh khí từ các kinh chính đến các Tạng phủ và vùng đầu mặt
(Trung Y Học Khái Luận).
+ Tơn Lạc : Giúp dễ chẩn đốn, nhất là qua các mạch máu nhỏ nổi ở vùng hoặc
đường đi của kinh lạc bị bệnh.
f- Điều Trị Lạc Mạch
+ Nếu là Lạc Ngang
* Thực chứng : Tả Lạc huyệt kinh Chính + bổ Ngun huyệt của kinh có quan hệ
Biểu Lý với kinh bệnh.
* Hư Chứng : Bổ Nguyên huyệt kinh Chính + tả Lạc huyệt của kinh có quan hệ
Biểu Lý với kinh bệnh.
+ Nếu là Lạc Dọc
* Thực chứng : Tả Lạc huyệt của kinh Chính.
* Hư Chứng : Tả Nguyên huyệt của kinh Chính + Bổ Lạc huyệt của kinh có quan
hệ Biểu Lý với kinh bệnh.
+ Nếu là Tôn Lạc, Huyết Lạc, Phù Lạc
Theo thiên ?Kinh Mạch? (LKhu 10), chủ yếu là châm cho ra máu (xuất huyết).
BẢNG TỒNG KẾT 15 LẠC MẠCH
Lạc Mạch của Chứng thực
Kinh
Chứng hư
Huyệt chữa
Thái âm PHẾ
Mỏm trâm quay và Hắt hơi, đái dầm, đái
gan tay nóng
nhiều
Liệt Khuyết
Dương minh
ĐẠI TRƯỜNG
Răng sâu, điếc
Răng lạnh, cảm giác
tức ở vùng cơ hoành
Thiên Lịch
Dương minh
VỊ
Cuồng, động kinh
Chi dưới liệt, cơ cẳng
chân teo
Phong Long
Thái âm TỲ
Ruột đau ở 1 chỗ
Bụng trướng căng
Công Tôn
Thiếu âm
TÂM
Ngực khó chịu
Khơng nói được
Thơng Lý
Thái dương
TIỂU
TRƯỜNG
Khớp yếu, khuỷ
tay khó vận động
Mọc nhiều mụn cơm ở
da
Chi Chánh
Thái dương
BÀNG
QUANG
Nghẹt mũi, sổ mũi, Sổ mũi nước trong,
lưng đau
chảy máu cam
Phì Dương
Thiếu âm
THẬN
Đại tiểu tiện không Lưng đau
thông
Đại Chung
Quyết âm
TÂM BÀO
Vùng tim đau
Đầu gáy cứng
Nội Quan
Thiếu dương
TAM TIÊU
Khuỷ tay co quắp
Khuỷ tay co duỗi khó
Ngoại Quan
Thiếu dương
ĐỞM
Chân giá lạnh
Chân yếu khơng đi
Quang Minh
được, ngồi xuống đứng
lên không được
Quyết âm
CAN
Dương vật cương, Ngứa ở bộ phận sinh
dài
dục ngoài
Lãi Câu
ĐỐC mạch
2 bên cột sống
cứng
Đầu váng nặng
Trường
Cường
NHÂM mạch
Da bụng đau
Da bụng ngứa
Cưu Vĩ