Chuyên đề 1
VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ
ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY (5
tiết)
Mục tiêu
+ Kiến thức: Trang bị cho học viên những vấn đề cơ bản về nội dung, yêu
cầu, nguyên tắc, phương châm, phương pháp vận dụng và phát triển những nguyên
lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng và xây dựng Đảng trong giai đoạn
hiện nay; qua đó giúp người học nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo các nội
dung nguyên lý về Đảng và xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai
đoạn hiện nay.
+ Kỹ năng: Giúp học viên nâng cao kỹ năng nghiên cứu, vận dụng, xử lý
các vấn đề lý luận về Đảng và xây dựng Đảng của Học thuyết Mác - Lênin về
Đảng và xây dựng Đảng trong thực tiễn.
1. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ
ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG
1.1. Tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng độc lập của
giai cấp công nhân
1.1.1. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản
Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, các nhà khoa học đã nhận thấy: xã hội có giai
cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp; nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen phát hiện
rằng: đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản. Chủ nghĩa Mác chỉ ra
rằng: dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, có nhiều giai cấp mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích
với giai cấp tư sản. Trong số các giai cấp bị giai cấp tư sản làm cho lụi bại, bị tiêu
diệt và suy tàn, chỉ duy nhất có giai cấp công nhân là ngày càng hùng mạnh: họ là
con đẻ của đại công nghiệp, bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải làm thuê
cho giai cấp tư sản. Là giai cấp xã hội đông đảo, sống tập trung ở các trung tâm
cơng nghiệp và đơ thị; có tinh thần đoàn kết, kỷ luật và cách mạng cao. Hơn nữa,
tính cách mạng của giai cấp cơng nhân khơng chỉ hình thành bởi những đặc điểm
trên, mà cịn vì giai cấp công nhân là lực lượng không ngừng cách mạng hóa các
lực lượng sản xuất xã hội, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ trong tương
lai
Lực lượng sản xuất không ngừng phát triển (do giai cấp công nhân đại
biểu), làm cho tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất mâu
thuẫn sâu sắc với quan hệ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất (do giai cấp tư sản đại
biểu). Mâu thuẫn đó phát triển đến mức chỉ có thể xóa bỏ sở hữu tư nhân tư liệu
sản xuất, thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới có thể làm
cho sản xuất xã hội tiếp tục phát triển.
Cách mạng xã hội là biểu hiện ra bên ngồi cuộc đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn khơng thể điều hòa bên trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữa
tính chất, trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Khái quát những tư tưởng vĩ đại nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, Ph.Ăngghen viết: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ
cấu xã hội; cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra; cả hai cái đó cấu
thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đaị ấy; do đó (từ khi
chế độ công hữu ruộng đất nguyên thuỷ tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi
bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn
của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai
đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vơ sản) khơng cịn có thể
tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được
nữa, nếu khơng đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóc lột,
ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”1.
1.1.2. Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ nhất định sẽ dẫn tới sự ra đời
các đảng chính trị. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vơ sản với giai cấp tư sản
địi hỏi sự ra đời của Đảng Cộng sản
Xã hội phân chia thành giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp nhằm giải
quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ
nhất định sẽ xuất hiện các đảng chính trị; đấu tranh giữa các đảng chính trị là biểu
hiện đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ khá cao.
Giai cấp vơ sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử: trở thành giai cấp
cầm quyền, đứng trên vũ đài lịch sử, thiết lập phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa, xóa bỏ cơ sở kinh tế, xã hội của chế độ người bóc lột người thì điều kiện
tiên quyết là phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Chính đảng độc lập có
vai trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh
tự phát, lẻ tẻ, rời rạc, vì mục đích kinh tế trước mắt thành cuộc đấu tranh tự giác,
có tổ chức, có lãnh đạo, vì mục đích chính trị rộng lớn: phát triển giai cấp công
nhân từ một giai cấp 'tự mình" thành giai cấp “vì mình”. Về vấn đề này, C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ:
"Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hiệp của giai cấp có
của, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập
với tất cả các chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động
với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một
11 C. Mác và Ph, Ăngghen: Tuyển tập, tập I. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội - 1980, tr. 509-510.
chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được
mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp"2. Như vậy thì thấy, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nền thống trị của giai cấp
tư sản tất yếu đòi hỏi sự ra đời của chính đảng vơ sản với tư cách là lãnh tụ chính
trị, đội tiên phong của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
2.2. Quy luật ra đời và những nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng
Cộng sản.
2.2.1. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
Thứ nhất, Đảng Cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: chỉ
khi nào chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập vào phong trào công nhân, làm cho
giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, có ý thức về cuộc đấu tranh
chính trị nhằm giải phóng giai cấp, thì khi đó họ sẽ nhận thấy tính tất yếu phải lập
ra chính đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chun
chính vô sản. Thực tiễn cho thấy: nếu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học không
kết hợp với phong trào cơng nhân thì về mặt tổ chức, thành tựu cao nhất của nó là
các Hội truyền bá chủ nghĩa Mác và, nếu phong trào công nhân không kết hợp với
chủ nghĩa xã hội khoa học, thì về mặt lý luận thành tựu cao nhất của nó là chủ
nghĩa cơng đồn.
Thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen khơng chỉ là những người đầu tiên nêu tư
tưởng về tính tất yếu, quy luật ra đời của đảng cộng sản, về tổ chức và hoạt động
của đảng, mà còn trực tiếp tham gia phong trào công nhân, lập ra tổ chức cộng sản
đầu tiên của giai cấp công nhân thế giới.
2 Mác, Ăngghen: Tuyển tập, T4 Nxb CTQG, H.2004 tr.220.
2.2.2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản
Thông qua hoạt động của một số tổ chức cộng sản và những văn kiện do
C.Mác, Ph.Ăngghen soạn thảo cho các tổ chức này đã thể hiện quan điểm, tư
tưởng của hai Ông về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản
như sau:
Một là, đảng là đội tiên phong của giai cấp, có lý luận cách mạng, giác ngộ
và kiên quyết trong hoạt động thực tiễn.
Tính tiền phong về tư tưởng, tổ chức và hành động kiên quyết trong thực
tiễn cách mạng nhằm theo đuổi đến cùng mục tiêu, lý tưởng của Đảng là thuộc tính
bản chất làm nên sự khác biệt giữa đảng cộng sản với các đảng công nhân khác,
giữa những người cộng sản với những người vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen viết: "Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai
cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vơ sản"1.
Tính tiền phong của đảng cộng sản khơng phải là ý muốn chủ quan của
những người sáng lập đảng, mà là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành,
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Hai là, đảng cộng sản là một chính đảng độc lập, mang bản chất giai cấp
cơng nhân rõ rệt.
11 C. Mác và Ph, Ăngghen: Tồn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr. 614.
Đảng cộng sản phải là một chính đảng độc lập của giai cấp cơng nhân về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Đảng độc lập
nhưng khơng cơ độc, biệt lập với tồn thể giai cấp và quần chúng, trái lại, đảng
phải gắn bó chặt chẽ với giai cấp và quần chúng nhân dân. Đảng có tính giai cấp và
đại diện cho lợi ích của tồn thể giai cấp cơng nhân: "Những người cộng sản không
phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng cơng nhân khác. Họ tuyệt nhiên
khơng có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản" 3. Từ
việc xác định vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đi đến kết luận về sự cần thiết phải thành lập một chính đảng độc lập
của giai: “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai
cấp hữu sản, giai cấp công nhân, chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc
lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có
thể hành động với tư cách là một giai cấp”4.
Ba là, đảng được xây dựng trên tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều lệ của Liên đoàn những người Cộng sản, do C.Mác và Ph. Ăngghen khởi
thảo năm 1847, chưa xác định Liên đoàn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, song nội dung của bản Điều lệ đã thể hiện Liên đoàn được tổ chức trên
tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều lệ qui định rằng: “Về cơ cấu, Liên
đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội” 5.
Trong đó: “Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn Liên đoàn” 6; “Ban chấp
hành trung ương là cơ quan chấp hành quyền lực của tồn Liên đồn và với tư cách
đó, phải báo cáo công tác với Đại hội” 7; “Tổng khu bộ là cơ quan chấp hành quyền
3
4 C. Mác và Ph, Ăngghen: Tồn tập, tập 18. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr. 203.
5C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2004, tr.649
6 C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2004, tr.652
7C.Mác và Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2004, tr 651,
lực đối với tất cả các khu bộ của một tỉnh” 8; “ Ban chấp hành khu bộ là cơ quan
chấp hành quyền lực đối với tất cả các chi bộ thuộc khu bộ”9
Các thành viên ban lãnh đạo của Liên đoàn từ khu bộ đến Ban chấp hành
Trung ương phải được bầu cử dân chủ và đều có thể bị những người bầu ra họ thay
thế hoặc bãi miễn; mọi đảng viên đều phải chấp hành nghị quyết của Liên đồn; họ
có quyền bình đẳng như anh em và có nghĩa vụ giúp đỡ nhau như anh em, được tự
do thảo luận, tranh luận trong khuôn khổ tổ chức của Đảng; đảng viên phải nộp
đảng phí, người vi phạm Điều lệ, kỷ luật Đảng sẽ bị khai trừ, hoặc đình chỉ sinh
hoạt; kiên quyết chống các phần tử vơ tổ chức, các phần tử cơ hội, xét lại.
Bốn là, người vào đảng phải thừa nhận thế giới quan cộng sản chủ nghĩa;
hành động phù hợp mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng; tự giác phục tùng nghị quyết và
giữ gìn bí mật của Đảng.
C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: do mục đích hàng đầu của những người
cộng sản là “Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 10, nên muốn trở thành hội
viên của Liên đồn những người cộng sản, cần phải: có “a. Lối sống và hoạt động
phù hợp với mục đích ấy; b. Nghị lực cách mạng và nhiệt tình trong công tác
tuyên truyền; c.Thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; d. Khơng tham gia vào mọi tổ chức
- tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản, và có nghĩa vụ báo cáo
với cơ quan lãnh đạo hữu quan về việc mình tham gia một tổ chức nào đó; e. Phục
tùng các nghị quyết của Liên đồn; f. Giữ bí mật mọi cơng việc của Liên đồn; g.
Được một chi bộ nhất trí kết nạp. Ai khơng còn đủ những điều kiện ấy sẽ bị khai
trừ”11. Tiêu chuẩn và điều kiện trở thành hội viên của Liên đoàn những người cộng
8 Sdd, tr 650
9 Sdd, tr 650
10 C.Mác, Ph.Ăngghen, tồn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr 615.
11 C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4 . Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr 732-733.
sản nói trên đã trở thành cơ sở lý luận cho các Đảng cộng sản sau này nghiên cứu
xây dựng Điều lệ của đảng mình cho phù hợp với hồn cảnh và điều kiện từng
nước.
Năm là, đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc, thống nhất về tư
tưởng và tổ chức.
C.Mác, Ph.Ăngghen là những người đầu tiên nêu những nguyên tắc cơ bản về
tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản. Những tổ chức cách mạng đầu tiên của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: “Đồng minh những người cộng sản”
(1847-1852) và “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” (quốc tế I, 1864-1876), dưới sự
lãnh đạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã được tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học. Về mặt tổ chức, hai ơng địi hỏi đảng
cộng sản phải được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và bắt buộc đối với
mọi đảng viên. C.Mác khẳng định: “Vì rằng thành cơng của phong trào cơng nhân
mỗi nước chỉ có thể được đảm bảo bằng lực lượng đồn kết và tổ chức”12.
Sáu là, đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt
động của Đảng, với nhiệm vụ của Đảng phải giải quyết.
Để đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong phạm vi toàn Đảng,
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: đảng cộng sản phải được tổ chức thành hệ thống
chặt chẽ, từ dưới lên và từ trên xuống. Điều 5 của Điều lệ Liên đoàn những người
cộng sản quy định: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban
chấp hành trung ương và Đại hội” 13. Trong hồn cảnh hoạt động bí mật và phân
tán, lực lượng những người cộng sản trong giai cấp cơng nhân mỗi nước cịn ít về
số lượng, non trẻ về lý luận và kinh nghiệm, thì việc thành lập một Đảng Cộng sản
chung cho nhiều nước như Liên đoàn những người cộng sản là phù hợp. Tuy nhiên,
12 C.Mác, Ph.Ăngghen, tồn tập, tâp 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr 615.
13 C.Mác, Ph.Ăngghen, tồn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr 733.
khi lực lượng những người cộng sản của giai cấp công nhân mỗi nước đã lớn
mạnh, nhiệm vụ của phong trào cơng nhân mỗi nước khác nhau, thì việc giai cấp
cơng nhân ở mỗi nước lập ra chính đảng của mình là địi hỏi tất yếu, khách quan.
Bảy là, đảng được xây dựng trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vơ sản,
"vơ sản tất cả các nước đồn kết lại".
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đoàn kết quốc tế trong phong trào cộng sản là
tất yếu, bởi vì: “Chủ nghĩa tư bản cũng mang tính quốc tế cả về kinh tế và chính trị
(liên kết quốc tế chống giai cấp vơ sả). Công nhân quốc tế của giai cấp vô sản
không chỉ thể hiện bằng tinh thần, lời nói, “tình hữu nghị” sng như cương lĩnh
nêu mà phải có “chức năng quốc tế” phải có sự phối hợp hành động thực tế”. 14
Theo Ph.Ăngghen: “Thật ra, bản thân quốc tế chỉ sống có chín năm. Nhưng sự
đồn kết bất diệt do quốc tế đã xây dựng được giữa những người vô sản tất cả các
nước vẫn tồn tại và ngày càng mạnh hơn bao giờ hết” 15. Đoàn kết thống nhất trong
Đảng và đồn kết quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng. Từ nghiên cứu lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chứng minh được rằng: nếu thiếu sự đồn kết, thống nhất các
đảng sẽ khơng xây dựng được tổ chức của mình thật sự vững mạnh.
2.2. Những nguyên lý về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của V.I.
Lênin
2.2.1. Điều kiện lịch sử mới và tổ chức của những người cách mạng Nga
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20
14 C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr 484.
15 C.Mác, Ph.Ăngghen, tuyển tập, tập 1. Nxb Sự thật, Hà Nội - 1980, tr 526.
Thứ nhất, Chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh đến độc quyền và
trở thành chủ nghĩa đế quốc; nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng vô sản đặt ra trước
những người cách mạng Nga
Vào nửa cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do
cạnh tranh đến độc quyền phản động, trở thành chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp công
nhân đã lớn mạnh, ln có ý thức mạnh mẽ về địa vị giai cấp của mình. Trung tâm
cách mạng thế giới chuyển dần từ trung tâm Châu Âu về nước Nga ở phương
Đông. Nước Nga hội đủ những mâu thuẫn lớn nhất thời đại. Phong trào đấu tranh
của giai cấp nông dân và giai cấp công nhân Nga chống chế độ quân chủ chuyên
chế thối nát và chống giai cấp tư sản Nga hết sức mạnh mẽ, kết hợp với cuộc đấu
tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa Nga. Nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng
vô sản đã trực tiếp đặt ra trước những người Dân chủ - xã hội Nga.
Thứ hai, chủ nghĩa cơ hội đã lũng đoạn Quốc tế 2
Quốc tế xã hội chủ nghĩa (Quốc tế II), do Ph.Ăngghen sáng lập năm 1889
đã đáp ứng những đòi hỏi thực tế của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế
những năm tám mươi của thế kỷ XIX, tuy nhiên sau khi Ph.Ăngghen mất (1895),
những đại biểu cơ hội chủ nghĩa của Quốc tế 2 đã lũng đoạn tổ chức này, các Đảng
dân chủ- xã hội thuộc Quốc tế II đi theo khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, họ cơng
khai từ bỏ chun chính vơ sản, xét lại chủ nghĩa Mác. Theo V.I.Lê nin, các Đảng
dân chủ - xã hội của Quốc tế II đã trở thành những vũ khí han rỉ, khơng dùng được
trong thời đại cách mạng vô sản, thời đại trực tiếp đặt ra vấn đề giành chính quyền
về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Thứ ba, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga ra đời cuối thế kỷ XIX,
nhưng sớm lâm vào khủng hoảng về chính trị, tư tưởng và chưa có hình thù về tổ
chức.
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga được thành lập năm 1898, nhưng
chưa có Điều lệ tổ chức, chưa thông qua được cương lĩnh cách mạng; Đảng mới
chỉ bầu được Ban Chấp hành Trung ương, song các ủy viên Ban chấp hành Trung
ương sớm bị chế độ chuyên chế Sa Hoàng bắt, lưu đày, xử tử. Do vậy, trên thực tế,
Đảng vẫn chỉ gồm những tiểu tổ cách mạng hoạt động phân tán ở khắp các địa
phương của nước Nga và ở nước ngoài. Về mặt tư tưởng, các tổ chức cách mạng
của Đảng chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng xét lại và cơ hội của các lãnh tụ Quốc tế
II. Phái Kinh tế là lực lượng cơ hội mạnh nhất trong Đảng Công nhân dân chủ - xã
hội Nga lúc bấy giờ, công khai xét lại và từ bỏ cơ sở tư tưởng của Đảng.
2.2.2. Những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga do
V.I.Lê nin khởi xướng
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen về đảng cộng sản, V.I.Lênin
đã tích cực tham gia vào q trình xây dựng Đảng Cơng nhân Dân chủ - xã hội
Nga (1898) theo hướng xây dựng một chính đảng cách mạng thật sự của giai cấp
cơng nhân. Trong các tác phẩm “Làm gì?” viết vào tháng 3 năm 1902 và tác phẩm
“Một bước tiến, hai bước lùi” viết vào đầu năm 1904, V.I.Lênin đã đóng vai trị
xuất sắc trong q trình xây dựng một đảng cơng nhân mác xít cách mạng như vậy.
V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng
cộng sản, đề xuất những nguyên tắc về chính đảng vô sản kiểu mới của giai cấp
công nhân Nga:
Một là, Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác
ngộ nhất của giai cấp công nhân
Theo quan điểm của V.I.Lênin, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Nga. Là đội tiên phong của giai cấp, Đảng trung
thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp cơng nhân, có lý luận tiên phong và tổ
chức chặt chẽ. Người cho rằng: “đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải
nâng các tầng lớp ngày càng đơng đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy. Và chúng ta
chính là sẽ nhắm mắt lại và quên mất như vậy, nếu xoá bỏ sự khác nhau giữa
những người gần gũi đảng và những đảng viên, giữa những phần tử giác ngộ và
tích cực với những người giúp đỡ chúng ta”16.
Đảng không chỉ là đội tiên phong có vai trị giác ngộ sứ mệnh và địa vị lịch
sử của giai cấp công nhân, mà Đảng cịn là một bộ phận có tổ chức và là tổ chức
cao nhất của giai cấp công nhân. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp cơng nhân khơng có vũ khí nào tốt hơn là sự
tổ chức; rằng, tổ chức quả là một vũ khí nhờ đó mà giai cấp vơ sản sẽ tự giải
phóng; rằng, đối với giai cấp cơng nhân thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp.
Hai là, Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng
Bóc trần những luận điểm cơ hội chủ nghĩa của Phái kinh tế trong Đảng,
V.I.Lê nin vạch rõ: Học thuyết xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân có chung một nguồn gốc trong những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa,
trong cuộc đấu tranh chống sự nghèo khổ và lầm than của quần chúng do chủ nghĩa
tư bản gây nên. Nhưng học thuyết xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân lại ra
đời từ những tiền đề khác nhau, cái nọ không sinh ra cái kia được. Học thuyết xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ những tiền đề khoa học tự nhiên, xã hội và tư
duy đã chín muồi; trên cơ sở hiểu biết sâu sắc triết học cổ điển Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội khơng tưởng của Pháp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội khoa học làm vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản cách
mạng.
Ba là, Đảng được tổ chức theo nguyên tắc Tập trung dân chủ
16 V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ,Matxcơva, 1979, tập 8, trang.290.
Theo V.I.Lênin, để có thể làm trịn vai trị đội tiên phong của giai cấp cách
mạng, thì về mặt tổ chức, đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Thực hiện nguyên tắc này sẽ tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, làm
cho đảng vững chắc và phát huy được sức mạnh của toàn đảng. V.I.Lênin chỉ ra
rằng: “Việc bảo vệ tính vững chắc của đường lối và sự trong sạch của những
nguyên tắc của đảng, ngày nay lại càng trở thành một công việc cấp thiết hơn, vì
sau khi đã phục hồi lại sự thống nhất của mình, đảng sẽ thu nạp vào hàng ngũ của
mình rất nhiều phần tử khơng vững vàng mà số lượng đó sẽ lớn lên theo sự phát
triển của đảng”17
Bốn là, Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu
tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng không bao gồm toàn
bộ giai cấp. Nhưng đội tiên phong muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức
mạnh để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì đảng phải liên hệ chặt chẽ với
toàn thể quần chúng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự khác nhau
giữa đội tiên phong của giai cấp công nhân và tồn thể quần chúng cơng nhân chưa
thể mất đi khi xã hội cịn giai cấp. Nhưng cũng khơng thể để sự khác nhau đó trở
thành sự cách biệt. Đảng khơng thể lãnh đạo được giai cấp nếu như đảng không có
sự liên hệ với quần chúng cơng nhân ngồi đảng và các tầng lớp lao động khác;
đồng thời nếu đảng khơng được quần chúng tin cậy về mặt chính trị, tư tưởng thì
cũng sẽ khơng nhận được sự ủng hộ của họ, V.I.Lênin viết: “Muốn trở thành một
đảng dân chủ - xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp”18.
Trong mối liên hệ với quần chúng, đảng phải khắc phục khuynh hướng lệch
lạc xa rời quần chúng, đồng thời cũng đề phịng khuynh hướng theo đi quần
17 V. I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1979,
tập 7, trang 351-352.
18 V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ,Matxcơva, 1979, tập 8, trang.293.
chúng, hạ thấp trình độ đảng xuống ngang trình độ quần chúng. Người chỉ rõ:
“chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của
chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa
đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta
quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp
ngày càng đơng đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”19.
Năm là, Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Đồn kết thống nhất là nguồn sức mạnh của đảng cộng sản, là điều kiện để
đoàn kết giai cấp: “Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả một sự bất đồng không đáng
kể, cũng có thể trở thành nguy hiểm về mặt chính trị” 20. V.I.Lênin đặc biệt quan
tâm đến sự đồn kết, thống nhất của đảng trong điều kiện đảng cầm quyền:
“Chun chính vơ sản khơng thể thực hiện được nếu khơng có sự đồn kết nhất trí
của những người lao động”21.
Theo V.I.Lênin, khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chun chính vơ
sản, đảng phải khắc phục mọi sự bất đồng mâu thuẫn, nguồn gốc của sự chia rẽ
trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng với quần chúng vơ sản. Đồn kết thống
nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết giai cấp; sự đoàn kết toàn giai cấp khơng thể có
được nếu khơng có sự đồn kết trong đảng.
Sáu là, khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chun chính vơ sản
và là một bộ phận của hệ thống đó
Đảng lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động, mới chỉ là thành công bước đầu. Nhiệm vụ khó khăn
19 V.I.Lênin: Tồn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ,Matxcơva, 1979, tập 8, trang.289-290.
20 V.I.Lênin Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1977, t.42, tr.336
21 V.I.Lênin Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1977, t.40, tr.260
và phức tạp hơn nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ xã hội
mới, xã hội chủ nghĩa. Đảng là một bộ phận của hệ thống chun chính vơ sản,
nhưng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên
quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng. V.I.Lê nin
chỉ ra rằng: “Tóm lại, chúng ta có một bộ máy vơ sản, về hình thức thì khơng phải
là cộng sản, một bộ máy mềm dẻo và tương đối rộng rãi, rất mạnh, một bộ máy mà
thơng qua đó đảng liên hệ chặt chẽ với giai cấp và với quần chúng và thông qua đó,
chun chính của giai cấp được thực hiện dưới sự lãnh đạo của đảng” 22. Chính vì
vậy, khơng một lúc nào được phép buông lỏng sự lãnh đạo của đảng đối với nhà
nước, vì điều này sẽ thủ tiêu sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa và mở
đường cho những phần tử phản động cướp chính quyền, đưa đất nước trở lại con
đường tư bản chủ nghĩa
Bảy là, Đảng mạnh lên do thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
trong Đảng.
Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, V.I.Lênin không ngừng đấu tranh
để bảo vệ và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, Người chỉ rõ: đối với
chủ nghĩa Mác, nghĩa vụ thiêng liêng của những người mác xít là phải bảo vệ lý
luận đó, chống lại những mưu toan xuyên tạc và hạ thấp lý luận cách mạng.
V.I.Lênin chỉ ra đặc điểm chung của chủ nghĩa cơ hội là: “Do bản chất của mình,
phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng và dứt
khoát; bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con
rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thỏa thuận” với cả quan
điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại
thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành
tâm và vơ hại…" 23.
22 V.I.Lênin Tồn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1977, t.41, tr.38
23 V.I.Lênin: Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 8, trang.476-477
Tám là, Đảng tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính quốc tế, đảng của giai cấp cơng nhân
phải tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế đòi
hỏi: đảng phải kết hợp đúng đắn lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của phong trào
cách mạng thế giới; giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao
cả; phải cảnh giác với chủ nghĩa sô - vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, đối lập lợi
ích dân tộc với lợi ích của giai cấp cơng nhân.
V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Thắng lợi của cách mạng vô sản thế giới địi hỏi giai
cấp cơng nhân các nước tiên tiến phải hết sức tin cậy lẫn nhau, đoàn kết anh em hết
sức chặt chẽ với nhau và phải hết sức nhất trí trong các hành động cách mạng của
họ”24. Việc liên minh giữa các đảng với phong trào công nhân của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thế giới là chính sách đối ngoại của đảng: “Liên minh
với những người cách mạng trong các nước tiên tiến và với tất cả các dân tộc bị áp
bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách đối ngoại
của giai cấp vơ sản”25.
2. U CẦU, NỘI DUNG, NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG CHÂM, PHƯƠNG PHÁP
VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG
ĐẢNG
2.1. Những yêu cầu mới đối với việc vận dụng và phát triển Học thuyết
Mác - Lênin về Đảng và xây dựng Đảng hiện nay
Học thuyết Mác - Lênin về Đảng và xây dựng Đảng cộng sản là một trong
những cống hiến to lớn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin vào kho tàng lý luận
chính trị của Chủ nghĩa xã hội khoa học. Sau gần 170 năm ra đời và phát triển,
thực tiễn Phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế đã chứng minh tính đúng đắn
24 V. I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1977,
25 V. I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva 1981,
tập 38, trang 132.
tập 32, trang 425.
của những luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác về xây dựng chính đảng cách
mạng của giai cấp cơng nhân. Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã có những bước phát
triển khổng lồ so với gần 170 năm trước đây, đòi hỏi các Đảng Cộng sản hiện nay,
dù đang cầm quyền hay chưa cầm quyền, hoặc đã mất quyền lãnh đâọ, đều phải
tổng kết thực tiễn để góp phần phát triển Học thuyết Mác - Lênin về Đảng và xây
dựng Đảng cộng sản, làm cho Học thuyết đó được tiếp thêm sức sống mới, phản
ánh chính xác hơn những yêu cầu của thời đại, phục vụ đắc lực vai trò cầm quyền
của các Đảng Cộng sản đang cầm quyền và trở thành vũ khí sắc bén đấu tranh
hướng tới mục tiêu cầm quyền của các đảng cộng sản. Để vận dụng sáng tạo và
góp phần phát triển Học thuyết trong điều kiện hiện nay, chúng tôi thấy cần thực
hiện tốt các yêu cầu sau:
Một là, phải nhận thức rõ những vấn đề có tính ngun tắc trong vận dụng
và phát triển sáng tạo Học thuyết. Tính ngn tắc đó phải chăng là: phát triển lý
luận phải bảo đảm cho các Đảng Cộng sản vững mạnh hơn, có nhiều uy tín chính
trị hơn trong giai cấp cơng nhân và các tầng lớp nhân dân. Ở những nước giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, Đảng Cộng sản cầm
quyền phải trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải làm rõ những nội dung nào trong Học thuyết về xây dựng chính
đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân đã bị thực tiễn chính trị vượt qua cần phải
thay đổi, phát triển; những nội dung nào vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục nghiên
cứu vận dụng.
2.2. Nội dung, nguyên tắc vận dụng và phát triển Học thuyết Mác Lênin về Đảng và xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay
2.2.1. Một số nội dung cần vận dụng, phát triển triển
trong Học thuyết.
Là một Học thuyết tối quan trọng về chính trị, có ý nghĩa quyết định, sống
cịn đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh vì mục tiêu xố bỏ áp bức giai cấp, giải
phóng con người và phát triển con người toàn diện, việc vận dụng Học thuyết để
xây dựng các Đảng Cộng sản đang cầm quyền là tất yếu, đang diễn ra hàng ngày ở
các nước đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc vận dụng bất kỳ
một nội dung nào trong các quan điểm, nguyên tắc về xây dựng chính đảng cách
mạng theo chủ nghĩa Mác – Lênin chân chính, đều phải vận dụng sang tạo. Bởi, lý
luận dù đúng đắn đến đâu, lý luận vẫn là những khái quát từ thực tiễn cách mạng,
đã tước bỏ những điều kiện cụ thể của thực tiễn. Bởi thế vận dụng lý luận phải xuất
phát từ thực tiễn, đòi hỏi phải sáng tạo.
Về phát triển những luận điểm lý luận trong Học thuyết, có thể nói tất cả các
Đảng Cộng sản đã lãnh đạo cách mạng thành công, trở thành Đảng Cộng sản cầm
quyền, đều là những Đảng đã vận dụng và phát triển sáng tạo Học thuyết phù hợp
với hoàn cảnh đất nước của mình. Tuy nhiên, có thể khái quát một số nội dung mà
các Đảng đã phát triển sáng tạo Học thuyết:
Một là, phát triển lý luận xung quanh vấn đề qui luật ra đời của các Đảng
Cộng sản. Hai là, phát triển lý luận về vị trí, vai trò, bản chất của Đảng Cộng sản.
Ba là, phát triển một số nội dung trong các nguyên tắc xây dựng Chính đảng cách
mạng kiểu mới của V.I.Lênin. Bốn là, phát triển lý luận cầm quyền của Đảng Cộng
sản trong điều kiện hiện đại. Năm là, phát triển lý luận xây dựng Đảng trên các mặt
về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
2.3. Phương châm, phương pháp vận dụng và phát triển Học thuyết
Mác - Lênin về Đảng và xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Việc nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng bất kỳ
một luận điểm và nguyên tắc nào của Học thuyết
phải
trên tinh thần sáng tạo và cách mạng
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo là một phương châm lớn chỉ đạo
nghiên cứu lý luận và hành động thực tiễn của Đảng ta. Sáng tạo trong học tập,
nghiên cứu lý luận về Đảng trong Học thuyết để có lý luận đúng đắn, sáng tạo xây
dựng Đảng vững mạnh, luôn xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc, đủ sức lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.3.2. Phải luôn luôn cảnh giác nguy cơ xét lại trong quá trình phát triển
các quan điểm lý luận về Đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thật khó có thể định ra tiêu chí lý thuyết để đánh giá đâu là phát triển sáng
tạo, đâu là cơ hội, xét lại trong nghiên cứu lý luận về Đảng, nếu không dựa trên
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghiên cứu phát
triển lý luận về Đảng phải xuất phát từ thực tiễn Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta để tìm câu hỏi trả lời. Đổi mới Đảng nói chung, phát
triển lý luận về Đảng nói riêng phải làm cho Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân,
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức xã hội chủ nghĩa; phục vụ đắc lực lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và dân tộc. Nếu thực tiễn cho thấy đúng là như vậy, thì quá trình phát
triển lý luận là đúng đắn, còn nếu ngược lại là sai.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ
CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
3. 1. Những yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức
3.1.1. Những yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng Đảng về chính trị
Qúa trình đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền việt nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu rộng vào đời sống
quốc tế đang đặt ra cho Đảng ta những vấn đề rất mới trong xây dựng Đảng về
chính trị. Xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối, chính sách
của Đảng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh, quốc phòng
và đối ngoại; xây dựng nội dung, phương thức lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, những
yêu cầu mới trong xây dựng Đảng về chính trị hiện nay có thể là:
Một là, xây dựng đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở những lợi
ích cơ bản đó của đất nước, giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các bên liên quan
trong quan hệ quốc tế.
Hai là, xây dựng đường lối, chính sách của Đảng phải đứng vững trên lập
trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tiếp
thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, những kinh nghiệm quí giá của cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới để kiến tạo đường lối, chính sách. Nhất thiết
khơng giáo điều, khơng tự trói buộc tư duy và nhận thức ở một công thức cứng
nhắc nào.
Ba là, thường xuyên nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội sao cho có hiệu quả nhất, làm cho nhân dân luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy ngày càng
cao. Đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và dân tộc. Đảng khơng có lợi
ích tự thân.
3.1.2. Những yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng Đảng về tổ chức
Đổi mới xây dựng Đảng về tổ chức là vấn đề luôn được đặt ra một cách cấp
thiết. Thực tiễn xây dựng hệ thống chính trị nói chung, xây dựng hệ thống tổ chức
của Đảng những năm vừa qua cho thấy, việc đổi mới công tác xây dựng Đảng về tổ
chức phải nắm vững những yêu cầu sau:
Một là, trong các nhiệm vụ xây dựng tổ chức, bộ máy và cán bộ, phải đề
phòng thái độ chủ quan, duy ý chí, tâm lý “tân quan, tân chính sách” trong vấn đề
tổ chức và cán bộ.
Hai là, trước bất kỳ nhiệm vụ thay đổi, đổi mới nào về tổ chức cần tôn trọng
khoa học về tổ chức. Điều đó có nghĩa là, trước khi có chủ trương mới về tổ chức
cần điều tra, nghiên cứu chu đáo, tổ chức phản biện khoa học và sau đó lựa chọn ý
kiến xác đáng để quyết định. Tránh thực trạng nay nhập, mai tách, tách rồi lại
nhập; lập ra và bỏ đi tổ chức một cách dễ dãi.
Ba là, tổ chức và cán bộ do nhiệm vụ yêu cầu mà có, song cán bộ đặt ra nhiệm
vụ, lập nên tổ chức. Vì vậy, vịng đời của tổ chức do cán bộ quyết định. Cần có chế
độ trách nhiệm cá nhân trong vấn đề xây dựng tổ chức, cán bộ. Tập thể quyết định
chủ trương, thực hiện phải do cá nhân quyết định và chịu trách nhiệm.
Bốn là, công tác cán bộ cực kỳ quan trọng, tuy nhiên, thực tiễn công tác cán
bộ cho thấy: những qui chế, qui định nội bộ Đảng không đủ mạnh để điều chỉnh
một cách hiệu quả vấn đề đánh giá, lựa chọn và bố trí sử dụng đúng cán bộ. Công
tác cán bộ phải được Điều lệ háo, luật hoá.
3.1.3. Những yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng Đảng về tư tưởng
Cơg tác tư tưởng của Đảng trong thời đại tồn cầu hoá cần phải đáp ứng
những vấn đề cốt yếu sau đây:
Một là, mở rộng dân chủ trong nghiên cứu, trao đổi những vấn đề lý luận. Biết
lắng nghe, đối thoại, thuyết phục và tôn trọng sự khác biệt quan điểm lý luận. Tập
trung, thống nhất cao độ về mặt tư tưởng là không tưởng. Vả lại, tập trung đến mức
qúa cao chẳng khác nào bịt mọi tư duy sáng tạo trong nghiên cứu lý luận.
Hai là, thông tin đa chiều, song cần định hướng thuyết phục về chính trị; cần
nghiên cứu sửa đổi luật báo chí theo hướng đề cao trách nhiệm pháp lý trước việc
đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ba là, cần lựa chọn, đào tạo, bổi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi làm công tác tư
tưởng. Cán bộ làm công tác tư tưởng của Đảng phải tinh thông nghiệp vụ, vững
vàng về quan điểm chính trị, có khả năng thuyết phục và truyền cảm hứng cho
nhân dân.
Bốn là, phải đầu tư nghiên cứu lý luận một cách sâu sắc về kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề tính hiệu quả và vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước; vấn đề nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một Đảng
duy nhất cầm quyền cầm quyền; vấn đề chế độ dộ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
3.2. Nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
hiện nay
3.2.1. Nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị
Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung xây dựng Đảng về chính trị trên
những nội dung sau đây:
Một là, xây dựng đường lối, chính sách của Đảng trên các lĩnh vực nhằm
đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hai là,
xây dựng bản lĩnh chính trị của Đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ba là, xây
dựng nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội bảo
đảm khoa học, thiết thực
Để thực hiện xây dựng Đảng với những nội dung trên, cần chú trọng các
biện pháp sau:
Thứ nhất, phải có cơ chế lựa chọn khách quan đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, bảo đảm thực sự có đức, có tài. Đội ngũ cán bộ này chính là lực lượng có vai
trị quyết định hình thành đường lối, chính sách. Ban Chấp hành Trung ương Đảng
như hiện tại là q đơng đảo, khó bảo đảm chất lượng cao. Không nhất thiết địa
phương và bộ ngành nào cũng phải có Uỷ viên Trung ương Đảng
Thứ hai, cấp lãnh đạo cao nhất phải biết kiên nhẫn lắng nghe ý kiến trái
chiều của các nhà khoa học, có bản lĩnh lựa chọn những vấn đề gai góc do giới lý
luận và thực tiễn kiến nghị, đề xuất.
Thứ tư, cung cấp thông tin khách quan cho đội ngũ cán bộ làm công tác
nghiên cứu, tham mưu lãnh đạo góp phần hình thành quyết sách.
3.2.2. Nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng
Một là, nghiên cứu lý luận về kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa;
vấn đề tính hiệu quả và vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hai là, nghiên cứu về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện một Đảng duy
nhất cầm quyền cầm quyền. Ba là, nghiên cứu về chế độ dộ dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Bốn là, tuyên truyền về quyền chủ quyền của quốc gia, dân tộc;
về các đối tượng của cách mạng Việt Nam để thống nhất nhận thức trong toàn
Đảng, toàn dân. Năm là, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Để làm tốt những nội dung công tác tư tưởng nêu trên, cần thực hiện những
giải pháp sau:
Một là, các cấp uỷ đảng, trước hết là bí thư cấp uỷ phải là người có năng lực
tiến hành cơng tác tư tưởng. Khơng nên chọn những bí thư cấp uỷ thiếu khả năng
về công tác tư tưởng.
Hai là, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và bố trí những cán bộ giỏi cho các cơ
quan chuyên trách làm công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách, luật pháp để trả cơng thoả đáng cho các
sản phẩm lao động trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hố, báo chí.
Bốn là, sớm ban hành qui chế về nghiên cứu lý luận trên lĩnh vực tư tưởng
3.2.3. Nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về tổ chức
Xây dựng Đảng về tổ chức là nhiệm vụ rất lớn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng
và trực tiếp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều người. Nội dung, giải
pháp xây dựng Đảng về tổ chức cũng vì thế có rất nhiều mặt, bao gồm:
Một là, xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở gọn,
nhẹ, hiệu quả. Thực hiện xây dựng hệ thống qui chế, cơ chế, nguyên tắc vận hành
thông suốt, khoa học.
Hai là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ theo hướng, bảo đảm chọn, giới
thiệu được những cán bộ thực sự có phẩm chất và năng lưc để bố trí vào các vị trí
quan trọng trong cơ quan của Đảng và Bộ máy Nhà nước.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, bảo đảm cho công
tác kiểm tra, giám sát của Uỷ ban kiểm tra đảng có thực quyền, khơng có vùng
cấm, phục vụ đắc lực nhiệm vụ chống tham nhũng của Đảng hiện nay.
Bốn là, chú trọng cơng tác bản vệ chính trị nội bộ, chống tự diễn biến, tự
chuyển hoá trong nội bộ Đảng.
Năm là, chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất
lượng hoạt động của các chi bộ đảng; tăng cường công tác quản lý đảng viên.
Sáu là, cần nghiên cứu, tổng kết, sửa đổi nhiệm kỳ đại hội của các tổ cức cơ
sở đảng. Theo Điều lệ hiện nay, nhiệm kỳ đại hội cấp cơ sở năm năm là quá dài,
không bảo đảm tăng cường dân chủ ở cơ sở
Học thuyết Mac- Lênin về Đảng và xây dựng chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân luôn là kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng Đảng ta xứng đáng là
Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin chân chính. Trong điều kiện cách mạng hiện
nay, việc vận dụng sang tạo và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
Đảng và xây dựng Đảng là đòi hỏi khách quan làm cho Đảng ta xứng đáng với vị
trí đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, nhân dâ lao động và dân tộc. Tuy nhiên,
việc phát triển, đổi mới xây dựng Đảng là việc hệ trọng, phải có nguyên tắc và
bước đi phù hợp.
Câu hỏi thảo luận:
Câu 1: Những vấn đề cơ bản cần lưu ý trong vận dụng, phát triển học thuyết
Mác - Lênin về Đảng và xây dựng Đảng hiện nay?
Câu 2: Mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về chính trị với với xây dựng Đảng
về tư tưởng và xây dựng Đảng về tổ chức ?
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu bắt buộc:
1. Học viện Xây dựng Đảng, Tài liệu phục vụ môn học xây dựng Đảng. Nxb
Chính trị - hành chínhh, H. 2012.