Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Tài liệu Đề tài " THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM VÀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.62 KB, 36 trang )












LUẬN VĂN

Đề tài " THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM VÀ THỊ
TRƯỜNG LAO ĐỘNG "






























1



LỜI MỞ ĐẦU

Bước vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, tình hình
kinh tế – xã hội nước ta rất khó khăn. Đất nước vẫn còn chưa thóat khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế – xã hội; tình hình lao động việc làm trở thành vấn đề xã
hội găy gắt và bức xúc, là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, của toàn
xã hội và mọi người dân. Lao động việc làm là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng đã
xác định phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tăng tỉ trọng công ngiệp và dịch vụ tăng nhanh hàm lượng công nghệ
trong sản phẩm
Trước yêu cầu của giai đoạn CNH-HĐH đất nước, việc hình thành,
phát triển thị trường việc làm và ổn định, phát triển thị trường lao động là

nhiệm vụ quan trọng. Kết hợp tăng trưởng việc làm với không ngừng nâng
chất lượng lao động việc làm .Để giải quyết vấn đề việc làm và hoàn thiện thị
trường lao động, Đảng và Nhà nước đã ban hành các nghị quyết, văn kiện (nó
không chỉ dừg lại ở nhận thức mà được cụ thể hóa bằng Pháp luật) nhằm hoàn
thiiện, phát triển thị trường việc làm và thị trường lao động ở nước ta, tạo việc
làm cho lực lượng lao động dồi dào. giảm tỉ lệ thất nghiệp, phát triển kinhtế
xã hội theokịp với xu hướng CNH- HĐH và hội nhập nền kinh tế thế giới.

Do khả năng phân tích và tổng hợp còn chưa tốt nên bài viết của
em còn thiếu sót , em mong thầy hướng dẫn, sửa chữa cho bài viết của em
được hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn.




2



CHƯƠNGI: THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM VÀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG

I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LÀM
1. Khái niệm về việc làm
Con người là một nhân tố quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế – xã hội. Họ trở thành động lực cho sự phát triển khi
họ có nhiều điều kiện sử dụng sức lao động để tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho bản thân họ và cho xã hội.Để sử dụng sức lao động thì người lao
động phải có việc làm.
1.1) Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và
những điều kiện cần thiết( vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ ) để sử

dụng sức lao động đó.
1.2) Theo điều 13, chương II Bộ luật lao động của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
1.3) Theo tổ chức lao động quốc tế(ILO): Việc làm là những hoạt động
lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
2.Hàng hóa việc làm
Việc làm được hiểu là lao động cụ thể và lao động sản xuất. Ngày nay,
việc làm cũng được coi là hàng hóa, nó có đầy đủ hai thuộc tính của hàng hóa
là giá trị và giá trị sử dụng.Nhưng hàng hóa việc làm khác với các hàng hóa
khác là khi sử dụng hàng hóa việc làm thì người lao động có điều kiện sử
dụng sức lao động và các điều kiện vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ phù hợp
để tạo ra của cải vật chất( số lượng, chất lượng sức lao động) và giá trị tinh
thần, điều kiện kinh tế xã hội khác để tái sản xuất sức lao động và phát triển
kinh tế xã hội.Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa
chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu…và
các chi phí về sức lao động Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và

3

Vphải phù hợp với trình độ cộng nghệ của sản xuất, khi trình độ công nghệ
thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo. Hàng hóa việc làm khác hàng
hóa thông thường là việc tạo việc làm phải thông qua những điều kiện kinh tế
xã hội nhất định, những chính sách phát triển kinh tế của một quốc gia.
Giá trị hàng hóa việc làm được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng
hóa việc làm hay đó chính là tiên công, tiền lương của người lao động.
Giá trị sử dụng hàng hóa việc làm là vai trò, tác dụng của nó một là
nhằm đáp ứng nhu cầu tìm việc làm của người lao động để tạo ra thu nhập ổn
định cuộc sống cho bản thân họ và gia đình họ, hai là đáp ứng số lao động mà
các doanh nghiệp, tổ chức cần để tiến hành sản xuất.

- Quá trình tạo việc làm( sản xuất việc làm) là quá trình kết hợp sức lao
động
và các điều kiện vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ.
việc làm được trao đổi khi người lao động có nhu cầu tìm việc làm và người
cung cấp việc làm thỏa thuận một mức tiền công hợp lý với sức lao động mà
người lao động bỏ ra.
3. Tiêu chuẩn đánh giá việc làm
Việc làm được đánh giá theo các tiêu chuẩn sau đây:
- Tính chất địa lý của việc làm: Trong khu vực nông thôn, thành thị.
- Tính chất kỹ thuật của việc làm: Dựa trên các đặc thù về kỹ thuật và
công nghệ, ta có việc làm theo các nghành, nghề, khu vực kinh tế khác nhau.
- Tính chất thành thạo của việc làm: Các yêu cầu về năng lực và phẩm
chất của người lao động như trình độ tay nghề, kinh nghiệm.
- Tính chất kinh tế của việc làm: Vị trí của việc làm trong hệ thống
quan hệ lao động như quản lý, công nhân viên
- Điều kiện làm việc: Tính an toàn lao động và môi trường lao động và
môi trường làm việc.
- Tính chất cơ động của việc làm: Khả năng thay đổi nghề nghiệp, khả
năng làm nhiều hay ít nghề…

4

4. Phân loại việc làm :
4.1. Theo tính chất của việc làm
Phân thành hai loại một loại là việc làm theo hưởng tiền lương hoặc
tiền công và hai là việc làm tự thân có thể là cá nhân hoặc gia đình, có thể là
chủ doanh nghiệp
4.2 Theo thời gian
- Việc làm thời gian đầy đủ hoặc không đầy đủ.
- Việc làm tạm thời và cố định

- Việc làm không thường xuyên
- Việc làm theo thời vụ
II. THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM (TTVL)
1. Khái niệm về TTVL
- Thị trường việc làm là một loại thị trường mới hiện nay vẫn chưa có
nhiều nghiên cứu về loại thị trường này. Vì vậy chưa có một khái niệm cụ thể
về TTVL. Theo em hiểu TTVL là gặp gỡ, trao đổi mua bán hàng hóa việc
làm giữa người lao động tìm việc làm và các tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở
tạo việc làm
2. Các yếu tố của thị trường việc làm.
Như các thị trường khác TTVL cùng bao gồm cung cầu việc làm và giá cả
việc làm.
2.1) Cung việc làm
Cung việc làm biểu hiện số lượng việc làm mà người sử dụng lao động (các
doang nghiệp, tổ chức, các cơ sở …) cung cấp ra thi trường việc làm ở mỗi
mức giá nhất định.
Cung việc làm là tổng hợp những doanh nghiệp tổ chức, cơ sở có khả
năng tạo ra việc làm để đáp ứng nhu cầu của những người lao động đang tìm
việc làm và có nhu cầu làm việc.
Cung việc làm phụ thuộc vào cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, quy
mô việc làm, trình độ công nghệ, chích sách phát triển kinh tế, pháp luật của
một nước(luật đầu tư nước ngoài, luật doanh nghiệp…).

5

2.2) Cầu việc làm.
Cầu việc làm là số lượng việc làm mà người lao động đang tích cực tìm
kiếm trên thị trường việc làm.
Cầu việc làm phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu dân số của một nước,
chính sách tạo việc làm của quốc gia, chất lượng của nguồn lao động (trình độ

văn hóa, chuyên môn, sức khỏe…)
2.3) Giá cả việc làm.
Cũng giống như TTLĐ sự tác động của cung cầu việc làm hình thành nên giá
cả sức việc làm. Theo em hiểu giá cả việc làm cũng chính là giá cả sức lao
động, nó được thể hiện ở khoản thu nhập mà người sử dung lao động trả cho
người lao động.Thu nhập là tổng số tiền mà người lao động nhận được trong
một thời gian nhất định, từ các nguồn khác nhau.Các nguồn thu nhập đó có
thể là từ cơ sở sản xuất (tiền lương, từ thưởng, các khoản phụ cấp, trợ cấp)
trong đó tiền lương là khoản chính mà người lao động nhận được từ người lao
động sau khi hoàn thành một công việc nhất định hoặc sau một thời lao động
nhất định.
Giá cả việc làm phụ thuộc vào tính chất của việc làm , mức độ giản
đơn hay phức tạp của công việc đòi hỏi trình độ cao hay thấp, điều kiện làm
việc…
2. Vai trò của TTVL.
Cung cấp thông tin về việc làm để người cung cấp việc làm và người cần
việc làm có thể gặp gỡ, trao đổi … thỏa thuận với nhau. Người đi tìm việc
làm sẽ có những thông tin cần thiết cụ thể về việc làm đó để xác định xem có
phù hợp với họ không.
Tạo điều kiện cho người lao động phát huy đúng khả năng, năng lực của
bản thân từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội.
Giúp ổn định, nâng cao đời sống cho người lao động, phát triển kinh tế đất
nước.

6

Giải quyết vấn đề bức xúc của xã hội đó là tình trạng thất nghiệp, giảm
những tệ nạn của xã hội.
II. Thị trường lao động (TTLĐ)
1. Khái niệm về TTLĐ

Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên
là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức
lao động đó.
Thị trường lao động là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ
thống thị trường vì lao động là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất và kết
quả của quá trình trao đổi trên TTLĐ là việc làm được trả công.Thị trường lao
động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có sức lao động và một
bên là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng và chất lượng lao
động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng.
Về cơ bản TTLĐ cũng chịu sự tác động của quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh, quy luật độc quyền…
2. Các yếu tố của TTLĐ và nhân tố tác động
Về cơ bản, TTLĐ được tạo thành từ ba bộ phận chính đó là cung, cầu
của TTLĐ và giá cả sức lao động hay mức tiền công, tiền lương mà tại đó
người sở hữu sức lao động đồng ý làm việc.
2.1 Cung lao động
Theo Samuelson, cung lao động biểu hiện số lượng lao động mà các hộ
gia đình sẵn sàng đem bán trên thị trường.
Cung lao động là tập hợp những người có khả năng và có nhu cầu làm
việc. Họ có thể đang có việc làm hay tạm thời không có việc làm song đamg
đi tìm việc.
Nguồn cung lao động được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các thị
trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung
này có thể từ những người đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan tổ
chức … và, nó được bổ sung thường xuyên từ đội ngũ những người đến độ

7

tuổi lao động. Ở Việt Nam tổng cục thống kê quy định nguồn lao động là
những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi nữ từ 15-55 tuổi) và

người trên tuổi lao động đang làm việc. Cung về lao động phụ thuộc vào qui
mô. Cơ cấu dân số của một nước, chất lượng của nguồn lao động (Trình độ
văn hóa, cơ cấu ngành nghề, sức khỏe… phong tục, tập quán xã hội của một
nước và chính sách phát triển nguồn nhân lực của nước đó.
2.2 Cầu lao động
Cầu lao động là lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể thuê
ở mỗi mức giá, có thể chấp nhận được.
Trong nền kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là
yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa vật phẩm
nhất định, do vậy quy mô của nó phụ thuộc vào mức nhu cầu của hàng hóa do
lao động sản xuất ra cũng như giá cả của hàng hóa đó trên thị trường.
Cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức… hoặc từ nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài.
Cầu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên của
một nước, qui mô, trình độ công nghệ, cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế,
mức tiền công, phong tục tập quán, tôn giáo… và chính sách phát triển kinh
tế.
2.3 Giá cả sức lao động
Sự tác động qua lại giữa cung và cầu về lao động hình thành giá cả sức
lao động được thể hiện trực tiếp ở khoản thù lao mà người lao động nhận
được
Giá cả hay tiền công lao động(W
0
) và số lượng lao động(L
0
) sẽ được
xác định tại điểm giao nhau của hai đường cung và cầu về lao động. E
0
gọi là
điểm cân bằng cung cầu lao động, tại điểm E

0
không có thất nghiệp . Thất
nghiệp không xảy ra nếu cung cầu co giãn linh hoạt theo độ tăng của giá cả
sức lao động
Mức tiền công

8

S
E
0

W
0
D


L
0
Đơnvị LĐ

3. Những đặc trưng chủ yếu của thị trường lao động
Một là lao động không thể tách rời khỏi người cung cấp, người lao
động. Đối với các loại hàng hóa thông thường, mối quan hệ giữa người bán và
người mua sẽ kết thúc khi thỏa thuận xong việc mua bán, người mua sẽ kết
thúc khi thỏa thuận xong việc mua bán, và quyền của người bán đối với hàng
hóa của mình chấm dứt sau khi nhận được thanh toán sòng phẳng. Nhưng đối
với hàng hóa sức lao động của mình mà người làm thuê phải tham gia tích
cực, và chủ động trong quá trình khai thác và sử dụng sức lao động của mình,
để tạo ra sản phẩm hàng hóa- dịch vụ với số lượng và chất lượng ngày càng

tốt hơn. Đây là nét đặc trưng cơ bản, khác với thị trường khác của kinh tế thị
trường
Hai là người lao động là người giữ quyền kiểm soát số lượng và chất
lượng sức lao động, cho nên mối quan hệ lao động là mối quan hệ khá lâu dài.
Để nâng cao năng suất và hiệu quả của quá trình lao động thì việc giữ vững và
phát triển các mối quan hệ lao động là rất cần thiết. Do đó người sử dụng lao
động phải xây dựng một cơ chế khuyến khích, tạo động lực đối với người lao
động một cách phù hợp. Ngoài khuyến khích về tiền công, tiền thưởng, phúc
lợi thì cần kích thích người lao động cả về mặt tinh thần.
Ba là chất lượng lao động của người lao động không đồng nhât. Nó phụ
thuộc vào giới tính, tuổi tác, thể lực, trí thông minh về trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm, vv… Vì vậy việc đánh giá chất lao động của người lao động

9

trong quá trình tuyển dụng, trả công phù hợp với từng người gặp khó khăn,
phức tạp.
Bốn là, lao động vừa là đầu vào của quá trình sản xuất, vừa quy định số
lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra. Cho nên, các
chính sách, các quy định về tuyển dụng, tiền lương, bảo hiểmvv… vừa ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các đơn vị, vừa ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô như giá cả, việc làm.
Năm là thị trường lao động luôn có giới hạn về địa lý theo cung về
chuyên môn theo ngành, nghề. Vì vậy phải nghiên cứu sự chuyển dịch và sự
liên kết giữa các thị trường được phân đoạn theo các dấu hiệu (tiêu thức) khác
nhau giữa các vùng, các nghề…
Sáu là TTLĐ cũng giống như các loại thị trường khác trong hệ thống
thị trường đều chịu sự tác động của pháp luật. Các thể chế, quy chế được luật
hóa và các quy định thành văn bản có tác động đến hành vi và điều kiện của 2
chủ thể người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình thỏa thuận

các điều kiện và giá cả của dịch vụ lao động hay TTLĐ chịu sự điều tiết của
Chính Phủ thông qua quy chế, hình thức luật, mức tiền lương tối thiểu…
4. Các dạng thị trường lao động
Tùy vào mục đích nghiên cứu, sự tương tác giữa cung-cầu lao động sự
tác động của Chính Phủ, thị trường lao động được phân loại như sau:
4.1 Theo khả năng cạnh tranh của thị trường
4.1.1 Thị trường lao động cạnh tranh hoàn hảo
Trong thì trường cung cầu lao động được điều chỉnh linh hoạt theo giá
cả của lao động, chỉ tồn tại một thị trường duy nhất, không bị chia cắt.
Đường cầu của thị trường là tập hợp các đường cầu của cá nhân vận động
tương ứng với đường cung của lao động. Đường cung là tổng hợp các đường
cung của doanh nghiệp, tuy nhiên tiền lương có thể hạ thấp tùy ý.
4.1.2 Thị trường lao động nhiều khu vực.

10

Trong thị trường này, cung-cầu lao động bị chia cắt, bị phân mảng
thành các thị trường riêng (ngành, nghề, trình độ đào tạo, giới tính…) Mỗi thị
trường có đường cầu và đường cung riêng biệt với cơ chế vận động khác
nhau. Trong thị trường này tồn tại đồng thời thất nghiệp hữu hình và thấp
nghiệp cơ cấu. Kết quả tiền lương có sự phân biệt lớn giữa các vùng, nghành
nghề, giới…
4.2 Theo mức độ tương hỗ giữa cung cầu lao động.
Thị trường dư thừa lao động: Khi tốc độ của cung lớn hơn rất nhiều so
với tốc độ tăng của cầu thì sẽ dẫn đến sự dư thừa lao động trên TTLĐ. Trong
trường hợp này, cung lao động gần như một đường nằm ngang. Cầu lao động
rất yếu và tiền công là một điểm rât thâp, không có phản ứng với mức cầu và
giá lao động
4.3 Theo mức độ can thiệp của Nhà nước trong hệ thống thị trường.
- Hệ thống thị trường tự do: các cá nhân tự chịu trách nhiệm về các

quyết định về tiền lương, việc làm. Hiệu quả kinh tế trong thị trường này
được bảo đảm thông qua việc phân bố và sử dụng nguồn lực rất hợp lý nhưng
vẫn chưa chú ý đúng mức đến hiệu quả xã hội:
- Hệ thống thị trường kế hoạnh hóa tập trung: Nhà nước là người giữ vị
trí quan trọng, trực tiếp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ lao động xã hội
vơi mục tiêu bảo đảm việc làm đầy đủ cho mội thành viên trong xã hội. Vai
trò của người lao động, người sử dụng lao động (doanh nghiệp, tổ chức) rất
thấp, từ đó việc sử dụng nguồn lực lao động kém hiệu quả.
- Hệ thống thị trường hỗn hợp: Đây là thị trường mà ở đó vừa có sự can
thiệp của Chính Phủ thông qua kế hoạch hóa tập trung, vừa sự điều tiết của
hệ thống thị trường. Tùy vào đặc trưng về kinh tế, chính trị mà hệ thống thị
trường hỗn hợp ở mỗi nước không giống nhau.
IV. Mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ.
1. TTVL và TTLĐ không tương tác

11

Ở đây TTVL và TTLĐ có sự tách biệt, không liên hệ với nhau. Nó là
hai chủ thể độc lập. Lượng lao động trên TTLĐ không tìm thấy hoặc không
đáp ứng cung cầu việc làm trên TTVL. Với mối quan hệ này trên TTLĐ thì
thừa lượng lao động đang có nhu làm việc còn TTVL số việc làm được tạo ra
vẫn còn trống. Giữa TTVl và TTLĐ có tình trạng như vậy có thể là do sự mất
cân đối hay chênh lệch về chất lượng lao động trên TTLĐ và yêu cầu của việc
làm trên TTVL, Nguyên nhân của tình trạng này là do nguồn nhân lực chưa
được đào tạo đúng với ngành nghề. Một nước mà giữa TTVL và TTLĐ có
mối quan hệ như trên thì tỷ lệ thất nghiệp là rất lớn, gây khó khăn cho toàn
xã hội, nền kinh tế phát triển chậm hoặc không phát triển.
2.TTVL và TTLĐ tương đối đồng nhất.
Nghĩa là giữa TTVL và TTLĐ có sự liwn kết chặt chẽ, có thể xảy ra 2
trường hợp.

- TTLĐ lớn hơn TTVL
- TTVL lớn hơn TTLĐ
Mặc dù có sự chêch lệch nhau giữa hai thị trường nhưng sự chênh lệch
là không đáng kể. Giữa hai thị trường có mối quan hệ nay tức là lực lượng lao
động trên TTLĐ đáp ứng hầu như các yêu câù của công việc trên TTVL
người lao động được đào tạo đúng với ngành nghề . Có thể nói mối quan hệ
này chỉ tồn tại ở những nưóc công nghiệp phát triển với hệ thống giáo dục-
đào tạo và hướng nghiệp khá hoàn chỉnh. Một nước giữa TTVL và TTLĐ có
mối quan hệ này thì tỷ lệ thất nghiệp là rất nhỏ thì TTLĐ lớn hơn TTVL; và
không xảy ra tình trạng thất nghiệp khi TTVL lớn hơn TTLĐ mà lúc đó xảy
ra tình trạng dư thừa việc làm.
3. TTVL và TTLĐ có sự tương tác nhưng chưa chặt chẽ.
Đây là mối quan hệ tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển khi
mà hệ thống giáo dục đào tạo hướng nghiệp còn thấp. Nền kinh tế chưa phát
triển số việc làm tạo ra còn thấp.Với mối quan hệ này chỉ một phần lực lượng
lao động đáp ứng được một số lượng công việc nhất định, có hiện tượng thừa

12

việc làm và thừa lao động nhưng lượng lao động này lại không đáp ứng được
yêu cầu của công việc dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn nhân lực xã hội. TYr
lệ thất nghiệp của đất nước còn khá cao.











CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM VÀ THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng thị trường việc làm
Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra nhiều điều kiện thuậ lợi để người
lao động có cơ hội tạo việc làm và có việc làm đáp ứng nhu cầu bức xúc về
đời sống, góp phần ổn định đời sống tình hình kinh tế xã hội. Giải quyết vấn
đề lao động việc làm trong 15 năm đổi mới vừa qua đã có những bước tiên
vững chắc, có thể có đánh giá khái quát như sau.
Một là, số việc làm mới được tạo ra ngày càng lớn, theo số liệu báo cáo
chính thức của tổng cục thống kê: việc làm đã tăng từ 30,2 triệu trong năm
1990 lên 40,6 triệu trong năm 2000, bình quân mỗi năm tăng thêm 1
triệu.Trong thời gian 5 năm (1996-2000) số người có việc làm tăng từ 34,6
triệu lên 40,6 tăng 6 triệu ( 17,6%) bình quân hằng năm tăng khoảng 3,2%.
Năm 2001-2003 tạo ra 4,3 triệu việc làm và năm 2004 tạo thêm 1,59 triệu
việc làm. Theo số liệu trên nhận thấy số việc làm ( cung việc làm )được tạo
ra trong nền kinh tế quốc dân có xu hướng gia tăng đáp ứng số lao động tăng
thêm hàng năm trên TTLĐ.

13

Với tốc độ phát triển kinh tế của nước ta trong 5 năm qua (2001-2005) luôn
giữ ở mức trên 7% đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút lao động vào các
ngành kinh tế.Từ đầu năm 2000 đến tháng 9 năm 2003 có 76 601 doanh
nghiệp đăng kí với số vốn kinh doanh qui đổi là 9,5 tỷ USD gấp 1,7 lần về số
doanh nghiệp và hơn 4 lần về số vốn đăng kí so với giai đoạn 1991 -1999.
Năm 2002 tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp đã lên tới 6 triệu
người chiếm 16% tổng số lao động. Trong 4 năm (2001-2004) các hoạt động

phát triển kinh tế xã hội từ việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư theo các ngành
, theo các lĩnh vực đã tạo chỗ việc làm mới cho 4,429 triệu người, trong đó
đầu tư nước ngoài tạo việc làm cho 1,977 triệu người ( thông qua các dự án
phát triển trọng điểm thu hút 849 000 lao động; đầu tư của Nhà nước vào các
khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút 233 000 lao động; các doanh nghiệp
hoạt động theo luật doanh nghiệp thu hút 895 000 lao động), các chương trình
phát triển Nông nghiệp- nông thôn tạo việc làm cho 2,077 triệu người, các dự
án đầu tư nước ngoài phát triển và mở rộng sản xuất tạo được 245 000 chỗ
việc làm mới.
Hai là tỉ lệ thất nghiệp giảm tỉ lệ sử dung thời gian lao động tăng.
Trong 4 năm(2001-2004) cả nước tạo việc làm cho 5,9 triệu lao động, hạ tỉ lệ
thất nghiệp ở khu vực nông thôn lên 79%( dự kiến kế hoạch năm 2005 là
80%). quỹ vay vốn quốc gia về việc làm góp phần quan trọng trong việc hỗ
trợ lao động thất nghiệp có việc làm, người thiếu việc làm có việc làm đầy đủ,
tăng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn.Tuy nhiên tỉ lệ thất ngiệp ở
thành thị giảm chậm, thời gian lao động ở nông thôn tăng chậm.
Ba là có sự chuyển dịch cơ cấu việc làm giữa ngành công nghiệp –
nông nghiệp – dịch vụ. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông lâm ngư
nghiệp tiếp tục giảm từ 62,8% năm 2001 còn 57,9%b năm 2004, trong khi đó
tỉ lệ này trong các ngành công nghiệp –xây dựng và thương mạip dịch vụ tăng
đáng kể, tương ứng là 17.4% và 24,7%. Trong giai đoạn 1996-2000 khu vưc

14

nông lâm ngư nghiệp đã ổn định việc làm cho 23,5 triệu lao động và thu hút
gần 2 triệu lao động mới. Khu vực công nghiệp –xây dựng và dịch vụ thương
mại thu hút thêm 2,2triệu lao động. Khu dịch vụ có bước phát triển mạnh tăng
thêm 2,3 -2,4 triệu lao động. Mặc dù đã có sự chuyển dịch việc làm giữa nông
lâm ngư nghiệp ,công nghiệp – xây dựng và dịch vụ – thương mại nhưng số

việc làm ở nông nghiệp vẫn chưa đáp ứng số lao động dư thừa , và việc làm
chưa có tính ổn định cao(chủ yếu là việc làm theo thời gian ngắn, tạm thời) tỉ
lệ thất nghiệp trá hình còn khá cao.
Bốn là các hình thức của TTVL.
Để giải quyết mối quan hệ cung cầu việc làm, TTVL đã có sự vận động
mạnh mẽ với sự ra đời và hoạt động của các hình thức sau
- Các hội chợ việc làm.
Hội chợ việc làm là một hoạt động mới và hữu ích trong việc thông tin
TTVL ở nước ta. Việc tổ chức hội chợ việc làm trong thời gian vừa qua được
tiến hành khá phong phú và đa dạng với những hoạt động chính là
- Hoạt động giới thiệu và quảng cáo về sự phát triển của
doanh ngiệp qua băng hình, biểu đồ, tờ rơi…
- Hoạt động trao đổi trực tiếp bằng hình thức diễn đàn giữa
người sử dụng lao động, doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề và cơ quan nhà nước
với người lao động, học sinh, sinh viên.
- Hoạt động phỏng vấn, tuyển lao động trực tiếp tại hội chợ
việc làm.
Từ năm 2000 đến nay, cả nước đã tổ chức 20 lần hội chợ việc làm ở các
địa phương khác nhau: TP.HCM, TP.Đà Nẵng, TP. Hà Nội , tỉnh Quảng
Ninh…Các hoạt động của hội chợ việc làm bước đầu đã đem lại kết quả đáng
khích lệ.
Một là nâng cao nhận thức cho các đối tượng xã hội, đặc biệt của người
lao động, người sử dụng lao động và cộng đồng về quỳên và nghĩa vụ của
mình về việc làm.

15

Hai là hội chợ việc làm là nơi cung cấp và trao đổi thông tin về việc
làm nghề nghiệp, đào tạo nghề và đem lại các kết quả tích
- Trao đổi và cung cấp thông tin nhiều chiều từ phía người sử

dụng lao động , người lao động , cơ sở dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm
và của các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
- Cung cấp các quy định và tư vấn pháp luật về lao động – việc
làm và dạy nghề cho người lao động và người sử dụng lao động.
Ba là hội chợ việc làm đã thu hút nhiều đối tượng tham gia, theo số liệu
báo cáo của 10 địa phương đã tổ chức hội chợ việc làm năm 2002 có khoảng
722 đơn vị tham gia. Tp.HCM nhiều nhất với 215 đơn vị. Các đơn vị tham gia
hội chợ việc làm gồm: các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các cơ
sở dạy nghề. Đối tượng tham gia phần lớn là người lao động phần lớn là
người lao động và các sinh viên trường cao đẳng, đại học…
Bốn là hoạt động đăng kí và tuyển lao động đã đem lại những kết quả
tích cực. Theo số liệu thông kê báo cáo thì số người đến đăng kí tìm việc làm
ở mỗi hội chợ là 12.500 ngừơi. Số lao được phỏng vấn ngay tại mối hội chợ
bình quân là 7.572 người chiếm 60% số người đến đăng kí tìm kiếm. Và qua
hội chợ việc làm các doanh nghiệp và các tổ chức đã tuyển được những người
lao động đáp ứng yêu cầu của mình (tìm đúng người đúng việc ).
Ngoài những kết qua đạt được ở trên hội chợ việc làm vẫn còn những hạn chế
nhất định.
- Quy mô tổ chức của hội chợ việc làm còn hẹp, chưa phát triển
rộng rãi trong phạm vi toàn quốc mà mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn
của cả nước (Tp.HCM, HN, Đà Nẵng…)
- Chưa thu hút hết lực lượng lao động và người sử dụng lao động
vào tham gia, việc tiếp xúc trao đổi trực tiếp giữa người lao động và người sử
dụng lao động còn ít.
-Trung tâm dịch vụ việc làm

16

Trung tâm dịch vụ việc làm đã được hình thành từ những năm 1992 qua quá
trình hoạt động từng bước đã được hoàn thiện cả về cơ chế chính sách cả về

tổ chức thực hiện. Đến nay đã có khoảng 140 trung tâm dịch vụ việc làm
trong cả nước, bao gồm cả các trung tâm thuộc hội phụ nữ, Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, Hội nông dân, TƯ đoàn. Các trung tâm này hoạt động theo
chức năng của pháp luật quy điịnh, đồng thời còn tổ chức dạy nghề và tổ chức
sản xuất. Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động từ năm 1992 đến
năm 2000 đã tư vấn cho 2 triệu lượt người , dạy nghề gắn với việc làm và bổ
túc nghề cho 70 vạn ngưỡi, giới thiệu việc làm và bổ túc nghề cho 70 vạn
ngưỡi, giới thiệu việc làm và cung ứng việc làm cho 87 vạn người. Trong giai
đoạn 2001-2004 hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hằn năm đã tư vấn nghề
và tư vấn đào tạo cho 20 vạn lượt người, giới thiệu việc làm và cung ứng việc
làm cho 8 vạn người, đào tọa ngắn hạn và bổ túc nghề cho 10 vạn người.
Mặc dù đã giải quyết được một số lượng đáng kể viẹc làm cho người
lao động nhưng hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm chưa có một cấu trúc tổ
chức thành lập rõ ràng, quy mô hoạt độngcủa hệ thông còn hạn chế, nhỏ bé,
chưa đảm bảo trng bị vạt chất cần thiết và độ ngũ cán bộ không đồng bộ chỉ
mới phục vụ được một tỉ lệ nhỏ số ngừời có nhu cầu việc làm. Các trung tâm
còn chưa thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp nên chưa
có sự gặp gỡ kịp thời giữa cung cầu lao động trên TTLĐ.
II. Quá trình hình thành thị trường lao động ở Việt Nam.
Một trong những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam là quá
trình biến đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Từng quen với quan niệm coi lao động là một giá trị xã hội và tinh thần cao
nhất, sức lao động không phải là hàng hóa đem trao đổi mua bán. Việc hình
thành TTLĐ tại Việt Nam không phải là một quá trình dễ dàng. Vì được thừa
nhận tương đối muộn hơn, nên TTLĐ hình thành chậm và yếu hơn và trải qua
các giai đoạn sau.
1. Giai đoạn trước năm 1986

17


Cũng như nhiều nước đang phát triển, sự hình thành và phát triển thị
trường lao động ở Việt Nam gắn liền với quá trình phân hóa tự nhiên của nền
sản xuất nhỏ. Từ những năm 70 và đầu thập kỉ 80, chủ yếu là hình thức thuê
muớn lao động theo kiểu thỏa thuận miệng, thời gian ngắn, mang tính tạm
thời, và không ổn định. Trước năm 1986TTLĐ công khai chỉ xuất hiện trong
khu vực kinh tế, nhà nước và khu vức kinh tế tập thể. Việc sử dụng lao động
mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung. Về mặt nhận thức, lao động không
được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt và do vậy không được “mua” và “bán”
trên thị trường . Sự chuyển dịch lao lao động động còn ít giữa các vùng, giữa
thành thị và nông thôn cũng như trong nước và nước ngoài: Lao động trong
khu vực kinh tế Nhà Nước và khu vực kinh tế tập thể được tuyển dụng theo
hình thức biên chế. Việc sử dụng lao động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
một mặt đã dẫn đến Nhà nước phải chi nguồn kinh phí lớn để giải quyết số
lao động dôi dư, mặt khác tạo ra tâm lý và ý thức phụ thuộc người lao động
trong chờ vào Nhà nước, không tự lo việc cho mình. Trong thời kì này khái
niệm thất nghiệp cũng như thị trường lao động chưa được đề cập một cách
chính thức về mặt xã hội. Nhìn chung, trước năm 1986 thị trường lao động ở
nước ta còn manh mún, phân tách chia cắt.
2. TTLĐ thời kì 1986-1993
Chủ trương chuyển dịch nền kinh tế hàng hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được khởi thảo với Nghị quyết
của đại hội đảng lần thứ VI (1986) cùng với một loạt những cải cách lớn về
thể chế và chính sách kinh tế cụ thể như sau:
- Sự sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong đó khẳng định rõ quyền của
mọi công dân trong việc lựa chọn hình thức việc làm hợp lý. Vài trò của Nhà
nước tập trung chủ yếu trong quản lý lao động và phát triển hệ thống cơ chế
chính sách để phát triển hài hòa các mối quan hệ lao động.

18


- Phát triển chương trình quốc gia xúc tiến việc làm và các chính sách
khung. Nhà nước từ vai trò tạo việc làm trực tiếp như thời kì trước đâysang hộ
trợ với tính ưu đãi để khuyến khích tự tạo việc làm.
- Thừa nhận lao động như thứ hàng hóa đặc biệt được trao đổi trên thị
trường và tiền lương được xác định trên cơ sở giá trị sức lao động.
- Quy định mức tiền lương tối thiểu(năm 1993) cho các khu vực kinh tế
trong nước, từng bước hình thành mạng lưới an toàn xã hội cho người lao
động trong điều kiện kinh tế thị thường.
Các cải cách kinh tế và thể chế trên đã tạo điều kiện cho TTLĐ dần dần
được hình thành và phát triển. Hình thức việc làm đầy đủ đang mất dần trong
thời kì này và thay bằng hệ thống hoạt động kinh tế mới của dân cư, các quan
hệ xã hội lao động với sự có mặt của hệ thống việc làm độc lập , sự kinh
doanh, lao động làm thuê và thất nghiệp.
3. TTLĐ Việt Nam thời kì 1993 đến nay.
Trong thời kì này, TTLĐ Việt Nam chuyển sang một bước phát triển
mới, đặc biệt sự ra đời Bộ luật lao động (1994) đã thể chế hóa các quan niệm
về việc làm cũng như các quy định có liên quan đến thị trường lao động, sự
can thiệp của chính phủ đối với TTLĐ, nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống
cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, tác động đồng bộ đến
cung-cầu lao động: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, an toàn vệ
sinh lao động, tiền lương và chế độ trả lương, BHXH, xuất khẩu lao động Bộ
luật lao động cũng đã cụ thể hóa các quy định của hiến pháp nhà nước Cộng
Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về lao động, quản lý lao động, về
mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ,
quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia TTLĐ. Bộ luật lao động đã tạo
điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho sự hình thành và phát triển một thị
trường lao động thống nhất, linh hoạt trên phạm vị cả nước.
TTLĐ Việt Nam được công nhận chính thức từ khi Bộ luật lao động
của nước CHXHCN Việt Nam được thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực


19

thực thi hành từ ngày 1/1/1995 Bộ luật lao đông ra đời nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ lao động, đặc biệt là các quan hệ làm công ăn lương trong các
thành phần kinh tế .
III. Thực trạng về TTLĐ ở Việt Nam
1. Những kết quả đạt được
1.1 Nguồn nhân lực dồi dào
Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào. Năm 1995 là 41,29 triệu
người, năm 1998 là 45,2 triệu người tăng 3,91 triệu người. Năm 2000 là 46,2
triệu người tăng so với năm 1998 là 1 triệu người. Như vậy tính trung bình tốc
độ tăng hàng năm là 1,2 triệu người. Có được tốc độ tăng như vậy là do kết
quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định từ những năm trước đó.
Theo số liệu thống kê mỗi năm nước ta có 1,8 triệu người bước vào tuổi lao
động và 0,35 triệu người bước ra khỏi độ tuổi lao động. Đây là một tiềm
năng, cơ hội lớn để phát triển kinh tế nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn và
thử thách cho xã hội đặc biệt là vấn đề việc làm.
1.2 Tăng cầu về số lượng và chất lượng
1.2.1 Thị trường lao động trong nước
Tỷ lệ lao động làm công ăn lương trong tổng số lao động có việc làm
ngày càng tăng, đặc biệt là các tỉnh, thành phố trọng điểm. Năm 2004, cả
nước có 25,6% trong tổng số lao động có việc làm đang làm công ăn lương,
tăng 6,6% so với tỷ lệ ở năm 1998 bình quân hàng năm (1998 – 2004) tỷ lệ
lao động có việc làm tăng thêm 11%/ năm.
1.2.2 Thị trường lao động ngoài nước
Bên cạnh sự tăng cầu của TTLĐ trong nước, cầu cuả TTLĐ ngoài nước
cũng ngày càng gia tăng nừa tăng về số lượng các nước xuất khẩu, vừa tăng
về số lượng lao động đi xuất khẩu
Bảng1. Số lao động Việt Nam đến làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng chia theo khu vực và các nước.

2000 2001 2002 2003
I. Châu Âu 2915 5300 29 -

20

II. Châu Á 27793 28898 45548 74095
1. Hàn Quốc 7316 3910 1190 4226
2.Lào 10698 13731 9000 -
3.Nhật Bản 1329 3249 2202 2264
4.Singapore 84 203 - -
5.Malaysia - 23 19965 39624
6. Đài Loan 7865 7782 13191 27981
7.Các nước khác 501 - - -
III. Châu Phi, Trung Đông 326 700 381 -
IV. Châu Mỹ - 545 - -
V. Các nước khác 935 725 164 1605
Tổng cộng 31468 36168 46122 75700

Theo bảng trên năm 2000 tổng số lao động xuất khẩu là 31.468 triệu người,
năm 2001 tăng 4.700 người, năm 2003 tổng số xuất khẩu là 75.700 người, gấp
2,4 lần so với năm 2000, trung bình hàng năm thời kỳ 2000 – 2003 tăng 36 %/
năm với quy mô tăng là 14.744 người / năm. Khu vực thị trường lao động
được mở rộng nhưng cầu ở khu vực Châu Á vẫn chiếm tỷ lệ lớn đặc biệt là
Malaysia chiếm 53,47%.
1.3 Tình trạng mất cân đối cung cầu trên TTLĐ ngày càng được thu
hẹp
Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2004 cho thấy lực lượng lao
động từ đủ 15 tuổi trở lên ở khu vực thành thị có 5,4 % thất nghiệp; khu vực
nông thôn có 1,1% thất nghiệp. so với thời điểm 1/7/2001 tỷ lệ thất nghiệp
của lực lượng lao động nói chung ở khu vực thành thị giảm 0,73%, ở khu vực

nông thôn giảm 0,55%.
Tỷ lệ thành thị của lực lượng lao đọng trong độ tuổi lao động ở khu vực
thành thị cũng giảm ở hầu hết các vùng lãnh thổ.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đã qua đào tạo nghề giảm từ
3,54% ở năm 2001 xuống còn 1,8% so với năm 2004.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động tốt nghiệp trung học chuyên
nghiệp tăng từ 3,5% ở năm 2001 lên 4,4% ở năm 2004.

21

Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động tôt nghiệp CĐ, ĐH tăng từ
3,3% ở năm 2001 lên 3,8% ở năm 2004.
1.4 Thu nhập của người lao động làm công ăn lương ngày càng được
cải thiện.
Cùng với sự gia tăng về tỷ lệ lao động làm công, ăn lương trong tổng số
lao động có việc làm nói chung, thu nhập của lao động tham gia TTLĐ cũng
ngày càng được cải thiện và tương quan giữa thất nhiệp với chất lượng lao
động ngày càng chặt chẽ theo hướng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật càng cao thì thu nhập từ việc làm cũng càng cao. Theo kết quả điều tra
lao động – việc làm 1/4/2004 tính trung cả nước tiền lương bình quân tháng
của một lao động làm công ăn lương hưởng là 845.000 đồng, tăng 9% so với
năm 2003, gấp 1,4 lần mức thất nghiệp bình quân tháng của một lao động có
việc làm nói chung. Thất nghiệp bình quân tháng của một lao động làm công
ăn lương tốt nghiệp CĐ,ĐH gấp gần 2 lần lao động chưa qua đào tạo. Như
vậy, việc trả công cho người lao động ngày càng đánh giá đúng với trình độ
chuyên môn, có vai trò tích cực trong việc khuyến khích người lao động năng
cao trình độ của mình.
1.5 Có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo nghành kinh tế và khu vực
Với sự chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì sự
chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các nghành kinh tế là rất quan trọng. Nhìn

chung, nước ta sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo nghành và khu vực kinh
tế đã có sự chuyển biến tích cực. Tuy lực lượng lao động vẫn chiếm tỷ lệ lớn
(>50%) nhưng đã có sự tăng lên của lực lượng lao động trong nghành công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ.
Bảng 2. Lao động có việc làm chia theo nhóm ngành
kinh tế 1996 - 2003
số lượng cơ cấu
năm năm

1996 2002 2003 1996 2002 2003
Cả nước 33,978

39,29 39,585

100 100 100

22

Nông-Lâm –Ngư nghiệp 23,431

24,023

25,099

68,96

61,14 58,35
Công nghiệp- xây dựng 3,698 5,912 6,713 10,88

15,05 16,96

Dịch vụ 6,849 9,355 9,773 20,16

23,81 24,69

Theo kết quả điều tra lao động việc làm thì cơ cấu lực lượng lao động
trong nông – lâm – ngư – nghiệp năm 2003 là 58,35% giảm so với năm 2001
là 2,79% so với năm 1996 là 7,08%. Trong ngành công nghiệp – xây dựng
năm 2003 là 16,96% tăng so với năm 2001 là 1,91% so với năm 1996 là
4,17%. Ngành dịch vụ cũng có sự gia tăng đáng kể năm 2003 là 24,69% tăng
so với năm 2003 là 0,87%.
Tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và khu vực kinh
tế còn chậm chạp. Hàng năm trên 60% số việc làm mới được tạo ra chủ yếu
trong khu vực nông nghiêp. Khu công nghiệp – dịch vụ tuy có tốc đọ tăng
việc làm cao song cũng chỉ thu hút khoảng trên dưới 30% số việc làm mới
hàng năm. Nhìn chung cơ cấu lao động của cả nước chia theo nhóm ngành
vẫn luôn chuyển dịch theo hướng tích cực giảm tỷ lệ ở khu vực Nông - Lâm -
Ngư Nghiệp tăng ở khu vực Công nghiệp – Xây dựng – Dịch vụ. Điều đó
phản ánh xu thế Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế của nước ta.
1.6 Xuất khẩu lao động là một hướng đi cơ bản nhằm giải quyết việc
làm cho người lao động.
Trong thập niên 90, chúng ta đã đưa được gần 90.000 người đi làm việc
tại khoảng 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, thấp hơn nhiều so với 300.000 trong
thập kỷ 80. Từ năm 1996 nhiều thị trường cũng có dấu hiệu phục hồi, đồng
thời mở thêm được một số thị trường mới. Năm 2003, Việt Nam đã đưa trên
75.000 lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, bằng 163% năm
2002. Nhiều cơ chế chính sách đã được tháo gỡ tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động vay vốn đi lao động ở nước ngoài. Nâng cao năng lực của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động và việc tăng cường công tác tuyên truyền
cũng là một trong giải pháp cho sự thành công của xuất khẩu lao động trong


23

thời gian qua. Tuy nhiên chất lượng lao động Việt Nam vẫn còn hạn chế về
trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và ý thức nên giảm tính hấp dẫn so với nguồn
nhân lực của các nước khác: Trung Quốc, Philippin, Indonexia.
2 Những mặt hạn chế trên TTLĐ
2.1 Chất lượng lao động còn thấp
Thứ nhất về mặt sức khỏe, thể lực người lao động Việt Nam còn kém
xa
so với các nước trong khu vực về cân nặng, chiều cao, sức bền…
Thứ hai là chất lượng nước ta còn thấp thể hiện rõ qua trình độ văn hóa
và cơ cấu trình độ đào tạo của lao động tham gia hoạt động kinh tế.
Bảng 3. Cơ cấu lao động từ 15 tuổi tham gia hoạt động
kinh tế theo trình độ văn hóa(%)
1996 1997 1998
Chưa biết chữ 5,8 5,1 3,8
Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 20,3 18,5
Đã tốt nghiệp cấpI 27,8 28,1 29,4
Đã tốt nghiệp cấp II 32,3 32,4 32,1
Đã tốt nghiệp cấp III 13,5 14,1 16

Qua số liệu bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, số lao động
chưa tốt nghiệp cấp I mặc dù giảm nhưng vẫn còn cao, trong khi cơ cấu lao
động theo trình độ cấp I, II, và III chuyển biến chậm, cơ cấu theo trình độ
chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu kinh tế phát triển. Đại bộ phận lực lượng
lao động nước ta không có chuyên môn, nghiệp vụ tập chung chủ yếu ở nông
thôn. Số lượng công nhân được đào tạo nghề giảm sút nghiêm trọng, chỉ có
42% đội ngũ công nhân được qua đào tạo, số công nhân không có tay nghề
hoặc thợ bậc thấp chiếm gần 56% và khoảng 20% lao động không có chuyên

môn.
2.2 Quy mô và mức độ tham gia TTLĐ còn thấp.
Ở Việt Nam, hiện nay TTLĐ chủ yếu tập chung ở khu vực đô thị lớn như: TP
Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, các trung tâm công nghiệp mới.

24

Điều tra mức sống dân cư Việt Nam của tổng cục thống kê gần đây cho
thấy có 21,45% lao động so với tổng số lao động trong tuổi của khu vực nông
thôn làm công ăn lương, trong đó làm công ăn lương chuyên nghiệp là
4,29%. Con số này ở thành thị là 42,81% và 32,75%. Lao động làm công ăn
lương ở nước ta từ ba tháng trở lên trên năm nhìn chung còn chiếm tỷ lệ nhỏ
(17% trong tổng số lực lượng lao động xã hội, trong khi đó ở các nước có nền
kinh tế phát triển tỷ lệ này thường chiếm từ 60%đến 80%). Hầu hết các lao
động ở nông thôn đều là lao động tự do.
2.3 Hệ thống tiền lương còn kém linh hoạt.
Tiền lương trong khu vực công còn chậm được điều chỉnh, kém linh
hoạt, làm hạn chế sự vận động của TTLĐ. Tiền lương trong khu vực trứơc
tiên bị ảnh hưởng của mức tiền lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu chậm
được diều chỉnh, đã hạn chế tính linh hoạt của TTLĐ, Ngoài ra đặc biệt tiền
lương ở khu vức công còn chưa thực sự gắn vớiquan hệ cung cầu lao động, do
việc sử dụng còn káh cứng nhắc hệ thống bảng lương quy định của Nhà nước,
bị sư cứng giảm khu vực điều tiết của TTLĐ.
Một sự hạn chế nữa đó là sự can thiệp của Nhà nước trong công tác tiền
lương của doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn rất lớn như việc giao đơn giá tiền
lương hàng năm cho các doanh nghiệp, xác định mức giá trần, khống chế mức
tiền lương bình quân. Điều đó tạo ra sự biến tướng tiền lương tối thiểu dưới
nhiều dạng khác nhau nhằm hợp lí hóa thu nhập dẫn đến tỉ lệ phần mềm trong
tiền lương của nhiều đơn vị còn quá lớn.
IV. Mối quan hệ giữa TTVL và TTLĐ ở Việt Nam.

Qua phân tích thực trạng của TTVL và TTLĐ ở nước ta như trên cho
thấy giữa TTVl vàTTLĐ có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.TTVL đã hình
thành và phát triển giúp giải quyết lượng khá lớn lực lượng lao động. Hàng
năm đã tạo ra gần một nghing chỗ làm việc cho nền kinh tế quốc dân.với sự
phát triển mạnh mẽ của các loại hình kinh tế đặc biệt là các loại hình doang
nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình đã tạo ra nhiều việc làm mới

×