Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Bia ký Đền Công chúa Huyền Trân pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.75 KB, 5 trang )

Bia ký Đền Công chúa Huyền Trân
Thường nghe: Người có công đức lớn thì được
phong thần, thờ phụng. Công đức càng lớn, đẳng
thần càng cao. Sống tận lực vì nước, thác hiển thần
hộ quốc an dân. Người như vậy, thần như vậy ắt
được lập đền, dựng bia đá ghi công tích đặc biệt, lưu
truyền việc tốt đời sau.
Công chúa Huyền Trân sinh năm Đinh Hợi,
1287, là ái nữ của vua Trần Nhân Tông và Khâm Từ
Hoàng hậu, quê làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định. Từ
lúc thiếu thời đến tuổi cài trâm, Công chúa nổi tiếng
thiên hương, tư chất thông minh, hiếu nghĩa vẹn
toàn, ví như huyền ngọc quốc bảo.
Mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ, 1306, thực
hiện lời hứa của vua Nhân Tông, lấy hòa hiếu với
lân bang làm căn bản, Huyền Trân sang Chiêm quốc
làm dâu, trở thành Hoàng hậu Paramesvari. Đáp lại
mối thậm tình ấy, trước đó mấy tháng, vua Chế Mân
đã cắt đất hai châu Ô, Lý dâng lên nhạc phụ Thượng
hoàng làm lễ dẫn cưới. Kể từ đấy, hai châu này được
sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, tức vùng đất phía nam
sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị, đến bờ bắc sông Thu
Bồn, tỉnh Quảng Nam ngày nay.
Mùa hạ, tháng 5 năm Đinh Mùi, 1307, Chế
Mân qua đời. Tháng 9, người Chiêm sang nước ta
dâng voi trắng, báo tang. Theo tục của Chiêm Thành
“hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào đàn thiêu để
chết theo”. Vua Anh Tông biết vậy, sợ Công chúa bị
hại; tháng 10, vua sai đại thần sang Đồ Bàn viếng,
mong cầu giải cứu Huyền Trân.
Mùa thu, tháng 8 năm Mậu Thân, 1308, Công chúa


về tới Thăng Long.
Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông,
năm sau Công chúa xuất gia đầu Phật ở núi Trâu
Sơn, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Dưới sự ấn chứng của
Quốc sư Bảo Phác, Công chúa thọ Bồ tát giới, được
ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi, 1311, thừa mệnh Bổn sư,
Hương Tràng xuống núi, cùng người thị nữ trước
đây, bấy giờ đã qui y, đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên
Bản, nay thuộc tỉnh Nam Định, lập am dưới chân núi
Hổ để tu hành. Thấm thoắt mấy hạ, duyên lành phổ
độ chúng sinh, am tranh trở thành điện Phật, tức
chùa Nộn Sơn, tên chữ Quảng Nghiêm Tự.
Trụ trì chùa Nộn Sơn, Ni sư khiêm nhẫn chăm
lo Phật sự, tạo lập ruộng vườn, giáo hóa cho lớp
đồng ấu, làm thuốc cứu chữa dân lành. Những lúc
nhàn rỗi, Ni sư thường đến tận các thôn ấp trong
vùng, khuyến dân thực hành phép tu Thập thiện
Công đức vô lượng của Ni sư được nhân dân
kính ngưỡng.
Mấy chục mùa kiết hạ, đến khi đắc pháp, mọi
sự viên thành. Ngày 9 tháng giêng năm Canh Thìn,
1340, Ni sư xã báo an tường, thảnh thơi trở về cõi
Tịnh. Dân chúng vô cùng thương tiếc, tôn làm Thần
Mẫu, lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn.
Một đời Công chúa tận sức với nước, khi thác
hiển linh phò trợ giúp dân. Chính vì vậy mà các triều
đại sau đều sắc phong Công chúa làm thần hộ quốc.
Vào đầu thế kỷ XX, các vua nhà Nguyễn lại ban cho
Công chúa chiếu báu nâng bậc tăng thêm là “Trai

Tĩnh Trung Đẳng Thần”.
Nay vừa gặp vận: Mùa xuân Bính Tuất, 2006,
kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân - Thừa
Thiên Huế, nhớ ơn công đức của Huyền Trân năm
xưa dấn thân ngàn dặm đi mở nước; thừa lệnh chính
quyền, hợp sức lòng dân, Công ty Du lịch Hương
Giang đã khởi dựng đền thờ Công chúa, vừa đúng
một năm thì an vị tượng thần.
Ngôi đền tọa lạc về phía nam sông Hương,
cách kinh thành Huế chừng vài dặm, tương truyền là
nơi danh thắng phước địa. Kiến trúc theo lối truyền
thống: trụ biểu vươn cao, nền móng kiên cố, lương
đống vững chắc, điện thờ tôn nghiêm. Phía sau, thế
núi Ngũ Phong trấn giữ. Phía trước, dòng tiểu khê
quầy thành hồ Trường Xuân soi bóng nhật nguyệt,
sơn mạch tả hữu trườn xuống như hai bức trường
thành. Nội điện đặt tượng Huyền Trân, hậu điện phối
thờ các bậc công thần mở nước. Sân sau xây lầu bát
giác, dựng tượng Ni sư, mở vườn Bồ Đề; sau nữa là
điện Trúc Lâm, nhà đọc sách, tượng Di Lặc, miếu
Sơn thần, Thủy thần, gác chuông Hòa Bình…tất cả
tạo thành một trung tâm văn hóa tâm linh ở chốn
Thiên Thai…
Ngẫm lại, thời gian tạo lập ngôi đền không thể
sớm chiều. Nhờ uy lực của thần và cũng nhờ ở sức
người tỏ niềm tri ân mới làm nên.
Thì ra, từ xưa đến nay, bậc hiền nhân dày
công nghiệp với đất nước ắt được phụng thờ, chưa
hề bị lãng quên bao giờ.
Những lần đến dâng hương, nghe chuyện nhiệm mầu

ở chốn Bồng Lai này khiến nhiều người lấy làm lạ.
Phải chăng: Núi không cần cao, có tiên ắt thiêng.
Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng. Có
lẽ nơi đây, Thần nữ đã thị hiện. Bởi vậy, ngôi đền
mới dựng mà đã linh ứng lan truyền.
Nghĩ rằng thần thiêng vốn do tú khí tinh anh
của đất trời hun đúc, ngầm phò giúp cho cơ đồ xã
tắc, giữ nền phúc lớn, ngày mỗi thêm xán lạn vững
bền.
Trước đền Công chúa Huyền Trân, kẻ hậu
sinh nguyện trọn lòng thành, đốt nén tâm hương,
kính soạn bia ký này.

×