Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

LUAN VAN BÁO CHÍ HỌC giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên kênh VTV6 – đài truyền hình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 164 trang )

DANH MỤC VIẾT TẮT

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

TCSX

: Tổ chức sản xuất

TDTT

: Thể dục thể thao

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thơng

THVN

: Truyền hình Việt Nam

GDTC

: Giáo dục thể chất

GD&ĐT



: Giáo dục và Đào tạo

NXB

: Nhà xuất bản

MC

: Người dẫn chương trình

UNESCO : Tổ chức văn hố, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc
UNICEF

: Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc

UNFPA

: Quỹ dân số Liên Hợp Quốc

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

WHO

: Tổ chức y tế Thế giới

RATING


: Tỷ suất khán giả


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
Bảng 1: Mức độ quan tâm của khán giả với các nội dung giáo dục kỹ năng
sống trên VTV6.........................................................................
Bảng 2: Mức độ theo dõi các chương trình trên kênh VTV6...................
Bảng 3: Sự yêu thích của khán giả với các chương trình giáo dục kỹ năng
sống trên kênh VTV6...............................................................
Bảng 4: Đánh giá chất lượng thông tin giáo dục kỹ năng sống trên kênh
VTV6.....................................................................................
Bảng 5: Ý nghĩa tác động của nội dung giáo dục kỹ năng sống trên kênh
VTV6......................................................................................
Bảng 6: Đánh giá hình thức thể hiện các chương trình giáo dục kỹ năng
sống trên VTV6......................................................................
Bảng 7: Đối tượng truyền tải kỹ năng sống được khán giả yêu thích nhất
trên VTV6..............................................................................
Bảng 8: Thực trạng nội dung giáo dục kỹ năng sống trên VTV6............
Biểu đồ 1: Mức độ quan tâm của khán giả với các nội dung giáo dụckỹ
năng sống trên VTV6.............................................................
Biểu đồ 2: Đánh giá chất lượng thông tin giáo dục kỹ năng sống trên
VTV6...................................................................................
Biểu đồ 3: Đối tượng truyền tải kỹ năng sống được khán giả yêu thích trên
VTV6..................................................................................
Biểu đồ 4: Ý nghĩa tác động của các chương trình giáo dục kỹ năng sống


đến nhận thức và hành vi của thanh thiếu niên....................
Biểu đồ 5: Tần suất giáo dục kỹ năng sống trong các chương trình.......
(Đánh số trang vào chỗ bơi vàng, trang này làm sau khi đã in phần nội dung

cho chính xác)


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với những tiến bộ của xã hội, giới trẻ ngày nay được sống và
phát triển trong những điều kiện ngày một tốt hơn về chính trị, kinh tế, giáo
dục, văn hóa xã hội… Bên cạnh đó, trường học cũng đã cung cấp một
lượng kiến thức lớn và chuyên sâu để làm nền tảng tri thức phục vụ cho
quá trình phấn đấu vươn lên của mỗi cá nhân trong học tập và lao động.
Điều đó cũng đóng một phần quan trọng trong việc giúp thanh thiếu niên
có thể dễ dàng tiếp cận được với những cơ hội để phát triển cho bản thân.
Tuy nhiên, đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa thực sự đầy đủ để một cá nhân
có thể vững vàng bước vào đời.
Lứa tuổi thanh thiếu niên có những sự thay đổi về mặt tâm sinh lý,
sự thay đổi này kéo theo những suy nghĩ và hành động khác với những giai
đoạn phát triển trước đó. Bên cạnh đó, môi trường tiếp xúc mở rộng se
mang lại nhiều mối quan hệ mới như quan hệ đồng nghiệp trong công việc,
quan hệ thầy trò bạn bè trong trường học, quan hệ xã hội…Do đó, đòi hỏi
giới trẻ phải có những phương thức tiếp cận phù hợp và thích ứng với các
vấn đề xã hội mới nảy sinh đó.
Trước những phát triển nhanh chóng của xã hội, đời sống vật chất
được cải thiện đáng kể, sự du nhập của văn hóa ngoại lai đang kéo theo
khơng ít hệ lụy, mà giới trẻ là đối tượng bị tác động trực tiếp của những
thay đổi ấy. Hiện nay, một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay đang rơi vào
lối sống thiếu bản lĩnh và thiếu hiểu biết. Họ dễ bị tác động và trượt dài khi
gặp thất bại hay các cú sốc tâm lý trong cuộc sống. Vì vậy, trong bối cảnh

xã hội phức tạp, cơ hội nhiều nhưng thử thách, cám giỗ cũng không ít, làm
thế nào để giới trẻ có thể tạo dựng được bản lĩnh sống vững vàng, trang bị


cho mình những kỹ năng cần thiết để vượt qua thất bại, làm thế nào để
thành công, có kiến thức, có bản lĩnh và hướng đi đúng đắn cho riêng
mình? Tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy khơng hề dễ dàng.
Khi đó, kỹ năng sống chính là một trong những chìa khố để giải đáp
những vấn đề trên. Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực
cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức
của cuộc sống hàng ngày. Hiện nay tại các nước phương Tây, việc đưa giáo
dục kỹ năng sống vào trường học và được truyền thông từ rất sớm đã giúp
cho giới trẻ tự tin trong cuộc sống. Còn tại Việt Nam hiện nay, việc trang bị
kỹ năng sống cho giới trẻ tuy có được quan tâm nhưng cũng mới chỉ dừng
lại ở việc lồng ghép vào một số môn học như đạo đức hay giáo dục công
dân ở trường học. Trong khi thực tế cuộc sống phức tạp, đang đặt ra những
đòi hỏi và thách thức mới trong việc giáo dục và cung cấp kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên.
Hiện nay, có khá nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung kỹ năng sống,
nhưng chủ yếu mới nằm trong phạm vi nghiên cứu, ứng dụng cho việc giáo
dục kỹ năng sống trong nhà trường. Trong khi có nhiều phương tiện, cách
thức truyền tải thông điệp về kỹ năng sống rất sinh động, phong phú về nội
dung, đa dạng về hình thức thể hiện, trong đó có báo chí.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ, các phương tiện truyền thông đại chúng cũng đã có những bước phát
triển mạnh me. Trong đó, truyền hình là một phương tiện truyền thông rất
quan trọng, được đông đảo các tầng lớp trong xã hội quan tâm, đón nhận.
Với sức lan tỏa nhanh, cùng thời gian ngắn, dựa trên ưu thế về hình ảnh,
âm thanh, truyền hình đang là một trong những lựa chọn thông tin hàng đầu
cho thanh thiếu niên.



Ở nước ta hiện nay. số lượng kênh truyền hình được phát sóng có tới
gần 200 kênh, VTV6 – kênh truyền hình đầu tiên dành riêng cho giới trẻ
của Đài THVN đang là một điểm hẹn của đông đảo người trẻ trên cả nước.
Cùng với VTV6, một số kênh truyền hình chuyên biệt dành cho người trẻ
cũng xuất hiện như: như Yan TV (thành lập 16/6/2009); Yaeh1 TV (thành
lập tháng 8/2008)… Tuy nhiên những kênh này thiên về văn hóa, giải trí,
gần như khơng có các thơng tin chính trị, kinh tế, các vấn đề nóng của đất
nước, nhất là các chương trình mang tính giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên. Bên cạnh đó, việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
mới chỉ được là lồng ghép ở một số chương trình trên các kênh phát sóng
của VTV, VTC, ANTV, chưa có tính tập trung, chuyên biệt hướng tới khán
giả trẻ. Vì vậy, VTV6 thể hiện rõ tính chuyên biệt, đóng vai trò quan trong
trong việc tuyên truyền, định hướng, giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên, thơng qua hệ thống các chương trình phát sóng của mình.
Hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục kỹ năng sống thanh thiếu niên
vẫn còn khô cứng, đôi lúc chưa thực sự phù hợp với đối tượng khán giả. Để
tận dụng thế mạnh của truyền hình so với các loại hình báo chí khác trong
việc giáo dục giới trẻ, VTV6 cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng
các chương trình, làm mới nội dung, hình thức thể hiện phong phú, trẻ
trung để phù hợp với đối tượng khán giả, nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục
cao nhất. Trong những năm qua, thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà
nước về giáo dục toàn diện cho thanh thiếu niên, Đài THVN nói chung và
Ban Thanh thiếu niên - VTV6 nói riêng đã và đang sản xuất hàng loạt
chương trình có mục đích giáo dục, cung cấp kiến thức, kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên về mọi mặt như: “Thư viện cuộc sống”, “Đối thoại trẻ”,
“Điểm nóng”, “Ngược chiều’’, “Sinh ra từ làng”, “Sống khác”… Tuy
nhiên trên thực tế, lượng khán giả xem VTV6 chưa nhiều, chưa đồng đều ở



các vùng miền, có thời điểm mức rating dưới 1%. Trong khi, một bộ phận
không nhỏ thanh thiếu niên đang có lối sống buông thả, suy nghĩ lệch lạc,
vô cảm, tình trạng trẻ hóa tội phạm ngày càng gia tăng…cần thiết phải có
sự định hướng, giáo dục kỹ năng sống kịp thời cho giới trẻ. Vấn đề này
cũng đặt ra đòi hỏi nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình cả về
nội dung và hình thức để hấp dẫn khán giả và đạt được hiệu quả giáo dục
nói chung giáo dục kỹ năng sống nói riêng. Đây cũng chính là lí do tác giả
lựa chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên kênh
VTV6 – Đài truyền hình Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, còn ít đề tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề giáo dục kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên. Hiện mới chỉ có một số ít tài liệu liên
quan như:
- “Khả năng tác động của các phương tiện thơng tin đại chúng đối
với việc hình thành lối sống của thanh niên hiện nay” – Tác giả Hồng Thị
Xn Quý, Học viện Báo chí và Tun truyền, 1999.
Luận văn tập trung làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các phương tiện
thơng tin đại chúng và việc hình thành lối sống thanh niên, sinh viên, cũng
như tác động của các phương tiện thông tin đại chúng tới nhận thức và
hành vi của nhóm đối tượng này. Qua đó, hình thành các giải pháp nhằm
nâng cao khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc giáo dục, hình thành lối sống tích cực của thanh niên, sinh viên.
- “Tạp chí thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta hiện nay”
- Khóa luận tốt nghiệp của học viên Trần Hương Giang, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, 2004.


Luận văn đề cập tới 3 vấn đề chính của thanh niên là: đạo đức - lối
sống; tình bạn – tình u – hơn nhân gia đình; vấn đề giải trí vui chơi lành

mạnh của thanh niên.
- “Văn hóa nghe nhìn của giới trẻ” là cơng trình nghiên cứu của
TS.Đỗ Nam Liên về phương thức tiếp cận thông tin qua truyền hình và
băng đĩa của khán giả trẻ TP.HCM, được xuất bản năm 2005. Trong đó, tác
giả đề cập đến thói quen tiếp nhận thông tin của thanh thiếu niên thành phố.
- “Giáo dục Thanh thiếu niên, nhi đồng trên sóng Đài truyền hình
Việt Nam” – Luận văn Thạc sỹ Báo chí học, tác giả Trần Thị Thi Hương,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2005.
Luận văn đã đề cập tới vấn đề giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Cụ thể
là các vấn đề: Giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục kiến thức, giáo dục sức
khỏe, giáo dục thẩm mỹ. Do luận văn đề cập tới nhiều mảng nội dung của
giáo dục nên phần phân tích từng nội dung phản ánh còn chưa sâu. Đối
tượng, phạm vi đề tài còn khá rộng, chưa khu biệt vào một nội dung cụ thể.
Riêng nội dung giáo dục kỹ năng sống chưa làm rõ, mặc dù tác giả có lồng
ghép vào 4 nội dung giáo dục kể trên.
- “Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC với đời sống của giới trẻ” Luận văn Thạc sỹ Báo chí học của tác giả Đào Thị Phương Trà, Trường ĐH
Quốc Gia Hà Nội, 2010.
Luận văn này khái quát một cách cơ bản về đời sống tinh thần của
thanh niên Việt Nam được phản ánh và ghi nhận trong các chương trình
truyền hình dành cho giới trẻ được phát sóng trên một số kênh của Đài
truyền hình kỹ thuật số VTC. Luận văn đề cập khá kỹ tới vai trò của truyền
hình đối với đời sống tinh thần của giới trẻ, những xu hướng, trào lưu, thú


chơi mới…của người trẻ được đề cập tới trong các chương trình và xem
đây là tiêu chí đánh giá vai trò của 1 đài truyền hình với đời sống tinh thần
của giới trẻ.
- “Tổ chức phối hợp của huyện đoàn với nhà trường trung học phổ
thông thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở huyện Gia Lâm hiện
nay” – Luận văn Thạc sỹ Giáo dục học, tác giả Phùng Thị Hoài Thương,

2009.
Luận văn đề cập tới vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên cấp huyện
và nhà trường cấp THCS trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
huyện Gia Lâm hiện nay. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ, cách thức phối hợp
giữa 2 tổ chức sao cho hiệu quả.
- “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh tiểu học” –
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị Thúy Hằng,
NXB Đại học Quốc gia, 2010.
Cuốn sách đưa ra hệ thống khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống, giá trị
sống cũng như tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống và giá trị
sống cho học sinh cấp tiểu học. Đồng thời đề ra một số giải pháp nâng hiệu
quả hoạt động giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở cấp tiểu
học.
- “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống
cho học sinh ở trường Trung học phổ thông Nam Phù Nừ, tỉnh Hưng Yên”Luận văn Thạc sỹ Quản lý giáo dục, tác giả Lương Thị Hằng, trường Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2012.
Luận văn đã đưa ra hệ thống các khái niệm như: kỹ năng sống, giá trị
sống, mối quan hệ giữa kỹ năng sống và giá trị sống. Tuy nhiên, luận văn


chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở trường Trung học phổ thông Nam
Phù Nừ, tỉnh Hưng Yên. Đồng thời đề ra một số giải pháp nâng cao tính
quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở cấp
THCS.
- “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà
trường trung học phổ thông huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” - Luận văn
Thạc sỹ Giáo dục học, tác giả Hoàng Nghĩa Kiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2013.
Luận văn đã đưa ra hệ thống khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, kỹ

năng, kỹ năng sống. Luận văn tập trung phân tích sâu về những tác động
của công tác quản lý đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà
trường. Đề ra những giải pháp nâng cao tính quản lý hoạt động giáo dục giá
trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở cấp THPT.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên mới bước đầu đề cập
đến một số khía cạnh của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
như: khái niệm, công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống
trong nhà trường... Tuy nhiên, về mặt học thuật, gần như chưa có một đề tài
nào nghiên cứu cụ thể, cơ bản nội dung giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên báo chí nói chung trên loại hình truyền hình nói riêng và cụ
thể hơn nữa là ở kênh VTV6 - kênh truyền hình chuyên biệt dành cho đối
tượng thanh thiếu niên. Trong khi truyền hình với rất nhiều những thế mạnh
sẵn có là một phương tiện truyền tải hữu hiệu và không thể thiếu các kiến
thức về kỹ năng sống cho thanh thiếu niên.


Đó chính là khoảng trống về cả mặt lý luận và thực tiễn cần tiếp tục
được nghiên cứu sâu. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên trên kênh VTV6 – Đài truyền hình Việt Nam” để
nghiên cứu, với mong muốn có một sự đóng góp phù hợp trong quá trình
tìm hướng phát triển cho vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên trên truyền hình. Trong luận văn, tơi se kế thừa những ý tưởng khai
phá của những nhà nghiên cứu đi trước và coi đó là tiền đề lý luận và thực
tiễn để triển khai đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát về nội dung, hình thức, phương
thức sản xuất các chương trình truyền hình của kênh VTV6 về vấn đề giáo
dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, luận văn se chỉ rõ những ưu điểm,
cũng như những hạn của các chương trình; từ đó đề xuất một số giải pháp

phù hợp nhằm nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên trên sóng truyền hình, đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền
mà Đảng và Nhà nước giao phó, đồng thời đáp ứng nhu cầu thưởng thức
thơng tin của đơng đảo khán giả trẻ u thích kênh VTV6.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục kỹ năng sống như:
khái niệm, vai trò, thế mạnh và hạn chế của truyền hình trong cơng tác giáo
dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên.


Hai là: Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng,
thành công, hạn chế và hiệu quả của kênh VTV6 trong việc thực hiện vai
trò giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trong thời gian qua
Ba là: Đề xuất hệ thống những giải pháp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả và phát huy vai trò giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên của kênh VTV6.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên trong các chương trình trên kênh VTV6.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Các chương trình tuyên truyền nội dung nhằm giáo dục kỹ năng
sống cho thanh thiếu niên phát trên kênh VTV6.
Chúng tơi chọn 5 chương trình dại diện cho 3 nhóm chương trình
trên kênh VTV6 gồm: “Thư viện cuộc sống”; “Sinh ra từ làng” – 2
chương trình này đại diện cho nhóm chính luận (Từ 1/6/2014 Thư viện
cuộc sống được đổi tên thành “Lăng kính V6”); “Sống khác”; “Ngược
chiều” – đại diện cho nhóm các chương trình truyền hình thực tế; “Xưởng
thời trang” – đại diện cho nhóm chương trình giải trí.

Đây là 5 chương trình thể hiện rõ nét nhất vai trò của VTV6 trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên. Đồng thời là 5 chương
trình nằm trong top có raiting và sự quan tâm cao của khán giả đối với các
chương trình của VTV6.


- Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý, các phóng viên của Đài
THVN nói chung và ở kênh VTV6 nói riêng.
- Khán giả truyền hình, đặc biệt là thanh thiếu niên - đây là những
người đón nhận và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chương trình được sản
xuất bởi kênh VTV6.
4.3. Phạm vi khảo sát
Luận văn tập trung vào khảo sát các chương trình: “Thư viện cuộc
sống”, “Sống khác”, “Ngược chiều”, “Sinh ra từ làng”, “Xưởng thời
trang”, phát sóng trên kênh VTV6 từ tháng 9/2013 – 3/2014.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu ở bốn trường với các cấp bậc và hệ học vấn khác nhau trên địa
bàn Hà Nội gồm: Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Quận Ba Đình); THPT
Nguyễn Tất Thành (Quận Cầu Giấy); Trường Đại học Ngoại Thương
(Quận Ba Đình); Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Quận Thanh Xuân).
Đây là những trường mà có đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài đó là
nhóm thanh thiếu niên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là các
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
của Đảng, Nhà nước và các chủ trương, định hướng của ngành giáo dục về
cơng tác báo chí; một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo chí truyền
hình nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu



Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng kết hợp một số
phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hóa, bổ
sung mặt lý thuyết về truyền hình nói chung, giáo dục kỹ năng sống trên
truyền hình đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên
truyền hình nói riêng. Đây chính là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết
quả khảo sát thực tế và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên
cứu.
- Phương pháp thống kê:

Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần số xuất hiện, mức
độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình có nội dung giáo
dục kỹ năng sống trên kênh VTV6. Phương pháp này được dựa chủ yếu
vào việc tác giả phải lưu giữ, xem lại các chương trình liên quan đến vấn đề
khảo sát từ tháng 9/2013 đến tháng 3/2014 trên VTV6.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, khảo sát việc đáp
ứng nhu cầu thông tin giáo dục kỹ năng sống của kênh VTV6 như thế nào
với khán giả.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng tiếp nhận thông tin giáo
dục kỹ năng sống của thanh thiếu niên đối với kênh VTV6.
+ Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến ngẫu nhiên cho 500 người tại
Hà Nội. Cụ thể: Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Quận Ba Đình); THPT


Nguyễn Tất Thành (Quận Cầu Giấy); Trường Đại học Ngoại Thương

(Quận Ba Đình); Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Quận Thanh Xn),
Cơng ty cổ phần dịch vụ báo chí truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên qua khảo
sát, tác giả chỉ sử dụng trên 405 phiếu thu về để phân tích các nội dung
nghiên cứu của đề tài bởi 405 phiếu này là những cá nhân có xem các
chương trình trên kênh VTV6 và như vậy se có những đánh giá chính xác
về các chương trình trên VTV6. Do đó dung lượng mẫu sử dụng để nghiên
cứu trong đề tài này là: 405 phiếu.
+ Mẫu theo giới tính: nam (198 phiếu); nữ (207 phiếu)
+ Mẫu theo độ tuổi : Từ 15 – 18 tuổi: 200 phiếu (nhóm thày thuộc
trường PTTH Đinh Tiên Hoàng, PTTH Nguyễn Tất Thành) ; từ 19 – 25
tuổi : 205 phiếu (nhóm này thuộc trường Đại học Ngoại thương, trường Đại
học Khoa học Tự nhiên)
- Phương pháp phỏng vấn sâu :
Phương pháp này được thực hiện với 01 Lãnh đạo kênh, 01 lãnh đạo
phòng, 05 phóng viên, 03 chuyên gia, khách mời của kênh VTV6 nhằm thu
thập ý kiến đánh giá của cá nhân xung quanh vấn đề nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đặt ra một số giả thuyết sau:
- Giả thuyết thứ nhất: Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
mặc dù đã được quan tâm tuy nhiên phần lớn được đề cập tới ở trong các
trường học. Việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên se khó khai
thác được hiệu quả rộng lớn nếu không khai thác thêm các cách thức khác
trong đó có các phương tiện truyền thơng, đặc biệt là truyền hình. Vì vậy,


se không thấy hết được vai trò của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên cũng như trách nhiệm, thế mạnh, hạn chế của truyền hình
trong vấn đề này nếu không nghiên cứu một cách khách quan và cụ thể
những vấn đề liên quan. Cụ thể từ khái niệm, nội dung, vai trò của hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên đến vai trò, thế mạnh, hạn

chế của loại hình truyền hình trong hoạt động này cùng với đó là chỉ ra
những tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên trên truyền hình.
- Giả thuyết thứ hai: Hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên Đài truyền hình Việt Nam đã bước đầu được quan tâm, đặc
biệt là trên kênh VTV6. Hoạt động này đã đem lại những kết quả đáng
khích lệ, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều những hạn chế, hiệu quả
chưa cao. Nếu không có những khảo sát, phân tích một cách khách quan,
khoa học thực trạng đang diễn ra từ đó chỉ ra những thành công, hạn chế,
những giải pháp hợp lý thì hoạt dodongj giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên kênh VTV6 se khó phát huy hết hiệu quả.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận – nhận thức: Luận văn hệ thống hoá và phân tích cụ
thể về vai trò của việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trong
các chương trình truyền hình hiện nay. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo
cho hoạt động nghiên cứu và cơ sở đào tạo về báo chí, thơng qua việc đưa
ra những phân tích cụ thể về thực trạng và giải pháp nâng cao việc giáo dục
kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên báo chí nói chung và ở truyền hình,
nói riêng.


- Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài này se cho thấy một cách
nhìn cụ thể , bản chất hơn, chỉ ra sự cần thiết của các chương trình mang
tính giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, một vấn đề đang rất cấp
thiết, nóng hổi và cũng là yêu cầu thiết thân của công chúng trẻ trong thời
điểm hiện nay. Từ đó gợi ý giúp các nhà quản lý đưa ra được những tiêu chí
để có thể sản xuất được những chương trình truyền hình có nội dung hấp
dẫn hơn, phù hợp hơn với khán giả mục tiêu là thanh thiếu niên, từ đó đạt
tới mục tiêu giáo dục hiệu quả hơn. Đồng thời, đặt ra những yêu cầu với
các nhà báo rèn luyện kỹ năng và kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả giáo

dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trong tác phẩm của mình, tạo phong
cách cá nhân và uy tín của cơ quan báo chí, cụ thể ở đây là Ban Thanh
thiếu niên VTV6, Đài Truyền hình Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác giả hi vọng đây se là một tài liệu tham khảo hữu ích
cho những người quan tâm.
8. Kết cấu luận văn
- Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội
dung và Phần kết luận. Cụ thể :
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục kỹ năng
sống cho thanh thiếu niên trên truyền hình.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên kênh VTV6 hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả việc
giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên truyền hình.


- Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục gồm
một số biên bản phỏng vấn sâu lãnh đạo Đài THVN, lãnh đạo kênh VTV6,
mẫu phiếu thăm dò ý kiến khán giả và tổng hợp kết quả khảo sát.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
KỸ NĂNG SỐNG CHO THANH THIẾU NIÊN TRÊN TRUYỀN HÌNH

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Kỹ năng sống
Tại Mỹ, từ những năm 1916, người Mỹ đã nhận ra rằng tri thức nhân
loại là rất lớn nhưng để thực hành thành thạo và áp dụng, ứng dụng vào
cuộc sống thì thường không như mong muốn. Cho nên mỗi người dân lao

động tại Mỹ phải đảm bảo thực hành và phải được các tổ chức công nhận là
đã trải qua việc học tập 13 kỹ năng bắt buộc.

13 kỹ năng bắt buộc đó là: Học cách học – Phương pháp học; Lắng
nghe và Thấu hiểu; Thuyết trình và Thuyết phục; Giải quyết vấn đề; Tư duy
sáng tạo và hiệu quả; Tinh thần tự tôn; Đặt mục tiêu và tạo động lực; Phát
triển cá nhân và sự nghiệp; Giao tiếp thành công; Tinh thần đồng đội –
TEAM; Đàm phán và Thương lượng thành công; Đảm bảo hiệu quả tổ
chức; Lãnh đạo bản thân và tổ chức.


Tại Hàn Quốc, học sinh tiểu học được học cách đối phó thích ứng
với các tai nạn như cháy, động đất, thiên tai... tại Trung tâm điều hành tình
trạng khẩn cấp Seoul. Còn ở Ấn Độ: giáo dục kỹ năng sống cho con người
được xem xét dưới góc độ giúp cho con người sống một cách lành mạnh về
thể chất lẫn tinh thần, nhằm phát triển năng lực con người.
Vào đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước, các tổ chức Liên hợp quốc như Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ
chức Giáo dục, khoa học và văn hóa LHQ (UNESCO) đã chung sức xây
dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, bởi, theo
UNICEF, những thử thách mà trẻ em và thanh niên phải đối mặt là rất
nhiều, nên cần phải trang bị những kỹ năng để giúp con người có thể tồn tại
một cách chất lượng, hiệu quả. Vậy kỹ năng sống là gì mà mọi người, mọi
quốc gia đã rất quan tâm đến vấn đề này?
Thuật ngữ “Kỹ năng sống” có nhiều định nghĩa, được sử dụng rộng
rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động. Có một số khái
niệm tiêu biểu như sau:
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (1993) định nghĩa: “kỹ năng sống là
khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối
phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày" [23].

Trong giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, kỹ năng sống có thể hiểu là
một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể
của cuộc sống hiện đại; ví dụ như quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức
ăn, cách diễn đạt, và kỹ năng tổ chức... Đôi khi kỹ năng sống, nhưng không
phải luôn luôn, khác biệt với các kỹ năng nghiệp vụ (trong nghề nghiệp).


Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là “sự thay
đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa
kiến thức, thái độ và hành vi”[25]. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển
đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế
nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế
nào).
Theo tổ chức Giáo dục và Khoa học văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột giáo dục là:
- Học để biết (gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...)
- Học làm người (gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin...)
- Học để sống với người khác (gồm các kỹ năng xã hội như: giao
tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự
cảm thông)
- Học để làm (gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như: kỹ
năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm...)
Phân tích các quan niệm trên cho thấy: Quan niệm của WHO nhấn
mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết
thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với mơi trường xung
quanh. Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kỹ
năng cụ thể, mặc dù đã có những nét tương đồng với quan điểm của
UNESCO về kỹ năng sống.



Quan niệm của UNESCO là quan niệm tương đối chi tiết, đã nhấn
mạnh thêm kỹ năng thực hiện công việc và đảm nhận nhiệm vụ. Còn quan
niệm của UNICEF nhấn mạnh kỹ năng khơng hình thành, tồn tại một cách
độc lập, tồn tại trong mối tương tác mật thiết, có sự cân bằng giữa tri thức
và thái độ.
Như vậy, qua phân tích những quan niệm của các tổ chức trên thế
giới và quan niệm của một số nước phát triển, mặc dù cách định nghĩa có
những khác nhau nhưng nhìn chung tiệm cận ở một điểm, đều cho rằng: kỹ
năng sống chính là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết
để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
Trên cơ sở những phân tích đó, chúng tơi xin được đưa ra một quan
niệm riêng về kỹ năng sống để tiện cho quá trình nghiên cứu như sau: “Kỹ
năng sống là khả năng làm chủ bản thân và ứng xử linh hoạt, hiệu quả với
các quan hệ cũng như các tình huống trong cuộc sống”.
Kỹ năng sống tạo điều kiện cho con người hành động không chỉ
trong điều kiện quen thuộc mà cả những điều kiện đã được thay đổi. Tuy
nhiên, để có khả năng hành động, ứng phó một cách hiệu quả trong mọi
môi trường, điều kiện phải có tri thức. Trong cuốn sách “Tâm lý học lứa
tuổi và tâm lý học sư phạm”, A.V. Pêtôvxki và V.A. Cruchextki cho rằng:
Cơ sở hình thành kỹ năng là tri thức. Tri thức chính là nền tảng góp phần
hình thành nên kỹ năng. Tuy nhiên để tri thức đó trở thành nhuần nhuyễn,
thành kỹ năng thì cần nhiều yếu tố khác nữa cấu thành . Người có kỹ năng
về một hành động nào đó nói riêng hay kỹ năng sống nói chung phải đạt
được những yêu cầu:


- Có tri thức về phương thức thực hiện hành động đó, tức là nắm được
các thao tác, cách thức hành động, các điều kiện và hướng đến mục đích

hành động.
- Vận dụng các tri thức một cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
- Đạt được kết quả trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
Như vậy, để có được kỹ năng sống đòi hỏi con người phải có tri thức,
kinh nghiệm cần thiết về hoạt động. Tri thức và kinh nghiệm chưa phải là
kỹ năng, kỹ năng là những tri thức, kinh nghiệm đã được vận dụng vào
thực tiễn một cách có hiệu quả. Kỹ năng khác với thói quen. Hầu hết các
thói quen hình thành một cách vơ thức và khó kiểm sốt. Trong khi đó kỹ
năng được hình thành một cách có ý thức do quá trình luyện tập, nhắc đi
nhắc lại sao cho thuần thục. Kỹ năng không phải là bẩm sinh mà là sản
phẩm của hoạt động thực tiễn, đó là kết quả vận dụng những tri thức và
kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra.
Kỹ năng sống và kỹ năng mềm không phải là 2 khái niệm không
đồng nhất. Bởi kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ
năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội,
thái độ và hành vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người.
Kỹ năng sống và kỹ năng mềm không phải là hai thứ khác nhau, và càng
không phải là hai thứ giống nhau, mà kỹ năng mềm chính là một phần của
kỹ năng sống, hay kỹ năng sống bao gồm kỹ năng mềm và một số kỹ năng
khác.
1.1.2. Giáo dục
Giáo dục là khái niệm quan trọng và cơ bản nhất của giáo dục học.


Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều quan
niệm: “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người…” [40, tr.9].
Quan niệm trên nhấn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế
hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng khơng thấy nói đến mục đích sâu

xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó là gì.
Ơng John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà
cải cách giáo dục người Mỹ, cho rằng: “Cá nhân con người không bao giờ
vượt qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến
thức, kinh nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn
tại xã hội lại đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người
phải vượt qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự
sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã
hội”. [17, tr.17 – 26]. Ngồi ra, ơng John Dewey cũng cho rằng, xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn tại chính trong q trình
truyền dạy ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề
cập đến việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của
việc giáo dục, là dạy dỗ.
Từ “giáo dục” trong tiếng Anh là "education". Đây là một từ gốc Latin
ghép bởi hai từ: "Ex" và "Ducere" - "Ex-Ducere". Có nghĩa là dẫn
("Ducere") con người vượt ra khỏi ("Ex") hiện tại của họ mà vươn tới những
gì thiện hảo, tốt lành hơn, hạnh phúc hơn. Trong định nghĩa này, sự hoàn
thiện của mỗi cá nhân mới là mục tiêu sâu xa của giáo dục, người giáo dục
(thế hệ trước) có nghĩa vụ phải dẫn hướng, phải chuyển lại cho thế hệ sau tất
cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau triển nảy nở hơn, hạnh phúc hơn.


×