Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận chính trị học phát triển - Chủ nghĩa Xã hội dân chủ và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.18 KB, 18 trang )

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
1.1.1. Định nghĩa chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản
khoa học) là chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận tồn
diện (triết học, kinh tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu
của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu
hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp
công nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hồn chỉnh về mặt cấu trúc của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện
tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính
trị, là học thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân,
về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng
mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.1.2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa xã hội khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:

1


Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt
được những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng
khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ


nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo
ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận
thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và
cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện
đại trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách
là một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp cơng nhân là lực lượng xã hội có
khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt
đầu có tổ chức và trên quy mơ rộng khắp. Nó địi hỏi có một lý luận khoa học
hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào cơng nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa
công nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân
dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những
phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh
của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ
thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, khơng cịn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa
học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.

2


- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh

vực khoa học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào
của M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh);
thuyết bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của M. Lơmơnơxốp (Nga). Về
khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh
tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không
tưởng – phê phán (H. Xanhximơng, S. Phuriê, R.Ơoen,…). Những thành tựu
của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa
cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói
riêng.
1.1.3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội khoa học:
- Các Mác (1818 – 1883):
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là
lãnh tụ và người thầy của giai cấp vơ sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công
nhân hiện đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm
chủ nghĩa duy vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu
ra hai phát kiến vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị
thặng dư. “Nhờ hai phát kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”.
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là

3


kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có
cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph.

Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản”
– một tổ chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc
ca tuyệt tác của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên
của phong trào công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được
trình bày một cách rõ ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản”, theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là
Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho
tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít –
lêninnít lấy tác phẩm “Tun ngơn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc
xây dựng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Khái niệm chủ nghĩa xã hội dân chủ
1.2.1. Định nghĩa chủ nghĩa xã hội dân chủ
“Chủ nghĩa xã hội dân chủ là khái niệm được các nhà dân chủ xã hội
thay thế cho khái niệm cải lương xã hội, nói nét khác chủ yếu là đề cao dân
chủ trên lĩnh vực xã hội, hay dân chủ - xã hội”. Họ cho rằng k cần cách mạng
mà giai cấp công nhân chủ yếu đấu tranh cho các vấn đề xã hội trong lòng chủ

4


nghĩa tư bản rồi dần dần sẽ thiết lập một chủ nghĩa xã hội trong khuôn khổ
nhà nước tư sản.
Trong cương lĩnh của quốc tế xã hội chủ nghĩa tại đại hội ở Franphuoc
(đức) đã định hình rõ rệt.

1.2.2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa xã hội dân chủ.
- về kinh tế
Nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc phát triển hết sức mạnh mẽ,
bành trướng xâm lược thuộc địa ở khắp mọi nơi trên thế giới gây ra những
mâu thuẫn hết sức gay gắt, giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản lẫn các
nước đế quốc với các nước thuộc địa.
-

Về chính trị.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ chính là biểu hiện rõ nét của sự

khủng hoảng của chủ nghĩa của chủ nghĩa tư bản. từu đó dẫn đến sự khủng
hoảng của trào lưu xã hội dân chủ.
Trong phong trào cơng nhân có sự phân hóa sâu sắc thành nhiều bộ
phận.
-

Về tư tưởng

Tập hợp các trào lưu tư tưởng phimacxit đối xét lại chủ nghĩa mác
Các phái như chủ nghĩa cơ hội phái gữa, cải lương đối xét lại và có thái
độ thiếu khác quan.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa cơ hội quốc tế II ảnh hưởng của nó đến
phong trào cơng nhân.

5


CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG LỰA

CHỌN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ.
2.1. Sự tương đồng trong lựa chọn con đường phát triển
Chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội dân chủ :phân phối theo
lao động và nhu cầu, dùng nhà nước để phân phối.
Giải phóng xã hội, giải phóng con người. bảo vệ lợi ích của nhân dân,
dân tộc và tồn thể nhân loại. Chức năng này cũng thống nhất với chức năng
của triết học Mác-Lênin và kinh tế chính trị học Mác-Lênin, nhưng trực tiếp
nhất là trang bị lý luận nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Không làm được chức năng này, chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ
nghĩa xã hội dân chủ sẽ không thể cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp
nhận thức về chính trị - xã hội cho người nghiên cứu và hoạt động thực tiễn
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
cho các đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa với chức năng lãnh đạo và
quản lý xã hội.
2.2. sự khác biệt trong lựa chọn con đường phát triển.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ là quan điểm tư tưởng và chính trị rất đa
dạng, nhiều màu sắc về cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội bằng
con đường cải cách dân chủ, đối lập với hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hôi khoa học và thực tiễn hoạt động của các đảng
cộng sản và công nhân. Chủ nghĩa xã hội dân chủ tên gọi thống nhất của hệ
thống tư tưởng và mơ hình mục tiêu của đảng dân chủ xã hội ở các nước. Chủ
nghĩa xã hội dân chủ bác bỏ những quan điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa
Mác – Lê nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân về cách mạng xã hội
chủ nghĩa và chun chính vơ sản. Họ tuyên truyền về “hợp tác giai cấp”,
6


“hịa bình xã hội” về những việc tự tu dưỡng đạo đức, về tư tưởng của thuyết

đa nguyên chính trị, những tư tưởng về trách nhiệm toàn cầu…
Mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội dân chủ nhấn mạnh đi theo
“con đường thứ ba”, khác với chủ nghĩa tư bản và với cả chủ nghĩa xã hội.
Mơ hình con đường thứ ba này có ba quan điểm chính:
Hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa do đảng xã hội dân chủ cầm quyền
Hệ thống kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự điều tiết lớn của nhà nước
Hệ thống an sinh xã hội được đảm bảo bởi một hệ thống chính sách bảo trợ xã
hội rộng lớn. Mơ hình này gọi chung là nhà nước phúc lợi. Mơ hình này là sự
cải cách nhà nước, biến nó thành một nước xã hội với một nghĩa mới và tăng
cường ảnh hưởng của xã hội công dân; đề xuất các hình thức kiểm sốt mới
của xã hội, gắn quyền với trách nhiệm, khôi phục lại các khái niệm phúc lợi
xã hội và bình đẳng xã hội, xem xét lại quan điểm trợ giúp của xã hội; kết
hợp giữa chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa cộng đồng; đảm bảo phát triển
vững chắc và an tồn về mơi sinh; tạo điều kiện để phát triển tiềm năng con
người, thừa nhận tầm quan trọng của tư bản con người và tư bản xã hội... Mơ
hình này có thể được xem là thành tựu lớn nhất của trào lưu xã hội dân chủ.
Để làm rõ hơn sự biến đổi của trào lưu xã hội dân chủ cần làm rỏ những
điểm mới giữa “con đường thứ ba” với “trào lưu xã hội dân chủ truyền
thống”. Vấn đề này được thể hiện qua những mặt sau:
Về mặt triết lý và hệ tư tưởng, nếu như chủ nghĩa xã hội dân chủ trước
đây lấy giai cấp làm cơ sở để phân chia ranh giới chính trị, nền tảng cử tri của
nó là giai cấp cơng nhân, thì “con đường thứ ba” mới chủ trương xây dựng
quan niệm mới về đoàn kết xã hội (thỏa hiệp xã hội, đồng thuận xã hội) và thu
hút các lực lượng chính trị, lấy các tầng lớp trung gian làm hạt nhân.
Về mặt cương lĩnh chính trị, tuy khơi phục lại các giá trị truyền thống
như Tự do, Bình đẳng, Đoàn kết nhưng nhấn mạnh quan niệm giá trị “dân chủ
hóa”, “đa ngun hóa chính trị”, làm nổi bật “tự do”, “nhân quyền”. Cho rằng
7



tự do là được hưởng nguồn của cải để nâng cao mức sống, phải bảo vệ và mở
rộng tự do, xây dựng xã hội tự do thự sự, tuyên bố “tôn trọng nhân quyền là
tiêu chuẩn quan trọng để đo hành vi xã hội”, coi vấn đề nhân quyền là nguyên
tắc quan trọng cho quan hệ đối ngoại.
Về mặt cương lĩnh kinh tế, vấn đề sở hữu trước đây đảng dân chủ đều
khẳng định tầm quan trọng của chế độ cơng hữu, cho rằng mục đích của chủ
nghĩa xã hội là làm thay đổi chiếm hữu của một số ít người và khống chế tư
liệu sản xuất, chủ trương bảo lưu và mở rộng chế độ công hữu, giao quyền lợi
kinh tế cho toàn thế nhân dân. Hiện nay, “con đường thứ ba” mới chủ trương
“kinh tế hỗn hợp kiểu mới”, trong đó nhấn mạnh: khơng phải chế độ sở hữu
mà là “cạnh tranh và quy tắc”. Điều đó cũng có nghĩa những người xã hội dân
chủ hầu như khơng còn nhắc đến tầm quan trọng của chế độ sở hữu, khơng
cịn nhắc đến thay đổi chế độ sử hữu hay xây dựng chế độ công hữu nữa, mà
nhấn mạnh phải phát huy mơ hình kinh tế hỗn hợp sản xuất là hiệu quả tốt
nhất.
Về vấn đề vai trò của thị trường, trước đây nhấn mạnh phải giám sát
dân chủ có kế hoạch hiệu quả đối với sản xuất, ít đề cập đến vai trò của thị
trường trong việc bố trí nguồn của cải, sản xuất và cung cấp dịch vụ, nhấn
mạnh cơ chế thị trường và cơ chế cạnh tranh là không thể thiếu đối với việc
phát triển kinh tế, vai trị của chính phủ cần phải giới hạn việc điều chỉnh sai
lệch của thị trường, xây dựng cơ chế thuế công bằng và giúp đỡ xây dựng cơ
chế hạ tầng…
Về mặt chính sách phúc lợi, trước đây các Đảng xã hội dân chủ tn
theo chính sách duy trì thâm hụt tài chính, mở rộng cơng trình cơng cộng,
tăng phúc lợi và trợ cấp xã hội, luôn luôn tự hào vì “phúc lợi cao”, cịn ngày
nay họ khơng nhấn mạnh đến chi tiêu phúc lợi xã hội, mà giảm chi tiêu phúc
lợi; khơng tăng đầu tư cho cơng trình công cộng và trợ cấp phúc lợi, mà tăng
đầu tư mạng tính sản xuất cho kinh tế và xã hội, không nhấn mạnh “việc làm
8



đầy đủ” mà nhấn mạnh thông qua đào tạo tố chất con người, tăng cường cơ
hội việc làm và giảm thiểu giờ làm để giảm tình trạng thất nghiệp. Nguyên tắc
cơ bản của “Con đường thứ ba” mới là “vô trách nhiệm thì khơng có quyền
lợi”. Mục tiêu là cải tạo nhà nước phúc lợi truyền thống thành “nhà nước đầu
tư xã hội”.
Về mặt hành vi cầm quyền, xây dựng tổ chức và hợp tác quốc tế. Trước
đây phương thức quản lý của chính phủ tương đối nặng về tính tập quyền, giờ
nhấn mạnh xây dựng phong cách quản lý công khai, rõ ràng, thực hiện nới
lỏng hoặc địa phương tự trị để chính phủ tiếp cận dân chúng, tăng cường tín
nhiệm của dân chúng và tăng cường sức sống của xã hội cơng dân. Thực hiện
phân quyền hóa tổ chức của đảng, địa phương hóa và phân tán hóa chức năng
của chính phủ để giành thế chủ động về chính trị. Đồng thời nhấn mạnh, ban
lãnh đạo phải thực hiện việc thay đổi giữa mới và củ, tăng cường nhân tài
lãnh đạo, sức mạnh lãnh đạo. Song song với việc tăng cường sức mạnh, mở
rộng ảnh hưởng ở trong nước, họ còn liên hệ giao lưu hợp tác ở phạm vi quốc
tế, thường xuyên tổ chức hội nghị song phương, đa phương, mở rộng phạm vi
ra thế giới, mong muốn xác lập địa vị của mình trong bố cục chính trị quốc tế
mới.
Như vậy, nội dung chủ yếu của con đường thứ ba mới là tìm kiếm sự
cân bằng giữa thị trường và xã hội, giữa tiến bộ và cơng bằng, giữa quyền lợi
và trách nhiệm từ đó thực hiện sự vượt qua giới hạn của tả và hữu truyền
thống, thích ứng với những thay đổi mới về chính trị, kinh tế ở thời đại tồn
cầu hóa và khuynh hướng chính trị của cử tri. Đồng thời, “Con đường thứ ba”
mới còn muốn dùng những quan niệm giá trị mới để kết cấu lại chế độ tư bản
chủ nghĩa, dùng một hình thức dân chủ mới để gắn kết cá nhân, chính đảng,
nhà nước và hệ thống quốc tế phát triển nhịp nhàng, khắc phục cái gọi là
khủng hoảng dân chủ của chủ nghĩa tư bản, ứng phó với những vấn đề mới

9



nảy sinh trong quá trình phát triển mới của nhân loại ở thế kỷ XXI, đặc biệt là
những thách thức do tồn cầu hóa mạng lại.
Tuy nhiên, cơ sở xã hội của “Con đường thứ ba” chưa thật sự rộng lớn
và ổn định nên chính sách của nó thiếu nhất qn, ln ln phải điều chỉnh
theo lợi ích và nhận thức của các nhóm xã hội chủ chốt, mà các nhóm xã hội
lại có tư tưởng cải cách rất đa dạng (các tầng lớp giàu có muốn mở cửa rộng
rãi cho thị trường tư do, cịn các cơng đồn và các tầng lớp nghèo muốn bảo
vệ và giữ nguyên các cơng việc cũ, những phúc lợi cũ…). Chính vì vậy, các
chính phủ xã hội dân chủ mới đạt được những thành tựu trong phát triển kinh
tế, còn kết quả trong các lĩnh vực khác chưa nổi bật. Cộng thêm vào đó là
hàng loạt vấn đề mới nảy sinh và nhanh chóng phát triển với quy mơ ngày
càng trầm trọng (nạn thất nghiệp cao tái phát, chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở
nhiều nước phát triển mạnh, nguy cơ chủ nghĩa khủng bố ngày càng tăng, tội
phạm các loại ngày càng gia tăng với mức độ nghiêm trọng…). Tất cả những
điều đó đã khiến cho “Con đường thứ ba” khơng cịn sự hấp dẫn trong con
mắt người dân và điều này thể hiện trong kết quả bầu cử của một số nước.
Mặt khác, bản thân quan điểm của trào lưu xã hội dân chủ cũng bộc lộ
trung dung về thế giới quan. Chủ nghĩa xã hội dân chủ muốn xây dựng một xã
hội chưa đựng những giá trị nhân đạo nhưng lại trừu tượng và khơng bàn đến
cơ sở mang tính quyết định của các giá trị nhân đạo đó là kinh tế. Cơ sở kinh
tế quyết định tính chất và nội dung của chế độ chính trị vận hành. Chính điều
đó giải thích cho sự thất bại của chính sách an ninh xã hội mà nhà nước phúc
lợi xã hội chung của các đảng dân chủ đã sử dụng ở thời kỳ đầu. Vì lựa chọn
con đường trung dung nên con đường phát triển của trào lưu xã hội dân chủ
nhiều lúc rơi vào khủng hoảng đường lối và chứa đựng những yếu tố cải
lương về đường lối chính trị. Chính vì vậy, dẫn đến các đảng xã hội dân chủ
rơi vào quá trình tự điều chỉnh và mất đi bản chất giai cấp của mình. Từ đảng


10


giai cấp thành đảng quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến mất định hướng chính trị,
vị trí và vai trị của giai cấp cơng nhân bị xem nhẹ.
“Thỏa hiệp tồn diện theo chủ nghĩa tự do mới đã được thực tiễn chứng
minh khơng phải là lối thốt. Cự tut đổi mới, bất chấp những thay đổi hiện
thực thì chỉ có thể là con đường cụt. Vứt bỏ hoặc lẫn lộn ý tưởng và giá trị cơ
bản của mình, chạy theo hướng “trung dung” thì lại tự phá nhà mình. Nếu
khơng có cách thực hiện sự thống nhất giữa giá trị cơ bản và biến đổi của
mình trong điều kiện lịch sử mới, chỉnh đốn lại đường lối của mình, thì sẽ
khơng có cách nào xây dựng được nền tảng xã hội ổn định, các đảng xã hội
dân chủ sẽ lâm vào tình trạng suy thối lâu dài” .
Có thể nói, “Con đường thứ ba” được hiểu như là một con đường siêu
giai cấp, nó tun truyền điều hịa giai cấp, tuyên truyền một thứ chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng khi cho rằng, kinh tế tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp giảm,
thu nhập tăng thêm thì sẽ làm cho mọi người chấp nhận việc giảm phúc lợi xã
hội, quan điểm cũng sẽ thay đổi; bản thân nhà tư bản sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn, lúc đó họ sẽ đồng ý bỏ ra một ít lợi nhuận nhỏ bé cho mọi người
cùng hưởng để đổi lấy lợi nhuận lớn hơn. Thực tế đã chỉ ra, đây chỉ là ảo
tưởng, sự triêt chung của con đường thứ ba. Khi mà trong thế giới hiện thực,
cơ sở của sự phân hóa giai cấp vẫn chưa mất đi, đối kháng giai cấp vẫn còn
tồn tại thì những ý tưởng vẫn cịn nằm trong ý niệm khó có thể thực hiện
được. Như vậy, nếu các Đảng xã hội dân chủ muốn tiếp tục đi theo mơ hình
“Con đường thứ ba” thì trào lưu xã hội dân chủ nói chung và mỗi đảng xã hội
dân chủ nói riêng, phải tiến hành đổi mới hơn nữa đường lối chiến lược, sách
lược của mình.
Tóm lại, nghiên cứu mơ hình phát triển của “Con đường thứ ba” có thể
nhận thấy một số kinh nghiệm nên xem xét nghiên cứu trong q trình xây
dựng lý thuyết và mơ hình phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa nói chung

và Việt nam nói riêng:
11


Một là, các nước theo “Con đường thứ ba” đều thực hiện chế độ đa
nguyên chính trị, song thực chất vẫn nhất nguyên chính trị. Trong Cương lĩnh
xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21”, các nhà lãnh đạo cánh tả ở châu Mỹ
Latinh đã đề ra nhiều quyết sách quan trọng, trong đó xác định “Thành lập
một chính đảng tiền phong “rộng lớn nhất, dân chủ nhất và cách mạng nhất”
để lãnh đạo đất nước. Một minh chứng, đó là sự ra đời của Đảng Xã hội chủ
nghĩa Thống nhất Venezuela, do Tổng thống Hugo Chavez làm Chủ tịch, là
một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn lao”. Từ đó khẳng định, vấn đề quan trọng
là Đảng cầm quyền phải có tầm cao trí tuệ, biết lắng nghe các ý kiến của các
đảng đối lập và quần chúng nhân dân, nhất là những người lao động để xác
định chủ trương, đường lối, chính sách phát triển sát với thực tế, phù hợp với
những biến đổi của tình hình trong nước và thế giới.
Hai là, Trong nghiên cứu về quan hệ giữa thị trường và xã hội của trào
lưu xã hội dân chủ đã chứng minh rằng thị trường ln ln gắn với thực
trạng văn hóa, xã hội và chính trị của xã hội đương thời, nhà nước và thị
trường phải gắn bó chặt chẽ với nhau mới có thể thực hiện một nền sản xuất
xã hơi một cách tốt nhất. Trước đây cịn có những ý kiến khác nhau về cần
hay khơng cần vai trị điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Nhưng từ đầu thế kỷ XX giữa các quan điểm chính trị cơ bản lớn của nền dân
chủ hiện đại, không cịn bất cứ sự hồi nghi nào về tính tất yếu của sự “dung
hợp” giữa xã hội và thị trường trong đó có sự điều tiết của nhà nước. Vấn đề
đặt ra cần nghiên cứu làm rõ là các công cụ và cơ chế điều tiết như thế nào
cho phù hợp với lịch sử, văn hóa, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội, trong mơ
hình phát triển xã hội của mỗi quốc gia dân tộc.
Ba là, trong thời đại tồn cầu hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế là một
nội dung quan trọng của các mơ hình phát triển xã hội và chỉ như vậy mới

đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mơ hình trong điều kiện thế giới đang
có nhiều thay đổi.
12


Điều cần khẳng định là lịch sử đã chứng minh mọi mơ hình phát triển
của xã hội đều phải được bổ sung hồn thiện cả về chính sách và hình thức tổ
chức cho phù hợp với sự thay đổi và phát triển của bối cảnh trong nước và
quốc tế. Đồng thời, việc kế thừa, vận dụng, tham khảo những kết quả nghiên
cứu lý luận chính trị quốc tế nói chung và trào lưu xã hội dân chủ nói riêng
địi hỏi phải đứng vững trên lập trường, quan điểm và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải có tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo, và đặc biệt là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và lộ trình, bước đi
phù hợp.
Bốn là, bên cạnh việc chủ động tham khảo những giá trị tích cực
của trào lưu xã hội dân chủ, chúng ta cũng cần chủ động phòng ngừa những
tác động xấu của việc lợi dụng trào lưu xã hội dân chủ nhằm làm lệch hướng
hoặc làm biến tướng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Chúng
ta cần phải tỉnh táo để tách bạch những tác động xấu của bản thân quan điểm
của trào lưu xã hội dân chủ với tư cách là một lý thuyết chính trị và với việc
trào lưu xã hội dân chủ bị lợi dụng để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

13


CHƯƠNG 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI SỰ VẬN DỤNG,
PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ.
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và phát triển chủ

nghĩa xã hội khoa học:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện cũng đã vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học, những bài học kinh nghiệm của các đảng anh em, của chính bản thân
cách mạng Việt Nam vào hồn cảnh cụ thể của đất nước. Những đóng góp, bổ
sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể tóm tắt trên một số vấn đề cơ
bản sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật của
cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại hiện nay;
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế vói đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, đảm
bảo giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để
đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội;
+ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội. Đây được xem như một nội dung cơ bản, thể hiện sự ưu việt của xã
hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đơi với giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;

14


+ Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn
giáo, mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội
rộng lớn và thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;
+ Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại;
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu
then chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là phải coi trọng
công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Về mặt lý luận:
Trong tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp như: sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của
chủ nghĩa xã hội thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, khơng ít người nghi
ngờ hoặc phủ nhận vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học đối với cải tạo thực
tiễn; vì vậy, việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học có ý nghĩa lý luận to
lớn là:
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những nhận thức chính trị - xã hội
cho Đảng Cộng sản, Nhà nước, cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong quá trình bảo vệ và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Học
thuyết Mác khơng dừng lại ở chỗ giải thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế

15


giới. Học thuyết về cải tạo thế giới mà chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện rõ và
trực tiếp nhất là chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống các học thuyết phản động, phỉ mácxít.
- Về mặt thực tiễn:
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những cơ sở lý luận và phương
pháp luận của nhiều khoa học xã hội chuyên ngành, đồng thời là cơ sở lý luận

giúp cho các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế xác định con đường đi,
định hướng hành động đúng đắn cho đường lối chiến lược, sách lược, chính
sách phù hợp vói quy luật phát triển khách quan. Do đó, muốn xây dựng
thành cơng chủ nghĩa xã hội phải vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và phát triển chủ
nghĩa xã hội dân chủ
Trong bối cảnh các lý thuyết đương đại ra đời ngày càng nhiều, chúng
ta cũng phải chủ động phòng ngừa sự lợi dụng của các thế lực thù địch
khuếch trương những giá trị không cơ bản của trào lưu xã hội dân chủ nhằm
làm lung lay niềm tin của nhân dân ta vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các thế lực thù địch sẽ kêu gọi chuyển hóa Đảng Cơng sản từ Đảng giai cấp
thành đảng quốc gia. Một lần nữa khẳng định lại rằng, mặc dù Đảng ta là đại
diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của tồn dân
tộc nhưng trước tiên Đảng ta là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Đảng
ta mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Nếu không làm rõ được điều này
mà rơi vào luận điệu trung dung, hòa hợp giai cấp thì Đảng ta sẽ rơi vào tự
diễn biến và nhạt nhịa giai cấp. Từ đó dẫn đến mất bản chất giai cấp của
Đảng, khủng hoảng về lập trường chính trị và hậu quả chính là lệch hướng xã
16


hội chủ nghĩa ở nước ta. Hậu quả tất yếu là Đảng mất vai trò lãnh đạo, đất
nước mất ổn định. Để làm được điều này thì chúng ta cần chỉ ra đúng bản
chất, đánh giá khách quan về trào lưu xã hội dân chủ, Đảng cần quyết tâm đổi
mới, giữ vững bản chất, kiên định lập trường, mục tiêu cách mạng. Bên cạnh
đó chủ động tham khảo sách lược, chia sẽ kinh nghiệm cầm quyền, khoa
học lãnh đạo của các đảng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.

17



KẾT LUẬN
Như vậy, việc nghiên cứu quan điểm lý luận, chiến lược,con đường
phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội dân chủ là hết
sức quan trọng, từ đó có được sự đánh giá về thực chất của phong trào này
trong giai đoạn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, vì
nó liên quan chặt chẽ tới việc nghiên cứu lý luận về thế giới hiện đại; về
những thay đổi lớn, xu thế và động thái của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đồng
thời, chính những vấn đề đó lại có ý nghĩa tham khảo trực tiếp cho việc
nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, làm định hướng cho sự phát triển bền vững của đất nước trong những năm
tiếp theo. Cùng với đó, việc nhận diện đúng bản chất để chỉ ra được những giá
trị và hạn chế của các trào là việc làm rất cần thiết đối với công tác tư tưởng
lý luận ở nước ta, nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân
dân đề cao cảnh giác cách mạng, tạo sức đề kháng trong nhận thức tư tưởng.
Làm tốt điều đó sẽ đóng góp thiết thực vào việc thực hiện tốt một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.

18



×