Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận chính trị học phát triển - Sự phát triển của các hệ tư tưởng trên thế giới và vai trò với sự phát triển xã hội 1docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.51 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC PHÁT TRIỂN
Đề tài:
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HỆ TƯ TƯỞNG VÀ VAI TRÒ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM


MỞ ĐẦU

Trước hết cần phải khẳng định rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm
tinh thần của con người, ln tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu
cầu nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư tưởng
là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người
hồn tồn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo hơn mọi
thứ sản phẩm công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác
với nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận
thức, được thừa nhận và bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ
của nhận thức, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của
tư duy lẫn những hành vi bản năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các
cá nhân cụ thể và có vai trị định hướng hành động. Do đó, nhận thức về tư
tưởng phải linh hoạt chứ khơng thể coi nó là những giá trị bất biến.
Nếu tư tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là hệ thống các
công cụ ấy. Hệ tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của cộng đồng, thậm
chí nó cũng khơng phải là sản phẩm riêng của thời đại, nó là sự tổng hòa
những kinh nghiệm sống của nhiều cộng đồng người và của nhiều thời đại.
Trải qua chiều dài thời gian, lịch sử thế giới đã ghi nhận sự xuất hiện
của các hệ tư tưởng như: hệ tư tưởng chủ nô, hệ tư tưởng phong kiến, tư sản,
tiểu tư sản và vơ sản. Để làm rõ nội dung và vai trị của các hệ tư tưởng này ở
Việt Nam tác giả lựa chọn đề tài “Sự phát triển của các hệ tư tưởng và vai trò
đối với sự phát triển xã hội Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học.




NỘI DUNG

1.

Khái niệm về hệ tư tưởng
Trong cuốn Nguyên lý Triết học Mác-Lênin có định nghĩa như sau: “Hệ
tư tưởng là hệ thống những quan điểm, quan niệm phản ánh trực tiếp hay gián
tiếp những đặc điểm kinh tế xã hội của một xã hội, thể hiện địa vị, lợi ích và
mục đích của những giai cấp xã hội nhất định và nhằm duy trì hoặc biến đổi
chế độ xã hội hiện tồn” .
V. Ivanơp có một định nghĩa tương tự: “Hệ tư tưởng là hệ thống những
quan điểm, quan niệm, lý luận thuộc ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội,
những quan hệ và hiện tượng xã hội, thể hiện lợi ích của một giai cấp này hay
giai cấp khác, là kim chỉ nam cho hành động của giai cấp và đảng của nó ” .
Cịn A.K. Ulêđôp, trong tác phẩm “Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng ” thì “Hệ tư
tưởng với tính cách là một lĩnh vực của ý thức xã hội, có thể được xác định
như là ý thức lý luận về hiện thực thơng qua lăng kính của lợi ích giai cấp và
tự ý thức giai cấp”
Theo đó, một định nghĩa đầy đủ về hệ tư tưởng phải bao hàm được
những nội dung cơ bản như sau: - Hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm,
quan niệm...( về chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo ). (Cần lưu
ý, các hệ thống khoa học không nằm trong những hệ tư tưởng). - Nó thuộc ý
thức xã hội (chứ khơng phải ý thức cá nhân). - Nó thuộc cấp độ ý thức lý luận
(chứ không phải ý thức thông thường). - Nó có tính đảng, tính giai cấp. - Nó
có chức năng là kim chỉ nam cho hành động của
Nhưng trước hết phải khẳng rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm tinh
thần của con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu
nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư tưởng là

một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con người hoàn


tồn có quyền tự hào, thứ sản phẩm cịn cao hơn và tinh xảo hơn mọi thứ sản
phẩm công nghiệp hay cơng nghệ tinh xảo nhất.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác
với nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận
thức, được thừa nhận và bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ
của nhận thức, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của
tư duy lẫn những hành vi bản năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các
cá nhân cụ thể và có vai trị định hướng hành động. Do đó, nhận thức về tư
tưởng phải linh hoạt chứ khơng thể coi nó là những giá trị bất biến.
Nếu tư tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là hệ thống các
cơng cụ ấy. Hệ tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của cộng đồng, thậm
chí nó cũng khơng phải là sản phẩm riêng của thời đại, nó là sự tổng hịa
những kinh nghiệm sống của nhiều cộng đồng người và của nhiều thời đại.
Việc phổ biến rộng rãi một hệ tư tưởng nào đó bao giờ cũng nhằm
hướng dẫn hành vi của cả cộng đồng, góp phần tập trung một cách cao độ và
nhất thời các nguồn lực của cộng đồng ấy vì những mục tiêu nhất định, lại
những thời điểm nhất định. Tuy nhiên, sử dụng hệ tư tưởng như một cơng cụ
nhận thức tồn dân là một nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng hết sức nguy
hiểm, nhất là khi việc sử dụng như vậy xảy ra trong thời gian dài. Bởi lẽ, nó
có thể đẩy cộng đồng ấy rơi vào tình trạng thụ động, thậm chí là phản động.
Trong thế kỷ XX chúng ta đã mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng. Sai
lầm thứ nhất là tách hệ tư tưởng ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một thứ
để tôn thờ. Tôn thờ những giá trị tinh thần thì đúng, nhưng tơn thờ những giá
trị cụ thể của tinh thần thì lại hồn tồn sai. Tư tưởng khơng phải là thứ để tơn
thờ mà nó được sinh ra nhằm phục vụ sự phát triển. Do đó, khi tư tưởng
khơng cịn thích hợp hay đã trở nên lạc hậu thì chúng ta chỉ nên nhìn nhận nó
như một giá trị lịch sử với những công lao thuộc về thời quá khứ mà thôi. Sai



lầm thứ hai là tách các giá trị biểu kiến của sự vật ra khỏi giá trị vật lý của nó.
Thị trường chứng khốn là một ví dụ điển hình. Thị trường chứng khoán tạo
ra một hệ thống các giá trị ảo bên ngồi năng lực thật của nó. Trong lĩnh vực
tư tưởng cũng vậy. Những thế lực ở thượng tầng kiến trúc đang tôn thờ một
giá trị, trong khi cuộc sống đã và đang đòi hỏi con người phải tìm kiếm những
giá trị khác.
2.Sự phát triên của các hệ tư tưởng trên thế giới và vai trò đối với
sự phát triển xã hội ở Việt Nam
2.1.Hệ tư tưởng chủ nô
Trong hệ tư tưởng chủ nô, giai cấp chủ nô là giai cấp thống trị mặc dù
chỉ là thiểu số trong xã hội nhưng nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội và
cả bản thân người lao động là nô lệ. Giai cấp nô lệ mặc dù chiếm đại đa số
trong xã hội nhưng do khơng có tư liệu sản xuất trong tay và không làm chủ
ngay cả chính bản thân mình nên họ hồn tồn phụ thuộc vào giai cấp chủ nô
cả về thể xác và tinh thần.
Nô lệ không được coi là người mà chỉ là “cơng cụ biết nói” của chủ nơ,
chủ nơ có tồn quyền đối với nơ lệ với vai trị là một chủ sở hữu đích thực, họ
có thể bán nơ lệ, cho, tặng nô lệ... nô lệ thực chất chỉ là một thứ tài sản của
chủ nô. Bên cạnh hai giai cấp chính là chủ nơ và nơ lệ, xã hội chiếm hữu nơ lệ
cịn những giai cấp và tầng lớp xã hội khác như: nông dân tư hữu, những
người thợ thủ công, những người buôn bán...Những người này về thân phận
địa vị của họ trong xã hội không thấp kém như nô lệ nhưng so với giai cấp
chủ nô họ có địa vị rất thấp và cũng chịu sự chi phối của giai cấp chủ nô.
Hệ tư tưởng chủ nô được thể hiện chủ yếu qua luật pháp. Cụ thể:
Pháp luật (hiểu theo nghĩa hẹp là những Bộ luật thành văn) thường ra
đời muộn hơn nhiều thời điểm xuất hiện nhà nước. Theo học thuyết Mác Lênin, thời kỳ nào và ở đâu thì pháp luật về cơ bản cũng thể hiện và bảo vệ



lợi ích trước hết của giai cấp thống trị và thời cổ đại cũng không phải ngoại
lệ. Thời kỳ này bản chất pháp luật là pháp luật chủ nơ có mục đích thiết lập
một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp chủ nơ. Ngồi tính giai cấp, pháp luật
chủ nơ cũng có vai trị xã hội quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ
kinh tế - xã hội. Tính xã hội của nhà nước cũng như pháp luật ở Phương
Đơng trong một chừng mực nhất định cịn có trước và tỏ ra trội vượt hơn cả
tính giai cấp. Ví dụ: Ở phần mở đầu của Bộ luật, Hammurabi tun bố: “Vì
hạnh phúc của lồi người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm –
Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa,
diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không
hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát sai xuống dân đen,
tỏa ánh sáng khắp muôn dân.” Hoặc ở phần kết của Bộ luật, Hammurabi
khẳng định lại mục đích của Bộ luật: “Để cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ yếu;
để cho những người cơ quả có thể nương tựa ở thành Babilon…; để cho sự
tuyên án trong nước tiện việc quyết định; để cho những kẻ thiệt thịi được
trình bày lẽ phải…Nếu kẻ nào thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ được các
thần phù hộ, trái lại nếu người nào không nghiêm chỉnh thi hành hoặc sửa
đổi bộ luật thì sẽ bị thần linh trừng phạt”
- Bảo vệ chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nơ lệ,
hợp pháp hóa các hình thức bóc lột của chủ nơ đối với nơ lệ.
Pháp luật ghi nhận và bảo vệ chặt chẽ quyền tư hữu của chủ nô đối với
tư liệu sản xuất được thể hiện trong Bộ Luật Hammurabi, Luật 12 Bảng ở La
Mã sơ kỳ nền cộng hòa, Bộ pháp điển Corpus iuris Civilis của Hoàng đế
Justinian. Cụ thể pháp luật nhiều nước thời kỳ này cho phép tra tấn, giam cầm
con nợ để yêu cầu trả nợ. Các hành vi mua bán, chuyển nhượng tài sản của
chủ tư hữu cũng được pháp luật nhiều nước quy định chặt chẽ nhằm tránh sự
lừa dối, gian lận làm phương hại đến quyền tư hữu (Ví dụ: Điều 2 Bảng
III Luật 12 Bảng qui định: „Người chủ nợ có thể cầm tay con nợ và đưa con



nợ đến Tịa. Nếu con nợ khơng trả được nợ theo phán quyết của Tịa và cũng
khơng có ai bảo lãnh cho anh ta, chủ nợ có thể tống giam con nợ"). Đồng thời
pháp luật chủ nô cũng công khai tun bố tình trạng vơ quyền của nơ lệ và
thừa nhận nhiều hình thức bóc lột, hình thức tra tấn tàn nhẫn của chủ nô đối
với nô lệ (Điều 3 Bảng III Luật 12 Bảng quy định: "Đến ngày phiên chợ thứ
ba, các chủ nợ có thể tùng xẻo con nợ không trả được nợ. Nếu xử quá mức,
họ cũng khơng bị tội"
- Ghi nhận tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã hội. Pháp luật cho
phép những chủ nô giàu có thuộc các đẳng cấp cao trong xã hội có những đặc
quyền về kinh tế và chính trị. Ví dụ: Điều 1 Bảng X Luật 12 Bảng qui định
cấm kết hơn giữa q tộc và bình dân: "Cấm kết hơn giữa người bình dân và
q tộc”
- Ghi nhận và bảo vệ chế độ gia trưởng.
Pháp luật của nhiều nhà nước thời kỳ này ghi nhận quyền tuyệt đối của
người gia trưởng đối với tài sản trong gia đình và địa vị chi phối của người
gia trưởng đối với các thành viên khác của gia đình. Thí dụ, ở Bộ luật
Hammurabi nếu khơng có con, người chồng có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc
lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình
của vợ ném xuống sơng. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có
quyền ly dị mà thôi. Điều 129 qui định : "Nếu vợ của dân tự do ngủ với người
đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống
sơng"
- Hình phạt mang nặng tính trừng trị, ít chứa đựng tính chất giáo dục
và cảm hóa.
Pháp luật thời kỳ này hình sự hóa hầu hết các vi phạm, kể cả các vi
phạm trong quan hệ dân sự. Các qui phạm pháp luật đặc biệt là ở Phương
Đông thời kỳ cổ đại thường mang tính hàm hỗn (hầu hết các điều luật đều
kèm theo chế tài). Hình phạt được áp dụng phổ biến nhất là tử hình bằng rất



nhiều hình thức khác nhau như: ném đá cho đến chết, buộc đá ném xuống
sông, ném người vào vạc dầu, chặt người ra thành nhiều mảnh, thiêu chết,
chôn sống, treo cổ...Các hình phạt dã man khác cũng được áp dụng cho các
hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hơn như: chọc mù mắt, khắc chữ vào mặt,
chặt chân tay, cắt lưỡi, bắt đi trên than hồng... Pháp luật chủ nô cịn cho phép
tra tấn nhục hình phạm nhân, cho phép trả thù ngang bằng (Ví dụ: Điều 2
Bảng VIII Luật 12 bảng: "Nếu ai gây thương tích làm tàn tật người khác và
khơng bồi thường, thì việc trả thù ngang bằnglà hợp pháp"). Trong nhiều
trường hợp, pháp luật chủ nô cho phép giết cả những người không liên quan
đến hành vi phạm tội. (Ví dụ: Điều 38 Bộ luật Hammurabi qui định: " Nếu
thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị
giết." hoặc Điều 39 Bộ luật Hammurabi: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà
chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo")
- Nguồn luật, phạm vi điều chỉnh, mức độ điều chỉnh của pháp luật.
Hình thức biểu hiện của pháp luật chủ nô rất đa dạng, bao gồm: Tập quán
pháp, Tiền lệ pháp và văn bản pháp luật. Nhiều nhà nước chủ nô đã xây dựng
được những bộ luật lớn. Điển hình như: Bộ luật Hammurabi của nhà nước
chủ nô Babilon (thế kỉ XVIII TCN); Bộ luật Đôracông của nhà nước chủ nô
Hy lạp (thế kỉ VII TCN); Bộ luật 12 bảng của nhà nước chủ nô La Mã (thế kỉ
V TCN); Bộ luật Pháp Kinh của nước Hàn - một quốc gia cát cứ ở Trung
Quốc (thế kỉ V TCN); Luật Manu của nhà nước chủ nô Ấn độ (thế kỉ I TCN);
Bộ pháp điển Luật La Mã của Hoàng Đế Justinian ở hậu kỳ nền Cộng hòa
Corpus Iuris Civilis... Các bộ luật cổ thường được chia thành nhóm các điều
khoản có nội dung khác nhau.Phạm vi điều chỉnh của các Bộ luật trên tương
đối rộng, điều chỉnh hầu hết mọi quan hệ xã hội từ các vấn đề tội phạm, hình
phạt, tố tụng đến các quan hệ về hợp đồng, hơn nhân gia đình, thừa kế, sở
hữu, hợp đồng, mai táng... mức độ điều chỉnh của luật, thông thường người ta
phân biệt thành hai mức độ điều chỉnh pháp luật: cụ thể – chi tiết và khái quát



hoá. Các Bộ luật cổ về cơ bản áp dụng mức độ điều chỉnh cụ thể, chi tiết. Tuy
nhiên trong các Bộ luật cổ cũng có nhiều qui định điều chỉnh ở mức độ khái
qt hóa điển hình là các qui định về dân sự ở Luật La Mã
Trong khoảng một thế kỷ, xã hội Việt Nam vận động trong một bối
cảnh tư tưởng đầy biến động, sự phân hóa của các hệ tư tưởng, tác động qua
lại giữa các khuynh hướng, sự du nhập của những trào lưu mới... Bấy nhiêu
biến cố phức tạp ấy diễn ra chỉ trong khoảng từ cuối thế kỷ XIX đến giũa thế
kỷ XX tạo thành cái nền của đời sống văn hóa - xã hại thời bấy giờ. Những
cái mà trong quy luật vận động tư tưởng của lịch sử nhân loại, bình thường
diễn ra trong hàng mấy thế kỷ thì nước ta lại bị dồn ép vào trong khoảng thời
gian ngắn. Điều đó tạo nên một thời đại chuyển tiếp đặc biệt của lịch sử văn
hóa Việt Nam mà chúng ta cần nghiên cữu kỹ để thấy hết các đặc điểm. Chính
những đặc điểm này sẽ giúp chúng ta có những đường hướng đúng đắn trong
sự nghiệp xây dựng nền văn hóa ngày nay.
Rõ ràng là bối cảnh tư tưởng phức tạp ấy khơng phải ngẫu nhiên mà có.
Nó hình thành và phát triển trên cơ sở một bối cảnh giai cấp xã hội nhất định.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX dựa trên một kết
cấu giai cấp phức tạp.
Ngoài các của xã hội phong kiến như giai cấp địa chủ, quan lại, qúy tộc
phong kiến từng thống trị xã hội trong mấy nghìn năm và giai cấp nơng dân
đơng đảo thì từ sau khi đế quốc Pháp đặt nền đô hộ lên nước ta, nhiều giai cấp
mới bắt dầu hình thành và phát triển: giai cấp tư sản gồm tư sản mại bản và tư
sản dân tộc, giai cấp vô sản, giai cấp tiểu tư sản trung lưu gồm các tầng lớp tri
thức, công chức, tiểu thương… Ngồi ra khơng thể khơng nhắc đến các tầng
lớp tăng lữ gồm có các sư sãi, các linh mục hành nghề tôn giáo. Các giai cấp
xã hội trên đây đều có liên quan mật thiết đến đời sống văn hóa và thường là
động lực của những khuynh hướng văn hóa khác nhau. Ngay trong các tầng


lớp tôn giáo mà sau này chúng ta sẽ phân tích, cũng có những đời sống văn

hóa khác nhau.
2.2.Hệ tư tưởng phong kiến
Cũng như ở nhiều nước khác, giai cấp phong kiến Việt Nam là giai cấp
đã giữ vai trò thống trị xã hội hàng bao nhiêu thế kỷ. Hệ tư tưởng chính thống
của nó là Nho giáo, du nhập từ Trung Quốc sang, cùng với lực lượng xâm
lược từ phương Bắc tới. Tuy là một học thuyết triết học - chính trị nhưng nó
được xem như một thứ tơn giáo và mang cái tên là Nho giáo. Người sáng tạo
ra học thuyết ấy là Khổng Phu Tử cho nên cịn có tên là Khổng Giáo. Ở Trung
Quốc, Khổng Giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử và sau khi
Khổng Tử mất thì đã chia ra nhiều khuynh hướng khác nhau. Nho giáo là tư
tưởng chính thống của phong kiến Trung Quốc trong nhiều thế kỷ.
Khổng Tử (551 - 479 trước TCGS) không hề thực hiện được lý tưởng
của mình lúc sinh thời, mà mãi đến đời nhà Hán, Nho giáo mới được suy tôn
(206 trước CN - 220 sau CN). Đến đời Đường, Phật giáo lại chiếm ưu thế
nhưng sang đời Tống (960-1279 sau CN) thì Nho giáo giành lại được ưu thế
tuyệt đối (phương Tây gọi là tân Nho giáo, ta gọi là Tống Nho). Hán nho và
Tống nho là hai tư trào có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến xã hội Việt Nam.
Nội dung học thuyết Nho giáo chứa đựng trong mấy bộ Tứ Thư, Ngũ
Kinh. Tứ thư được xem như một thứ kinh thánh của Thiên chúa giáo, nhưng
thật ra khác với Kinh Thánh, Tứ Thư khơng hề nói đến sự sáng tạo ra vạn vật,
khơng nói gì đến Thiên đường hay Địa ngục. Khổng Giáo vốn ban đầu là một
triết thuyết khá thực tiễn. Như đã nói ở chương trên, ngày thuyết Thiên mệnh
của Khổng Tử, cũng không phải là thuyết định mệnh và dẫn con người đến
buông tay đầu hàng.
Đến giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, hệ tư tưởng phong kiến cùng suy vi
cực độ. Lịch sử Việt Nam được đánh dấu bằng những biến cố lớn. Đây là


cuộc thử thách bi đát của chế độ phong kiến Việt Nam trên bước đường tan rã
trước sức tiến công của chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Nới cho đúng, chế độ

phong kiến Việt Nam không phải lúc này mới bắt đầu lung lay. Những chủ
trương chính sách phản động của triều Nguyễn áp dụng từ những năm đầu thế
kỷ XIX đã dẫn đến sự mục nát không tránh khỏi. Nổi bật là tình trạng trì trệ
lạc hậu về mọi mặt của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Trong lúc trình độ khoa
học kỹ thuật của nhiều nước trên thế giới đã khá cao, sự giao lưu văn hóa và
thương mại đã phát triển thì giai cấp phong kiến Việt Nam vẫn một mực theo
chính sách bế quan tỏa cảng. Càng ngày nền kinh tế càng lâm vào tình trạng
lụi bại, bế tắc. Nhà nước phong kiến chịu bó tay bất lực. Hạn hán, bão lụt, vỡ
đê xẩy ra thường xuyên, nhà vua chỉ biết lập đàn, ăn chay, cầu mưa. Đời Tự
Đức, con đê Văn Giang (Hải Hưng) bị vỡ mười tám năm liền. Theo Thực lục
chính biên, vào khoảng năm Tự Đức thứ 10/11, trong lúc giặc ngoại xâm đang
hoành hành ở miền Nam, số người trong nước chết vì bệnh thiên thời lên đến
60 vạn. Dân lưu vong bỏ làng kéo đi từng đoàn năm, bảy trăm người, có khi
vài ba nghìn người. Với chính sách trọng nông, ức thương, chẳng nhũng
thương nghiệp bị ức chế mà cả nông nghiệp và công nghiệp cũng không phát
triển được. Luật pháp nghiêm cấm nhân dân không được làm nhà cao cửa
rộng, khơng được mặc tơ lụa, nhiễu vóc...
Minh Mệnh ghi rõ những điều đó trong một điều luật mà ông ta cho
diễn ra về quốc ngữ, bắt nhân dân phải học thuộc. Chẳng hạn:"Dân phường
nhà giáp đường quan,Không được làm gác trông ngang ra đường".…Khi
quan trẩy, lệnh quan ban,Nhà hai bên phố buông ngày cánh rèm.…Nhà gỗ
chỉ đế trơn khơng,Cấm khơng được chạm trổ bơng hoa hịe.… Khoa danh khi
có chút rồi,Tú, cử mới được hẳn hoi đi giày”!...
Đời sống văn hóa hết sức lạc hậu. Vua và triều đình chỉ biết có Tứ thư
Ngũ kinh, cho rằng bất luận vấn đề lớn nhỏ nào cũng đều được giải đáp trong
ấy. Khai quật các mỏ vàng, bạc thì cho lập đàn cầu đỏ cho khí kim loại bốn


phương tụ về. Một hệ thống nhận thức tối tăm, lặc hậu bao trùm và chi phối
mọi mặt đời sống vật chất và văn hóa. Tự Đức đã biết đặt ra những vấn đề lớn

lao và cấp thiết như: phá đê hay đắp đê, mở cửa cho nước ngoài vào thông
thương hay cứ bế quan, cho giảng đạo Thiên chúa hay nghiêm cấm, cử người
đi học nước ngoài hay cứ theo lối học cổ truyền. Tự Đức chẳng những bàn
bạn với triều đình mà cỏn hỏi ý kiến các tầng lớp sĩ phu nhưng không mang
lại một đáp số nào tích cực.
Phải nói rằng trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, trong hệ tư tưởng Nho
giáo chính thống của triều Nguyễn, có sự rạn nứt nghiêm trọng. Một bên là
khuynh hướng bảo thủ, một bên là khuynh hướng cải cách. Khuynh hướng
bảo thủ là khuynh hướng chính thống của nhà vua và của một số quan lại cao
cấp trong triều đình. Họ kiên quyết bác bỏ và lên án mọi sự "đổi mới”. Một
bộ phận trí thức, quan lại sau khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, đã để
cao xu hướng cải cách, mở cửa (tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ). Mâu thuẫn
nảy trong hệ tư tưởng chính thống có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là
nền tảng của chính sách “mở cửa", hoặc "đóng cửa" trong mấy thế kỷ qua và
mãi cho đến gần đây, bi kịch đau xót ấy mới được giải quyết về cơ bản đối
với nhiều dân tộc phương Đơng. Và chính chính sách "đóng cửa" đã làm cho
Việt Nam bị mất nước.
Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì trong hệ tư tưởng
phong kiến lại nẩy sinh những mâu thuẫn mới, gay gắt bơn. Một bên là xu
hướng tư tưởng đầu hàng, một bên là xu hướng tư tưởng chiến đấu giữ nước.
Xu hướng tư tưởng đầu hàng cũng có nhiều cấp độ khác nhau, từ tư tưởng bán
nước cầu vinh đến tư tưởng tự cảm thấy bất lực, đớn hèn, đành chịu khoanh
tay không hợp tác với giặc. Cũng có loại tư tưởng "tiêu cực", đầu hàng nhưng
khơng khuất phục, lấy cái chết để nói lên lòng yêu nước, căm thù giặc...
Những người đứng đầu triều đình như Trương Đăng Quế, Phan Thanh
Giản, Trần Tiến Thành, Nguyễn Bá Nghị, Đoàn Thọ... đều chủ trương "nghị


hòa" tức là đầu hàng. Họ lập luận: "... từ xưa nhà Hán chẳng đã từ hịa với
Hung nơ đó hay sao? Nhà Tống chẳng đã tự hòa với Khiết Đan đó hay sao?”.

Cũng có những lặp luận ngớ ngẩn để bênh vực cho tư tưởng đầu hàng. Họ nói
rằng Pháp với ta không cùng biên giới, cách xa nhau mn dặm, làm thế nào
thơn tính lẫn nhau được? Hình bộ Thượng thư cơ mật viện đại thẩn Nguyễn
Bá Nghi giải thích lý do Pháp đánh ta là vì "lâu nay ta lạnh nhạt với họ, họ bị
các nước làng giềng chê cười nên buộc lòng họ phải đánh. Họ đem qn đánh
ta là để cho được hịa?".
Thậm chí khi qn Pháp địi ta nộp Trấn Bình Đài (tục gọi là đồn Mang
Cá ở Huế) thì Nguyễn Văn Tường lập luận: "Ta là vàng, giặc là đá, vàng nên
nhường đá, chọi nhau thì vàng chỉ có hư hao dần chứ đá chẳng việc gì".
Và thất thủ Kinh đơ có câu:"Cho nó trú ngụ mà chơi,Đơ thành Nam
Việt có mấy đời đem được về Tây?"
Sau khi được phái vào Nam điều chỉnh với Pháp về việc chúng chiếm
Sài Gòn, Mỹ Tho, Nguyễn Bá Nghi gửi sớ về triều đình đề nghị phải giảng
hòa. Sau khi khẳng định sức mạnh của địch, y viết: “... nếu khơng hịa thì
khơng sao ổn định được đại cuộc" (l). Có những phần tử thất bại chủ nghĩa
đứng hẳn về phía giặc, thúc dục Tự Đức xuống chỉ dụ giải tán tất cả các cuộc
khởi nghĩa chống ngoại xâm.
Bên cạnh đó xu hướng tư tưởng tích cực tức là tư tưởng phong kiến yêu
nước, chủ chiến cũng có nhiều khuynh hướng khác nhau. Có khuynh hướng
trung thành với các nguyên tắc phong kiến cũ, có khuynh hướng bắt đầu
hướng về phương Tây.
Vũ Phạm Khải dâng lên Tự Đức bài Hòn Nhung luận (2) kịch liệt lên án
những người chủ hịa. Vũ Phạm Khải nói trong một cuộc họp triều đình: "Phải
trong vịng nguy nan, vạn tử mới làm ra được vạn tồn, chứ tơi chưa nghe ai
nói ngồi bó tay mà có sự vạn tồn". Trong lớp người chủ chiến, cũng có một


số lập luận rất ngây thơ. Họ cho rằng Pháp là loại người khơng có khớp
xương đầu gối, khơng chạy được, ta rải quả mù u ra đường, chúng sẽ đạp lên
mà ngã lăn quay, ta cứ việc xô ra mà giết. Với một trình độ nhận thức thấp

như vậy trách gì mười lăm, hai mươi năm sau, tư tưởng ưu việt của Nguyễn
Trường Tộ, Ngô Đức Hậu, Nguyễn Lộ Trạch... lại không trở thành tiếng kêu
tuyệt vọng giữa bãi sa mạc!
Phong kiến thống trị Việt Nam đã yếu đuối lại không dám dựa vào lực
lượng nhân dân nên đã thất bại thảm hại. Sau này có gượng dậy được thì cũng
do thực dân xâm lược đỡ lấy cái xác mềm nhũn vì một mục đích chính trị
thâm độc.
Khuynh hướng tư tưởng tích cực cũng chưa thốt ra khỏi hệ tư tưởng
phong kiến. Đánh giặc xong thì đất sẽ trở lại là đất của vua" (Vương Thơ). Đó
là một ý quan trọng trong bài Hịch văn thân chống Pháp. Chính vì vậy mà
những nhà kháng chiến hết sức dũng cảm như Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn
Hành, Lê Ninh, Đinh Văn Chất, Vương Thúc Mận, cả những Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám... cuối cùng cũng đều thất bại.
Rõ ràng là biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỷ XIX đã làm phân hóa
hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam. Có người trở thành lãnh tụ nghĩa quân hy
sinh ngoài chiến trường hoặc bị tử hình, có người thì rút ra từ học thuyết
Khổng Mạnh hai chữ "tùy thời" để bào chữa cho việc bán nước, cầu vinh,
người có lương tâm hơn thì đành mai danh ẩn tích. Những tiêu chuẩn của tư
tưởng phong kiến tưởng như nghìn đời khơng thay đổi, đã trở thành lỗi thời.
Tồn quyền Pơn Đu-me ổn định lần cuối quyền thống trị của thực dân Pháp
trên toàn cõi Đông Dương. Tư tưởng hưởng lạc cầu an, làm giàu, đục nước
béo cị, vinh thân phì gia bắt đầu phát triển .
Tóm lại trong thời đại suy vi của chế độ phong kiến, hệ tư tưởng phong
kiến lâm vào tình trạng phân tán thành nhiều khuynh hướng khác nhau, thậm


chí đối lập nhau, tiêu diệt lẫn nhau để cuối cùng đi đến tan rã. Sang đầu thế kỷ
XX, bọn thực dân thống trị ra sức hà hơi tiếp sức cho nó, biến nó thành cơng
cụ đắc lực, hệ tư tưởng phong kiến cũng chỉ còn là một thứ thây ma.
2.3.Hệ tư tưởng tư sản

Phải đến những năm đầu thế kỷ XX, hệ tư tưởng tư sản phương Tây
mới thực sự thâm nhập vào Việt Nam. Đương nhiên đây là hệ quả trực tiếp
của cuộc xâm lược của thực dân Pháp, nhưng đồng thời cũng nằm trong sự
vận động tất yếu của quy luật lịch sử khách quan. Với sự hình thành một xã
hội thuộc địa với một kết cấu giai cấp mới trong đó có giai cấp tư sản, sự du
nhập của hệ tư tưởng tư sản đã gặp mảnh đất thích hợp để phát triển.
Thực ra giai cấp tư sản Việt Nam ra đời quá muộn màng nên trong
chừng mực nào đó, có thể nói rằng tư tưởng tư sản dã vào xã hội
Việt Nam trước khi có giai cấp tư sản. Đó là thời kỳ các sĩ phu yêu nước tiếp
thu các lý tưởng của cách mạng tư sản phương Tây qua các bài viết riêng chữ
Hán của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi… qua các tài liệu về chủ nghĩa tâm
dân của Tôn Trung Sơn. Lúc bây giờ, nhiều cụ đã nói đến Mạnh Đức Tư Cưu
(Montesquieu), Lư Hoa… Bản tuyên ngôn của Việt Nam quang phục hội do
cụ Phan Bộ Châu sáng lập và do cụ Hoàng Trọng Mậu, Tổng thư ký hội viết,
đã kết thúc bằng câu:“Ắt là dân chủ cộng hòa mới xong"
Đương nhiên, đây khơng phải là con đường chính lộ. Con đường chính
là con đường thơng qua hệ thống giáo dục, thi cử, đào tạo theo kiểu Châu Âu
sau khi thực dân Pháp đã xóa bỏ chế độ thi cử theo kiểu cũ. Dần dần từ các
trường Pháp - Việt đã hình thành một đội ngũ trí thức mới. Lịch sử Cách
mạng Pháp 1789, các tác phẩm của thế kỷ Ánh sáng, hoặc được đọc thẳng
bằng tiếng Pháp, hoặc được dịch ra tiếng Việt. Tự do, dân chủ, nhân quyền,
bình đẳng, bác ái... là những khái niệm ngày càng được nhiều người biết đến.


Có lẽ phải đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất, hệ tư tưởng tư sản mới
thực sự chiếm lĩnh vị trí chính thống trong xã hội Việt Nam. Hệ tư tưởng
phong kiến cịn sót lại trong một số quan lại, sĩ phu, tồn tại trong cảnh lép vế,
chợ chiều.
Trước hết phải nói rằng hệ tư tưởng tư sản trước đây, từ khoảng thế kỷ
XVI trở đi là thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu, vốn là một hệ tư tưởng năng

động, tích cực tiến bộ. Nó là nền tư tưởng của thời đại ánh sáng và chỉ đạo
cho nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Châu Âu, tiêu biểu là cuộc Cách mạng
1789 ở Pháp. Hệ tư tưởng tư sản từng là ngọn cờ của giai cấp tư sản và đệ tam
đẳng cấp trong "đêm trường" Trung cổ. Đến thế kỷ XVIII, nó biểu hiện kết
tinh trong các tác phẩm nổi tiếng của Voltaire, Montesquieu. J J.Rousseau,
Diderot và các nhà bách khoa...
Tư tưởng tư sản chống lại chế độ ngu dân, coi rẻ con người của tư
tưởng phong kiến. Chế độ phong kiến là chế độ đề cao tuyệt đối thần quyền,
khinh rẻ nhân quyền, đề cao sự chuyên chế của nhà vua, chống lại mọi quyền
tự do, dân chủ... Khẩu hiệu của Cách mạng 1789 là tự do, bình đẳng, bác ái.
Hành động nhân dân Paris chiếm ngục Bastille được xem như là hành động
tiêu biểu cho sự giải phóng (ngày 14/7/1789). Sau đó bản Tun ngơn nhân
quyền và dân quyền đã có một tiếng vang rộng lớn. Đó là tiếng nói- của nhân
dân (gọi là đệ tam đẳng cấp) do giai cấp tư sản lãnh dạo để chống lại quân
quyền và thầm quyền, cụ thể là chống lại giai cấp quí tộc và giai cấp tăng lữ.
Từ lãnh vực kinh tế - sự ức chế của giai cấp phong kiến đối với công
nghiệp và thương nghiệp - cuộc cách mạng đã đạt tới lãnh vực tư tưởng, chính
trị và văn hóa. Đây là một cuộc cách mạng long trời lở đất, tạo nên một bước
phát triển cực kỳ mạnh mẽ của kinh tế, khoa học, kỹ thuật và dã làm thay đổi
hẳn bộ mặt thế giới. Trước kia vua Louis XIV có câu nói nổi tiếng: "Nhà nước
là ta" (Li Etat, c'est Moi!). Bây giờ Nhà nước do nhân dân bầu lên, chia làm
ba ngành: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đương thời chế độ bầu cử phổ


thông đầu phiếu và chế độ phân quyền (tam quyền phân lập) là những bước
tiến bộ cực kỳ lớn để thủ tiêu sự chuyên chế của nhà vua và quý tộc. Con
người được hưởng mọi quyền tự do, dân chủ, tự do tổ chức, tự do ngôn luận,
tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do bầu cử, ứng cử... Hiến pháp chính thức thừa
nhận quyền con người. Mọi việc đều làm theo pháp luật. Đó là những thành
tựu cụ thể mà cách mạng tư sản, dưới sự lãnh đạo của hệ tư tưởng tư sản đã

đem lại cho nhân dân Châu Âu.
Đương nhiên khơng ai có thể phủ nhận ý nghĩa tiến bộ, cực kỳ to lớn
của hệ tư tưởng tư sản lúc bấy giờ. Tuy vậy, lịch sử là lịch sử. Và trong lịch
sử, mọi sự vật đều vận động. Có nghĩa là khi giai cấp tư sản đã trở thành giai
cấp thống trị thì chẳng mấy chốc, nó khơng cịn như là nó trước kia nữa. Ngay
sau 1789, Napoléon cũng đã từng nhân danh cách mạng tư sản đi giải phóng
các nước phong kiến Châu Âu, để rồi cuối cùng lại lên ngơi Hồng dế. Với
thời gian, hệ tư tưởng tư sản khơng cịn như thuở ban đầu nữa. Văn minh tư
sản bộc lộ những nhược điểm, khiến nhà thơ nổi tiếng Paul Valéry đã phải
thốt ra rằng rồi có lúc nó cũng sẽ bị tiêu diệt.
Như vậy, hệ tư tưởng tư sản phương Tây xâm nhập vào xã hội
Việt Nam và chiếm lĩnh vị trí chính thống trong những điều kiện đặc biệt.
Tư tưởng tư sản phương Tây xâm nhập vào xã hội Việt Nam thơng qua
lăng kính chủ nghĩa thực dân, qua tầng lớp trí thức mới được đào tạo trong
các trường học Pháp - Việt nên ít nhiều bị méo nó. Một đặc điểm nữa cũng
quan trọng là chính quyền thực dân, vì mưu đồ chính trị, lại bảo vệ một số giá
trị lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến phương Đông. Cuộc "hôn nhân khiên
cưỡng" giữa hai loại tư tưởng, vốn đối địch nhau như nước với lửa, đã đẻ ra
nhiều thứ kỳ quái, nhố nhăng. Sự "chung sống" ấy là một nghịch lý. Chính
quyền thực dân khơng thể chấp nhận được các nguyên lý trung quân ái quốc...
và cũng không chấp nhận được các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng… Riêng
Kitô giáo phát triển tương đối mạnh và giành được chỗ đứng hợp pháp.


Đó là những đặc điểm, hồn cảnh du nhập của hệ tư tưởng mới. Đứng
về phía chủ thể tiếp thu hệ tư tưởng mới, cũng có những đặc điểm đáng chú ý.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời quá muộn màng, có thể là 4 - 5 thế kỷ sau, lại
nằm trong tay bà đỡ là chủ nghĩa thực dân, nên đúng như nhiều nhà nghiên
cứu đã nói, nó là loại "tiên thiên bất túc". Nó khơng có đủ sinh lực để tiếp thu
đầy đủ hệ tư tưởng tư sản phương Tây. Đó là chưa nói có một bộ phận dựa

dẫm hẳn vào chủ nghĩa thực dân để phát triển, bộ phận mà chúng ta thường
gọi là tư sản mại bản. Như vậy rõ ràng thế là lực của giai cấp tư sản
Việt Nam rất mỏng manh.
Chính vì vậy mà cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng phong kiến với hệ tư
tưởng tư sản diễn ra khơng có gì là kịch liệt. Trong xu thế lịch sử lúc bấy giờ,
cuối cùng tư tưởng tư sản đã giành được phần thắng nhưng cũng chẳng phải
là giành được ưu thế tuyệt đối. Cuộc đấu tranh kết thúc bằng một sự thỏa
hiệp. Sụ thỏa hiệp ấy biểu hiện rõ rệt trong đời sống văn hóa của thời kỳ giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới. Đó là một thời kỳ hết sức nhố nhăng.
Phong trào "âu hóa" của thị dân, trí thức, phát triển mạnh cùng với các
phong trào "vui vẻ trẻ trung". Người ta tổ chức các cuộc chợ phiên, các cuộc
thi sắc đẹp: đàn ông mặc âu phục, thắt nơ hoặc cà-vạt, phụ nữ mực áo dài kiểu
Lơ-muya, để răng trắng. Đám cưới có xe hoa cho cơ dâu, chú rể hoặc làm lễ ở
Nhà thờ (nếu đương sự theo Kitô giáo). Ở các thành phố lớn có các buổi dạ
hội, các rạp khiêu vũ (tục gọi là nhảy đầm), nhạc cổ điển phương Tây được
nhiều người ưa thích... Phong trào "Âu hóa" có những điều quá trớn làm cho
một số người phản ứng. Nam Xương viết vở hài kịch ông Tây An Nam để chế
diễu cay đắng những kẻ sính nói tiếng Pháp mà coi thường tiếng mẹ đẻ.
Nhưng bên cạnh quanh cảnh "Âu hóa" nhộn nhịp như vậy, vẫn tồn tại
các phong tục tập quán phong kiến lâu đời. Vẫn có những người mặc quần
trắng, áo dài, chít khăn xếp, đi giày Gia Định, vẫn có những bà mặc áo tứ


thân, răng đen hạt huyền. Ngày mồng một và rằm hàng tháng ở các chùa
chiền vẫn có đơng người đến lễ bái. Nhiều đám cưới, đám tang vẫn theo đúng
"quy tắc" lễ nghi Nho giáo. Cái "mới" và cái "cũ" xen kẽ nhau, có khi gầm
ghè nhau nhưng rồi lại dung hòa, thỏa hiệp để cùng tồn tại. Nhiều lắm thì
cũng chỉ là trách nhau:Hơm qua em đi tỉnh về, Hương đồng, có nội bay đi ít
nhiều.(Nguyễn Bính)
Sự đan xen giữa hai hệ tư tưởng, tư sản và phong kiến và hai lối sống

khác biệt nhau, đã tạo nên nhiều cảnh lố bịch, chướng tai gai mặt.
Tuy vậy phải nói rằng, dầu muốn hay không, thế mạnh rõ ràng thuộc về
hệ tư tưởng tư sản. Phan Khôi viết một loạt bài trên báo Thần Chung (Sài Gịn 1930) cơng kích Nho giáo nhưng không một chiến tướng nào đứng ra bảo vệ
nền Khổng học. Nói như Hồi Thanh trong Thi nhân Việt Nam, "Hán học thật
đã đến lúc suy vi lắm". Người ta muốn đi theo Tây học, ít nhất cũng là để dễ
kiếm sống.Ước gì đi học làm thầy Phán Tối rượu sâm banh, sáng sữa bị!
Thậm chí khơng phán, không thông cũng cậu bồi. Làm cậu bồi vẫn còn tốt
chán.
Bên cạnh những cái rởm của "văn minh Âu hóa" chúng ta phải khách
quan thừa nhận là nó đã đưa lại nhiều giá trị mới: quan niệm nhân sinh thay
đổi, cá tính được giải phóng, cuộc sống cá nhân được coi trọng, một số quyền
tự do của con người bắt đầu được chú ý như tự do luyến ái, tự do hôn nhân,
chống lại quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi dấy, chống lại chế độ đại gia
đình, các thứ lễ giáo, tư tưởng gia trưởng… tỏa chiếu sự phát triển tự do của cá
nhân. Tầm mắt của người Việt Nam được mở rộng để nhìn ra thế giới, thấy
người thấy ta, tránh được tình tình trạng lạc hậu của đêm trường Trung cổ (ở
Trung Quốc, một lần chính phủ xây dựng đường sắt, bị nhân dân phản đối, phải
tháo gỡ theo dân vì con đường ấy đè lên xương một con rồng, theo thuyết địa
lý cô). Công cuộc "Âu hóa" - về một số mặt nào đó cần phê phán nghiêm khắc,
thơng qua những hình tượng văn học kiểu như ông Tuphơnơ của Vũ Trọng


Phụng - nhưng khơng phải khơng có những mặt tích cực. Nó là lần mở cửa đầu
tiên của dân tộc Việt Nam ra thế giới văn minh, tai nghe mắt thấy những điều
mà trước đây Nguyễn Trường Tộ mới chỉ kể lại trên mặt giấy. Có những hiện
tượng thoạt đầu bị lên án, có khi khá gay gắt, nhưng với thời gian, đã thích nghi
và trở thành hiện tượng tiên tiến. Một ví dụ nhỏ: hồi đầu, một số ít phụ nữ tân
tiến cạo răng đen, để răng trắng thì bị chế diễu là me Tây, nhưng một thời gian,
răng trắng được xác nhận là văn minh hơn, số người để răng trắng ngày càng
nhiều và trở thành một hiện tượng bình thường.

Chính "Âu hóa" đã làm cho văn học nghệ thuật nước ta, từ sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, bước sang thời kỳ phát triển mới chưa từng có
trong lịch sử, làm cho ngơn ngữ văn học, các thể loại văn học nghệ thuật và
báo chí phát triển khá mạnh. Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam biết đến kịch
nói, tiểu thuyết, phim ảnh, báo chí thơng tấn...
Nói một cách khái quát, tư tưởng tư sản phương Tây có những ảnh
hưởng mạnh mẽ trước tiên đối với các tầng lớp thanh niên trí thức và thị dân,
trước hết là về mặt địi hỏi giải phóng cá nhân khỏi sự tỏa chiết của lễ giáo
phong kiến, giành cho cái "tôi" một chỗ đứng dưới ánh mặt trời, quyền được
hưởng hạnh phúc trong cuộc sống trần tục.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ưu thế rõ ràng thuộc về hệ tư
tưởng tư sản. Nó đã có một hậu thuẫn là các tầng lớp thanh niên, trí thức ngày
càng đông đảo và giai cấp tư sản Việt Nam cũng đã phát triển mạnh mẽ hơn
trước qua công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của đế quốc Pháp.
Nhưng thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến tranh thế giới cũng lại lả một
thời kỳ có những biến động lớn trong đời sống chính trị của cả thế giới và
Việt Nam. Sau khi cách mạng tháng Mười thành công năm 1917, phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc bắt đầu nổ ra ở nhiều nước thuộc địa cửa các đế
quốc phương Tây. Ở Việt Nam bên cạnh số thanh niên di theo phong trào Âu


hóa về văn hóa và đời sống, một số thanh niên khác lại đi từ tư tưởng tư sản
phương Tây đến chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc. Họ đi
đến những tổ chức và hoạt động cách mạng theo khuôn mẫu của cách mạng
Trung Quốc lúc bấy giờ. Sau những mò mẫm thất bại của một số sĩ phu phong
kiến yêu nước qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục.., lớp
thanh niên tân học đã chọn một mơ hình khác. Số tích cực nhất tổ chức ra
Việt Nam quốc dân đảng, đứng đầu là Nguyễn Thái Học.
Như vậy ảnh hưởng của tư tưởng tư sản đối với Việt Nam cũng thật đa
dạng và phong phú trên nhiều lãnh vực, kể cả lãnh vực chính trị.

Nhưng chưa hết. Bên cạnh đó, trong xấp xỉ cùng một khoảng thời gian,
một hệ tư tưởng mới lại xuất hiện ở Việt Nam, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
2.4.Hệ tư tưởng vô sản
Hệ tư tưởng vô sản vào Việt Nam bằng con đường đấu tranh dân tộc.
Sau những thất bại của các bậc tiền bối. Hồ Chí Minh người đi tìm dường cứu
nước đã hướng về phương Tây và dã gặp học thuyết Mác Lê nin.
Sau Cách mạng tháng Mười 1917, hệ tư tưởng vô sản đã có một chỗ
đứng, một bàn đạp để phát triển ra nhiều nơi trên thế giới. Hàng loạt đảng
cộng sản các nước đã được thành lập và hoạt động phối hợp trong tổ chức Đệ
tam quốc tế.
Từ những năm 1925 - 1926 trở đi, một số thanh niên Việt Nam đã tiếp
cận với hệ tư tưởng vô sản. Một số trong họ không phải xuất thân từ thành
phần công nhân mà từ những thành phần khác, chủ yếu là các thành phần
trung lưu Do đó có phong trào "vơ sản hóa", tức là họ đi làm các nghề lao
động chân tay (làm thợ ở nhà máy, kéo xe tay…) để có thể thực sự trở thành
những người vô sản.
Hệ tư tưởng vô sản đã lôi kéo được nhiều thanh niên đi theo. Nó nêu
lên nhiều lý tưởng dẹp hơn cả các lý tưởng của cách mạng tư sản. Nhân loại


sẽ đi đến thế giới đại đồng, trong xã hội hồn tồn khơng cịn người bóc lột
người, các hình thức nhà nước để cai trị đều bị bãi bỏ, sức sản xuất sẽ phát
triển đến mức ai cần gì có nấy (à chacun selon ses besoins). Chủ nghĩa Mác Lênin được coi là một chủ nghĩa nhân bản hoàn chỉnh và tuyệt đẹp. Như nhà
trí thức mácxit hồi trước đã viết: “Nếu các ông hỏi chúng tôi chúng tôi định
tạo nên những con người như thế nào thì chúng tơi xin trả lời: Không chúng
tôi không muốn tạo nên những con người theo một kiểu mẫu nhất định nào cả.
Chúng tơi chỉ muốn con người có đủ khả năng tự xây dựng lấy mình(bằng
cách vượt lên được các khó khăn, trở ngại). Chúng tơi khơng địi hỏi mọi
người đều phải trở thành Michel Ange. Nhưng chúng tơi địi hỏi những người
nào mang trong mình mầm mống của Michel Ange, phải được trở thành

Michel Ange". Những lời nói đẹp như vậy thực sự có khả năng lơi cuốn mạnh
mẽ. Từ những năm 20, thanh niên Việt Nam bắt đầu nói đến Mác – Lênin,
biện chứng pháp, chủ nghĩa duy vật, giai cấp và giai cấp đấu tranh…
Khác hẳn với hệ tư tưởng phong kiến về hệ tư tưởng tư sản, ngay từ
đầu hệ tư tưởng vô sản đã là kẻ thủ không đội trời trung của chủ nghĩa thực
dân. Riêng đối với tư tưởng vô sản, chủ nghĩa thực dân không bao giờ thỏa
hiệp, nhân nhượng. Khác với tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, tư
tưởng vô sản kết hợp cả đấu tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp. Xô viết
Nghệ Tĩnh là thành công bước đầu của tư tưởng vô sản ở Việt Nam (cũng như
Pari công xã ở Pháp, Quảng Châu công xã ở Trung Quốc).
Trên lĩnh vực ý thức hệ, cũng nảy ra trong cuộc đấu tranh dai dẳng giữa
hệ tư tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng phong kiến. Nhiều
cuộc tranh luận, bút chiến đã nổ ra trên báo chí giữa chủ nghĩa duy vật với
chủ nghĩa duy tâm, giữa nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị nhân
sinh...


Trong thời kỳ Mặt trân Dân chủ Đông Dương (1936-1939), nhiều sách
báo vô sản được xuất bản công khai. Tư tưởng vô sản dã trở thành một lực
lượng vật chất, có sức mạnh làm cho chủ nghĩa thực dân phải hoảng sợ.
Như vậy, gần như trong cùng một khoảng thời gian chỉ trước sau chút
ít, hệ tư tưởng vơ sản phương Tây và hệ tư tưởng vô sản đều cùng thâm nhập
vào Việt Nam và cùng tồn tại với hệ tư tưởng phong kiến(Vẫn có những điểm
kế thừa nhất định của hệ tư tưởng chủ nơ trên thế giới). Đó là một đặc điểm
lịch sử hết sức quan trọng trong thời kỳ bản lề của đời sống văn hóa dân tộc.
Ba hệ tư tưởng cùng tồn tại, cùng phát triển và cùng có những mảnh
đất để tác động và sinh sơi. Chúng có nhiều mối quan hệ biện chứng với
nhau, nhiều khi đấu tranh lẫn nhau, lại có khi ảnh hưởng lẫn nhau rất phức
tạp. Trong một thời gian, đời sống văn hóa dân tộc cùng chịu sự tác động
của cả ba hệ tư tưởng. Đương nhiên một sự hòa hợp hoàn toàn giữa ba hệ tư

tưởng ấy là điều khơng thể có được, nhưng trong cuộc đấu tranh, cũng có
những thời gian tạm thời có sự thỏa hiệp thay thế cho những thời gian đấu
tranh quyết liệt.
Nếu quan niệm Tư tưởng (tiếng Hy Lạp là Idéa – hình tượng) là một
hình thái ý thức của con người phản ánh thế giới hiện thực.
Bất cứ tư tưởng nào cũng do điều kiện sinh hoạt vật chất,do chế độ xã
hội quy định và là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của chế độ
xã hội nhất định. Từ khi xuất hiện chế độ tư hữu và đi liền với nó là sự phân
chia xã hội thành các giai cấp: thống trị và bị thống trị, áp bức và bị áp bức…,
trong ý thức xã hội cũng bắt đầu xuất hiện và không ngừng phát triển các tư
tưởng biểu hiện cho sự đối lập về lợi ích, về sự đấu tranh giữa các giai cấp.
Ngay từ thời cổ đại, bên cạnh các tư tưởng phản ánh, bảo vệ lợi ích của các
giaicấp thống trị, đã xuất hiện tư tưởng phản ánh, bảo vệ cho lợi ích, khát


vọng của các giai cấp bị thống trị. Tư tưởng của giai cấp thống trị, duy trì
củng cố địa vị của giai cấp thống trị, bất công, áp bức xã hội…
Còn tư tưởng của các giai cấp bị thống trị phản ánh những nhu cầu về
một chế độ xã hội khơng có áp bức bất cơng mọi người cùng lao động, sống
bình đẳng… Khơng những thế, những nhu cầu, những quan niệm, ước mơ,
khát vọng ấy dần trở thành những con đường, cách thức, phương pháp… đấu
tranh thực tiễn của nhân dân lao động. Nếu khơng có những tư tưởng tiến bộ
xã hội chủ nghĩa có căn cứ khoa học thì khơng thể dẫn dắt được các phong
trào thực tiễn của nhân dân đấu tranh vì lợi ích của mình.
Vậy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống những quan niệm về
những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao
động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh
nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản xuất là thuộc về
tồn xã hội, khơng có áp bức và bóc lột, bất cơng, mọi người được bình đẳng
về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh.

Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp thống trị và bóc lột
được xem như tiền đề kinh tế – xã hội cho sự xuất hiện các phong trào và tư
tưởng xã hội chủ nghĩa từ phía nhân dân lao động.
Các biểu hiện cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa
– Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là các quan niệm về một chế độ xã hội mà
mọi tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội.
– Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là tư tưởng về một chế độ xã hội mà ở đó
ai cũng có việc làm và ai cũng lao động.
– Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng về một xã hội, trong đó
mọi người đều bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Mọi người đều có điều kiện để lao động, cống hiến, hưởng thụ và phát triển
toàn diện.


Phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa
Các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa thường đưa ra hai
tiêu chí phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa: thứ nhất, căn cứ vào quá
trình lịch sử hình thành các tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn với các chếđộ xã
hội; thứ hai, căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của các tư tưởng ấy. Tuy
nhiên, các nhà sử học mácxít, các nhà nghiên cứu tư tưởng xã hội chủ nghĩa
theo quan điểm duy vật lịch sử thường tiến hành phân loại dựa trên sự kết hợp
đúng mức hai tiêu chí nói trên.
Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo lịch đại. Theo tiến trình lịch sử
phát triển, hay theo lịch đại, các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng thường chia
tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành các giai đoạn phát triển tương ứng với các
giai đoạn phát triển xã hội loài người. Theo cách này người ta chia thành tư
tưởng xã hội chủ nghĩa cổ đại và trung đại, tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ
phục hưng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ cận đại và tư tưởng xã hội chủ
nghĩa thời kỳ hiện đại.
Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo trình độ phát triển:Theo trình

độ phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, người ta phân thành: chủ nghĩa xã
hội sơ khai, chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội không tưởng –
phê phán và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Kết hợp tính lịch đại với trình độ phát triển để phân loại các tư tưởng xã
hội chủ nghĩa
Dù sử dụng tiêu chí theo lịch đại hay theo trình độ phát triển của tri
thức được tích luỹ trong phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa, các nhà
nghiên cứu đều cho rằng khơng nên tuyệt đối hố các tiêu chí được sử
dụng để phân loại, mà chỉ nên coi đó là tiêu chí chủ yếu, cơ bản nhất mà thơi.
Do đó, khi phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa để nghiên cứu, cần chú
ý đến các cấp độ phát triển nội tại (theo kiểu kế thừa, phủ định, phát triển) của


×