Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác – LÊNIN về vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.11 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MÃ MƠN HỌC: LLCT120405_21_1_05
GVHD: PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
SVTH: Nhóm 4. Thứ 7 tiết 4-5
Lê Thị Kim Dung

20157067

Trần Minh Dương

20157071

Huỳnh Huy Hoàng

20155088

Nguyễn Hiếu Ngân

20157026 (CNXHKH13)

Nguyễn Vĩnh Tiến



20142600

Nguyễn Quang Tri

19161305

Nguyễn Dương Hồn Vũ

20157047 (CNXHKH14)

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm số 4 (Lớp thứ 7, tiết 4 – 5)
Tên đề tài: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và ý nghĩa
trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.

STT

HỌ VÀ TÊN
SINH VIÊN

MSSV

TỶ LỆ %
HOÀN
THÀNH


SỐ ĐIỆN
THOẠI

1

Lê Thị Kim Dung

20157067

100%

0926018437

2

Trần Minh Dương

20157071

100%

0986093274

3

Huỳnh Huy Hoàng

20155088


100%

0985997707

4

Nguyễn Hiếu Ngân

20157026

100%

0397269327

5

Nguyễn Vĩnh Tiến

20142600

100%

0886633643

6

Nguyễn Quang Tri

19161305


100%

0379726121

20157047

100%

0374901044

7

Nguyễn Dương Hoàn Vũ
Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%

- Trưởng nhóm: Nguyễn Hiếu Ngân


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Điểm:
.................................................................................................................................
TP. Hồ Chí Minh, ngày … tháng 11 năm 2021
Giảng viên chấm điểm

PGS.TS. Đoàn Đức Hiếu


Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2.

Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài ................................................................... 1

3.

Phương pháp thực hiện đề tài ................................................................ 2

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC ...................................................................................................... 4

1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc ............................. 4
1.2. Những vấn đề của dân tộc ...................................................................... 5
1.3. Cương lĩnh chính trị Mác – Lênin về dân tộc ...................................... 6
1.4. Ý nghĩa của quan điểm ........................................................................... 8
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH
ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................. 9
2.1. Bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay ............................................... 9
2.1.1.

Bình đẳng dân tộc.......................................................................... 9

2.1.2.

Bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay ..................................... 9

2.2. Ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện
nay 15
2.2.1.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền

dân tộc tự quyết ......................................................................................... 15
2.2.1.1.

Quyền dân tộc tự quyết ...................................................... 15

2.2.1.2.

Mối quan hệ của quyền dân tộc tự quyết và quyền bình


đẳng. Quyền bình đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết ........ 16


2.2.1.3.

Thực hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng con

người ở Việt Nam .............................................................................................. 17
2.2.2.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền

xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc ................... 18
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ ngàn đời nay Việt Nam là quốc gia với 54 dân tộc cùng chung sống. Với
tỷ lệ dân số không đồng đều, dân tộc ít người chỉ chiếm 14,3% dân số, khoảng
hơn 12,3 triệu người trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam. Việc các dân tộc,
dù ít hay nhiều người, dù da màu hay da trắng thì vẫn ln chung sống bình đẳng
như anh em ruột thịt trên đất nước Việt Nam, là một chỉ dấu về sự đảm bảo nhân
quyền ở Việt Nam. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng chính sách dân tộc, đặc
biệt là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc; quan tâm chăm lo, tạo điều
kiện tốt nhất để đồng bào các dân tộc phát triển và thụ hưởng các quyền lợi được
pháp luật ghi nhận. Trong suốt chiều dài lịch sử, chính quyền nhà nước ln đề
cao đến vấn đề bình đẳng, trải dài từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồn dân

cho đến thiểu số các vùng đều được nhà nước ta ưu tiên để đảm bảo quyền lợi và
hỗ trợ hết sức mình cho đồng bào thiểu số phát triển về kinh tế - xã hội và cũng
như giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Với quan điểm mọi cơng dân khi
sinh ra đều có quyền lợi ngang nhau trong mọi cương lĩnh chính trị, tham gia quản
lí Nhà nước vã xã hội, ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, những
năm gần đây tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia vào bộ máy chính trị ngày càng
tăng.. Chúng ta hưởng quyền lợi từ Nhà nước thì cũng đồng nghĩa với việc thực
hiện nghĩa vụ đi kèm. Chính vì mỗi người chúng ta đều đang cùng chảy trong
người một dòng máu thiêng liêng và cao cả mang tên Việt Nam nên vấn đề công
bằng giữa các dân tộc là vô cùng quan trọng nên nhóm chúng em chọn “ quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và ý nghĩa trong quá trình thực
hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài
Mục tiểu của bài tiểu luận này là tìm hiểu tổng quan về quan điểm của Chủ
nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình
đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
1


Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về tổng quan về quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề
dân tộc.
- Hiểu và làm rõ ý nghĩa của quan điểm trong quá trình thực hiện bình đằng
dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được tiến hành trên cơ sở sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu mang tính lý thuyết:
+ Nghiên cứu tài liệu, sách, các tạp chí, các thơng tin khoa học về kết quả
nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố trên các ấn phẩm và

các báo cáo khoa học; các văn bản chủ yếu về chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước về quá trình thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam
hiện nay để tiếp thu có chọn lọc các thành quả nghiên cứu trước đó về những vấn
đề có liên quan đến đề tài.
+ Phân tích, tổng hợp những dữ liệu thu thập được làm cơ sở lý luận cho
nghiên cứu đề tài tiểu luận, từ đó xây dựng cách tiếp cận toàn diện, khách quan
những nội dung nghiên cứu.
+ Vận dụng phương pháp mơ hình hóa nhằm tăng tính trực quan trong việc
nghiên cứu về ý nghĩa của quan điểm đối với quá trình thực hiện bình đẳng dân
tộc ở Việt Nam hiện nay.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Khảo sát và phân tích tài liệu thu thập được nhằm phát hiện những vấn đề
trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
+ Phỏng vấn không chuẩn bị trước thông qua trao đổi trực tiếp (phương pháp
bổ trợ) để tham khảo ý kiến một số thầy cô, cán bộ, công nhân viên chức, học
sinh, sinh viên ở một số trường học, cơ quan Bộ, ban, ngành Nhà nước. Xử lý
thông tin và số liệu kết hợp với phân tích, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để góp
phần đánh giá thực trạng bình đẳng giữa các dân tộc hiện nay ở Việt Nam.
2


- Kết hợp cùng với các phương pháp như: phân tích – tổng hợp, lịch sử logic, tổng hợp – khái quát hóa, đối chiếu – so sánh, thống kê, …

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.


Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, dân tộc là quá trình phát triển

lâu dài của xã hội lồi người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao,
bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất
chính là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Ở phương Đơng, dân tộc
được hình thành dựa trên cơ sở một nền văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển
tương đối chín muồi và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất
định song nhìn chung cịn kém phát triển và ở trạng thái phân tán. Dân tộc được
hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng chính trị- xã hội có những đặc trưng cơ
bản sau đây:
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên
nền tảng vững chắc của dân tộc.
- Có lãnh thổ chung ổn định khơng bị chia cắt, là địa bàn sinh tồn và phát
triển của cộng đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển,
hải đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường được thể chế
hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần
rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
- Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước- dân tộc độc lập.
- Có ngơn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và
trong cộng đồng (bao gồm cả ngơn ngữ nói và ngôn ngữ viết).

4



- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng
của nền văn hóa dân tộc. Đối với các quốc gia có nhiều dân tộc người thì tính
thống nhất trong đa dạng văn hóa là đặc trưng của nền văn hóa dân tộc.
Thứ hai: Dân tộc- tộc người.
Theo nghĩa này dân tộc là cộng đồng người được hình thành lâu dài trong
lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Cơng đồng về ngơn ngữ (bao gồm ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết, hoặc chỉ
riêng ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau
và là vấn đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển tộc người vì nhiều ngun nhân khác nhau, có những tộc người khơng
cịn ngơn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngơn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở
mỗi tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập qn, tín ngưỡng,
tơn giáo của tộc người đó. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song
song tồn tại xu thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc người.
- Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một
tộc người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người.
Đặc trưng nổi bật của các tộc người luôn tự ý thức nguồn gốc, tộc danh của dân
tộc mình; đó là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù
cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ hay tác động ảnh
hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa… Sự hình thành và phát triển của ý thức tự
giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc
người.
1.2.

Những vấn đề của dân tộc
Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc

diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.


5


Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan điểm về tư tưởng chính trị,
kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc
và bộ tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử. Mác và Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho
việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Hình thức cộng đồng dân tộc, tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản
bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ
trang xâm lược, cướp bóc, nơ dịch các dân tộc nhỏ, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc
thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp
luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những
quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng về vấn đề dân
tộc.
Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống toàn diện và sâu sắc về
vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng cộng
sản về vấn đề dân tộc. Lênin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính ngun lý. Ở các
dân tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về vận mệnh của dân tộc mình
trên tinh thần hợp tác và xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Đây là sự phát triển,
hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc của Lênin.
Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Bởi do dân số và trình độ phát triển kinh
tế- xã hội giữa các dân tộc khồng đồng đều; do sự khác biệt về lợi ích; do sự khác
biệt về ngơn ngữ, văn hóa, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hịi,
tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi chính sách kinh tế- xã
hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống trị, kích động chia rẽ của các thế lực phản

động đối với dân tộc.
1.3.

Cương lĩnh chính trị Mác – Lênin về dân tộc
6


Trong những năm đầu thế kỷ XX, trên cơ sở tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc với ba nội dung cơ
bản các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa
Mác - Lênin
Một là, các dân tộc hồn tồn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biêt các dân tộc lớn
nhỏ, trình độ phát triển cao thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Khơng một dân tộc nào có quyền áp
bức, bóc lột dân tộc khác. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữ các dân
tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Đó là quyền tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn
chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết dân
tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời có
quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, việc
thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn – cụ thể và phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích của giai cấp cơng nhân. Quyền tự quyết dân tộc không đồng
nhất với quyền của các tộc người thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất
là việc phân lập thành quốc gia độc lập.

Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân giữa các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Đồn kết, liên hiệp cơng nhân
các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động thuộc
7


các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và
vì tiến bộ xã hội.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thê tách
rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấnđề
dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở
thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các Đảng
cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.4.

Ý nghĩa của quan điểm
Quan điểm này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong

trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp. Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trị quyết định đến việc xem xét,
thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng
là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

8



CHƯƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN
TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay
2.1.1.

Bình đẳng dân tộc

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac về mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc 1; dựa
vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới 2và thực tiễn cách mạng Nga
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong những năm đầu thế kỉ XX, V.I.Lênin
đã khái quát Cương lĩnh dân tộc 3như sau: “Các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các
dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.
Các dân tộc hồn tồn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc,
không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân
tộc đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn
hóa.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, khơng một dân tộc
nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân
tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan
trọng hơn nó phải được thực hiện trên thực tế
Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp
bức giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
2.1.2.


Bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay

1
Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, Lênin đã phân tích và chỉ ra hai
xu hướng phát triển có tính khách quan của dân tộc
2
Phong trào cách mạng thế giới là phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân
tộc của các nước thuộc địa trên thế giới trong thế kỷ XX, chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945.
3
Đây là cơ sở lý luận cho việc thực hiện các chủ trương, sách lược cách mạng của giai cấp công nhân đối
với các vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

9


Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa là quyền, vừa là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho sự
đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc.
Thực chất của việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các
quyền cơ bản của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống, quyền
tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Có
dân tộc có số dân hàng chục triệu người, song cũng có dân tộc chỉ có vài ngàn,
thậm chí chỉ vài trăm người. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
khơng đều nhau. Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc ở nước ta thể hiện vai trị và
vị trí của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi nhà
nước Việt Nam non trẻ ra đời sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám, Hiến pháp
năm 1946 đã khẳng định nguyên tắc bình đẳng “tất cả các cơng dân Việt Nam
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hố…” , cịn vấn đề hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số cũng đã được xác định tại Hiến pháp “ngồi sự bình đẳng về quyền lợi,
những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tiến

kịp trình độ chung” . Tại Điều 5 Hiếp pháp năm 1992 và sửa đổi bổ sung năm
2001 quy định “nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc nghiêm cấm mọi hành vi kì thị chia rẽ dân tộc”. Quy định này của Hiến
pháp đã đặt nền móng pháp lí cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc bình
đẳng giữa các dân tộc trong quản lí hành chính nhà nước. Các ngun tắc về quy
định quyền bình đẳng khơng những được quy định trong Hiến pháp mà còn được
cụ thể trong luật và các văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai
thực hiện trong thực tiễn. Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình
đẳng dân tộc, Đảng ta đặc biệt quan tâm việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt
Nam. Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là ở miền núi, gặp
nhiều khó khăn trong sản xuất và sinh hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các dân tộc ở nước ta. Vì vậy, trước hết, Đảng ta khẳng định vấn đề then
chốt và quan trọng nhất trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam chính
10


là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc hiện nay. “Chính sách dân tộc
của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo
những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn
hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi,
vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm
chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” 4. Trên cơ sở kế thừa quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương: “Để
thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải
bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để
nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa,
từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc, tôn trọng và phát huy những
phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc” 5. Đảng ta

khẳng định xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ghi nhận đầy đủ quyền của
đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp quan trọng để thúc đẩy bình đẳng dân tộc.
Bên cạnh đó, việc quan tâm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùngdân
tộc thiểu số cũng là giải pháp để thực hiện bình đẳng dân tộc: “Vấn đề xây dựng
kinh tế miền núi là một bộ phận khăng khít của chính sách dân tộc của Đảngta trong
giai đoạn mới của cách mạng. Nó bảo đảm cho miền núi dần dần tiến kịpmiền
xuôi, cho các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, thực hiện đầy đủ sự bình đẳng
và tăng cường đồn kết giữa các dân tộc. Nó phù hợp với lợi ích thiết thân của các
dân tộc miền núi, đồng thời cũng phù hợp với lợi ích thiết thân của toàn thể nhân
dân lao động miền Bắc”6. Khi miền núi cịn kém phát triển thì chỉ có sự ưu tiên,
quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số
mới tạo ra sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc để đuổi kịp đồng
Trích Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị năm 1989 (khố VI) về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh
tế - xã hội miền núi chỉ rõ về nguyên tắc để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc
6
Trích nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)
4
5

11


bào dân tộc đa số, thực hiện mục tiêu tất cả các dân tộc đều được ấm no, hạnh
phúc. Tập trung, ưu tiên mọi nguồn lực để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu
số là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện bình đẳng dân tộc, điều này tiếp tục được
Đảng ta khẳng định trong văn kiện Đại hội XII7: “tạo chuyển biến rõ rệt trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung”.
Tuyên bố quyền bình đẳng của các dân tộc về mặt pháp lý và việc thực hiện

quyền bình đẳng trên thực tế cịn một khoảng cách bởi điều kiện và trình độ phát
triển kinh tế- xã hội của các dân tộc không đồng đều, đó là một thực tế khách
quan, chính vì vậy mới cần có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng ta là một hệ thống các chủ trương, giải pháp nhằm
thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc.
Đảng ta cũng đã nhận thức được việc thực hiện bình đẳng dân tộc phải toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực và xác định những nhiệm vụ trọng tâm trong từng lĩnh
vực cụ thể. Bình đẳng trong chính trị là tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu
số được tham gia chính quyền và các cơ quan quyền lực nhà nước để họ có đại
diện của mình. “Để thực hiện đầy đủ nguyên tắc các dân tộc bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ, chính quyền ở xã phải gồm đủ đại biểu các dân tộc trong xã. Từ
xã đến tỉnh, tùy theo nhân số các dân tộc ở địa phương nhiều hay ít mà định số đại
biểu các dân tộc đó tham gia chính quyền (Nhưng cũng có khi ở địa phương có
một dân tộc nào đó, tính nhân số thì rất ít, song cũng nên có đại biểu trong chính
quyền để bảo đảm đồn kết và thi hành chính sách cho khỏi thiên lệch). Đặt nghĩa
vụ đóng góp cơng bằng cho các dân tộc, tuy nhiên khơng nên máy móc đặt mức
nhất loạt mà phải châm chước đối với các dân tộc trình độ sinhhoạt và giác ngộ
cịn thấp kém quá”8. Đảng ta cũng chỉ ra những nội dung của bình đẳng dân tộc
về mặt kinh tế được xác định là “Mở mang kinh tế các vùng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII là đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, diễn ra từ ngày
20 đến 28 tháng 1 năm 2016
8
Văn kiện Đảng toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.269
7

12


thiểu số, cải thiện đời sống cho họ, chú trọng tiếp tế những thứ cần thiết cho đời
sống hàng ngày của họ”9. Bảo đảm những lợi ích kinh tế và nâng cao đời sống vật

chất cho đồng bào dân tộc thiểu số là nội dung cốt lõi của bình đẳng dân tộc về
mặt kinh tế. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc về mặt văn hóa là các dân tộc được
tự do bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, chữ viết của mình, được hưởng
các thành quả phát triển văn hóa chung của đất nước “Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ
được tự do phát triển, tồn tại, tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển
tồn tại và được bảo đảm”10; “Phát triển bình dân học vụ và phát triển văn nghệ
dân tộc ở các vùng thiểu số, phổ biến việc là tinh hóa tiếng nói của các dân tộc
chưa có chữ và bảo đảm việc dạy học bằng các thứ tiếng đó trong các trường của
dân tộc thiểu số (nhất là ở các lớp dưới)”11.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bình đẳng dân tộc, trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chương trình, dự án để phát triển kinh tế xã hội vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kết cấu hạ tầng miền núi
đã có bước phát triển, đời sống của đồng bào ngày càng được bảo đảm tốt hơn.
Việc quan tâm quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc thiểu số được
các cấp ủy chú ý; số lượng, chất lượng cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia vào
hệ thống chính trị các cấp ngày càng tăng. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở vùng miền núi được thực hiện thực chất hơn. Qua đó, quyền bình đẳng về chính
trị giữa các dân tộc được bảo đảm. Chúng ta cũng tạo điều kiện và hỗ trợ vật chất,
nguồn lực để giúp đồng bào bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
mình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển
giữa các dân tộc. Đời sống vật chất của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số
vẫn thấp hơn mặt bằng chung, người nghèo đa số là người dân tộc thiểu số, cứ hai
người nghèo có một người dân tộc thiểu số. Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc
thiểu số cũng thấp hơn nhiều so với đồng bào Kinh. Vì vậy, để thực hiện tốt bình

Văn kiện Đảng tồn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.140, 140.
Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, tr.196
11
Văn kiện Đảng toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.140, 140.
9


10

13


đẳng dân tộc, chúng ta cần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và bổ sung
một số quan điểm phù hợp với thực tiễn nước ta.
Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Chúng
ta cần hết sức tránh tư tưởng “dân tộc lớn” trong xây dựng, hoạch định cácchính
sách liên quan đến vấn đề dân tộc. Bởi lẽ, áp đặt tư tưởng, quan điểm của người
dân tộc đa số cho dân tộc thiểu số dù với mong muốn tốt đẹp cũng là bất bình
đẳng dân tộc.
Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ của dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc
kém phát triển hơn. Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền lợi của người dân tộc thiểu
số cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của dân tộc Kinh và các dân tộc khác phát triểnhơn.
Điều này đã được Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển và thực tiễn đang khẳngđịnh
tính đúng đắn.
Thứ ba, phát huy vai trị của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ
lực, cố gắng phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ti, ỷ lại trơng chờ trong thực hiện bình
đẳng dân tộc. Thực tiễn thời gian qua đã chứng minh đây là nội dung rất quan
trọng để đồng bào thiểu số tiến kịp đồng bào đa số, thực hiện bình đẳng dân tộc,
tất cả các dân tộc đều no ấm, hạnh phúc. Đảng và Nhà nước cần có những chính
sách tránh cho khơng mà có điều kiện để động viên họ, đồng thời cần giáo dục,
vận động, tuyên truyền để nâng cao ý thức vươn lên của đồng bào.
Thứ tư, cần làm rõ hơn vai trị của Nhà nước, chính quyền và cán bộ địa
phương trong thực hiện bình đẳng dân tộc. Nhà nước cần ban hành những chính
sách, cơ chế phát triển mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó khắc phục
khoảng cách chênh lệch, thực hiện bình đẳng dân tộc. Chính quyền và cán bộ địa
phương khi triển khai các chính sách cần gắn bó với nhân dân để đưa ra những kế
hoạch, biện pháp, đầu tư các nguồn lực có hiệu quả, có tính khả thi nhằm phát

triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
Năm là, chăm lo giữ gìn, phát huy và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc;
bảo đảm cho các dân tộc được phát triển hài hòa trong một nền văn hóa đa dân
tộc; bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc được trân trọng, giữ gìn,
14


phát huy và phát triển. Đồng bào dân tộc ai cũng có quyền tham gia vào các hoạt
động văn hóa của dân tộc mình, của cộng đồng, xã hội và được hưởng các chính
sách về phát triển văn hóa.
Sáu là, thường xuyên củng cố, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, nhất
là hệ thống chính trị ở cơ sở. Chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Thường xuyên quan tâm
kiện toàn bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ của cơ quan làm cơng tác dân tộc.
Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh - quốc phòng ở các vùng
dân tộc thiểu số, miền núi. Tích cực đấu tranh phịng, chống mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.2. Ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện
nay
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
2.2.1.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân

tộc tự quyết
2.2.1.1.

Quyền dân tộc tự quyết


V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa rất rõ ràng, quyền dân tộc tự quyết của các
dân tộc chính là quyền tự quyết về chính trị: “Quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là
quyền phân lập về mặt Nhà nước của các dân tộc đó ra khỏi tập thể dân tộc khác,
có nghĩa là sự thành lập một quốc gia dân tộc độc lập”, Người nói rõ hơn: “Quyền
dân tộc tự quyết hồn tồn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính trị,
có quyền tự do phân lập, về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ”. Như vậy,
quyền dân tộc tự quyết là quyền của một dân tộc có thể tách ra trở thành một quốc
gia dân tộc độc lập với việc tự quyết định thể chế chính trị của mình khỏi một dân
tộc khác đang áp bức họ.
2.2.1.2.

Mối quan hệ của quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng.

Quyền bình đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
15


Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết được Tổng thống Hoa Kỳ Thô-mát Uynson và V.I.Lênin nêu vào các năm 1918 và 1920. Đến năm 1945, trong Hiến
chương Liên hiệp quốc, Điều 55 khẳng định: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị
giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân
tộc”. Quan hệ giữa các dân tộc được xác định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc
chính là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền; trong đó các dân tộc đa
số và thiểu số đều bình đẳng để cùng hợp thành một dân tộc, quốc gia và mang
tên gọi của đất nước mình. Do quyền dân tộc tự quyết của dân tộc, quốc gia chỉ
thuộc về nhân dân nên quyền dân tộc tự quyết có mối quan hệ mật thiết với quyền
của nhân dân nói chung và quyền bình đẳng nói riêng. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thông qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, lần đầu tiên trong lịch
sử đã gắn quyền dân tộc - quốc gia tự quyết với quyền cá nhân bằng việc kế thừa,
phát triển tư tưởng quyền “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên

của mọi dân tộc - quốc gia. Nói cách khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng
quyền con người gồm cả quyền dân tộc tự quyết. Điều cần nhấn mạnh là trong
pháp luật quốc tế, phải đến năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mới gắn
quyền dân tộc tự quyết với quyền con người. Ở Khoản 1 Điều 1 của hai công ước
này đều xác đinh: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền
đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh
tế, xã hội và văn hoá”.
Trước hết, quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng con người có mối
quan hệ khăng khít. Quyền bình đẳng con người trước hết là quyền cá nhân, song
nó cũng là quyền cộng đồng; và quyền cá nhân, quyền cộng đồng đều được bảo
đảm một cách cụ thể trong điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở mỗi dân
tộc - quốc gia. Do đó, việc bảo đảm quyền bình đẳng con người là cơ sở của quyền
dân tộc tự quyết, vì quyền dân tộc tự quyết là quyền cộng đồng bao trùm của các
cá nhân sinh sống trong một dân tộc, quốc gia. Nếu quyền dân tộc tự quyết không
16


được tơn trọng thì quyền con người với tư cách là quyền của một cá thể, một tập
thể riêng rẽ sẽ rất khó được bảo vệ, bảo đảm trong thực tế.
2.2.1.3.

Thực hiện quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng con

người ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
đồn kết, hịa thuận trong suốt q trình lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục tiêu bảo đảm
quyền con người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam theo
luật pháp quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa Xã

hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc
gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc
dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình;
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; đồng thời nhấn mạnh:
“Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”. Nội dung này đã được thể hiện trong các văn
bản pháp luật khác, như: Luật Quốc tịch năm 2008; Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) năm 2015... Ở
Việt Nam, chỉ có khái niệm quyền con người, quyền cơng dân; đó là quyền của
tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số. Quyền
con người thuộc mọi dân tộc thống nhất giữa quyền cá nhân và quyền tập thể cộng
đồng dân tộc được đặt chung trong quyền của quốc gia-dân tộc.
Ở Việt Nam, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết gắn với quyền bình đẳng
của con người chủ yếu diễn ra dưới chính thể dân chủ, cộng hòa và cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa từ năm 1945 trở lại đây. Các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946
17


đến Hiến pháp năm 2013, đều nhất quán dựa trên nguyên tắc bảo đảm các quyền
tự do dân chủ của nhân dân.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ 1945-1954 (và ở miền Nam đến
1975), với định hướng phát triển lên Chủ nghĩa xã hội, mục tiêu độc lập dân tộc
được đặt lên hàng đầu, tức là ưu tiên thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Trong thời
kỳ này, bảo đảm quyền bình đẳng con người mới tập trung vào bảo đảm quyền
của các cộng đồng nền tảng (quyền tập thể) trong xã hội là giai cấp nông dân,
công nhân và những người lao động khác. Trong đó, một biện pháp cơ bản là thực

hiện “người cày có ruộng”, mà thực chất là thực hiện quyền con người cho quảng
đại nhân dân tại một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Việc tập thể hóa nơng nghiệp và quốc hữu hóa những ngành
cơng nghiệp chính là nhằm đem lại quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chính
yếu cho người lao động làm cơ sở để bảo đảm các quyền con người khác.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng
Chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế cịn thấp,
lại duy trì cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp quá dài và với sự tác động
của chiến tranh biên giới phía bắc, phía nam nên trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa quyền dân tộc tự quyết và quyền con người cơ bản vẫn ưu tiên quyền dân
tộc tự quyết và tập trung vào bảo đảm quyền tập thể.
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), việc giải quyết mối quan hệ
giữa quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng con người là nhằm bảo đảm quyền
con người, cả quyền cá nhân và quyền tập thể, phù hợp với pháp luật quốcgia và
quốc tế, trước hết là pháp luật quốc tế về quyền con người, trong điều kiệnkinh tế
thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủnghĩa và
hội nhập quốc tế.
2.2.2.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền xây

dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc
Thực hiện bình đẳng dân tộc là nhân tố quyết định để củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách
18


mạng Việt Nam, là động lực và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn
thấy rằng, nếu khơng xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc khi khơng có sự

bình đẳng giữa các dân tộc. Khi một dân tộc này đi chà đạp, ép buộc các dân tộc
khác thì sớm hay muộn sẽ tạo nên sự chia rẽ, ly khai dân tộc. Hồ Chí Minh đã
sớm nhận thấy điều đó khi cho rằng, để xây dựng khối đại đồn kết dân tộc thì
phải thực hiện bình đẳng dân tộc, đại đồn kết dân tộc khơng những phải dựa trên
nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng
lớp trí thức, mà cịn phải thực hiện đồn kết các dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các
dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhờ
sức đồn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay
được độc lập… Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để
giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa”. Cơ sở của khối đại đồn kết dân
tộc là bình đẳng dân tộc, vì lợi ích của tất cả các dân tộc trong một quốc gia. Khi
các dân tộc được đối xử bình đẳng, cả về nghĩa vụ và quyền lợi, sẽ tạo ra tiếng nói
chung và tạo nên sự đồng thuận giữa các dân tộc và ngược lại. Vì thế nếu khơng
đảm bảo và khơng có những chính sách và hành động cụ thể để thực hiện bình
đẳng dân tộc, làm cho bình đẳng dân tộc ngày càng trở thành hiện thực thì khối
đại đồn kết bị lung lay. Khơng chỉ dừng lại ở việc xây dựng mối quan hệ hữu
nghị hợp tác giữa các dân tộc trong nước, dân tộc Việt Nam nói chung còn chung
tay hợp tác với các dân tộc ở các quốc gia khác dựa trên nguyên tắc hợp tác, hữu
nghị, cơng bằng và bình đẳng. Có thể nói trong suốt hàng nghìn năm lịchsử, Việt
Nam đã ln chứng tỏ với cộng đồng quốc tế, là một dân tộc có truyền thống lịch
sử lâu đời về tinh thần đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau.

19


PHẦN KẾT LUẬN
Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu thịt
với nhau cùng nhau dựng nước và giữ nước, truyền thống đó được giữ dìn và phát
triển trong suốt tiến trình hành nghìn năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức
xây dựng tổ quốc Việt Nam thống nhất. Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu

của dân tộc Đảng và nhà nước ta đã xác định đoàn kết là một nguyên tắc cơ bản
trong chính sách dân tộc xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay
dưới sự lãnh đạo của Đảng các dân tộc đang phát huy truyền thống đồn kết tốt
đẹp đó, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh. Tất cả các dân tộc đang sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nạm phải có trách nhiệm chăm lo vun đắp, cũng cố tăng cường khối đại đồn kết
dân tộc.
Mặc dù nhỏ bé về diện tích nhưng lớn lao về tinh thần đấu vượt qua mọi khó
khăn, khác nhau về họ hàng, sắc thái nhưng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ phân
chia giai cấp, đối xử khơng cơng bằng. Thực tế cho thấy, trong hồn cảnh dịch
bệnh đang bao trùm cả không gian và thời gian trên thế giới thì Việt Nam vẫn
đang đồn kết sức mạnh hết khả năng của mình từ miền ngược cho đến miền xuôi,
từ người già cho đến trẻ nhỏ,. cùng chung tay góp sức và những vị lãnh tụ cũng
vô cùng căng thẳng đưa ra biện pháp cũng như chính sách cân đối để đảm bảo cho
con cháu mình trên tồn dân tộc có được một sức khỏe tốt nhất.

20


×