Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long: Số 19/2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 88 trang )

TẠP CHÍ

MỤC LỤC

NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG

Trang

Số 19 - Tháng 6/2021

VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Phó tổng biên tập:
TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* PGS. TS. VÕ NAM SƠN
* PGS.TS. TỪ THANH DUNG
* PGS. TS. NGUYỄN NGỌC PHƯỚC
* TS. NGUYỄN THANH TÙNG
* TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH


* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. LA XN THẢO
* TS. NGŨN NGỌC DU
Trình bày:
ThS. Hồng Thị Thủy Tiên
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu, Q.1, TP.HCM
ĐT: 028 3829 9592 - Fax: 028 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM

Một số đặc điểm môi trường sống và phân bố
của ngao móng tay chúa liên hệ đến hướng
phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm.

3-15

Some living environmental characteristics and
distribution of Razor clam relate to directions for
reproduction and grow-out farming development.
TRẦN NGỌC HIỂU, ĐINH KIM DIỆU, NGÔ MINH LÝ,
NGUYỄN THANH HÀ, NGUYỄN QUỐC THỂ,
VŨ ANH TUẤN

Ảnh hưởng của thành phần chất đáy và mật
độ ương đến tăng trưởng và tỉ lệ sống ấu trùng

ngao móng tay chúa Cultellus maximus (Gmelin,
1791) giai đoạn đáp đáy (1 mm) lên giống (1 cm)

16-24

Effect of substrate composition and stocking
density on growth rate and survival of Razor clam
Cultellus maximus (Gmelin, 1791) from spat to
juvenile stage.
ĐINH KIM DIỆU, TRẦN NGỌC HIỂU, NGÔ MINH LÝ,
TIÊU THANH TƯƠI, NGUYỄN QUỐC THỂ,
VŨ ANH TUẤN

Đánh giá hiện trạng nuôi cá dứa (Pangasius sp.)
ở huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.

25-35

An assessment on current farming of the
pangasius sp. In Can Gio district, Ho Chi Minh City.
TRẦN VĂN TIẾN, VÕ VĂN PHẲNG, LÊ THỊ CẨM HÀ,
LƯƠNG ĐỨC THIỆN, LÊ THỊ TRANG, PHAN DOÃN
ĐĂNG, NGUYỄN VĂN TÚ

Hiệu quả ứng dụng cơng nghệ bọt khí siêu mịn
trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.
Application efficiency of micro-nano bubble
oxygen technology in intensive white leg shrimp
pond.
LÊ THANH VŨ, PHÙNG THỊ HỒNG GẤM,

ĐỖ VĂN HOÀNG, CHÂU HỮU TRỊ,
NGUYỄN TRỌNG HUY, PHAN THANH LÂM

36-44


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Đặc tính phân tử và phân bố mô bệnh học của
gene FABP (fatty acid binding protein) ở sán
máng Schistosoma Mekong.

45-57

Đánh giá chất lượng axít amin của bột phụ
phẩm cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
sản xuất tại Tiền Giang và An Giang.

Molecular characterization and tissue distribution
of FABP (fatty acid binding protein) in Schistosoma
Mekongi

Assessment of amino acid profile of tra catfish
(Pangasianodon hypophthalmus) by-product
fishmeal produced in Tien Giang and An Giang.

ĐỖ THỊ CẨM HỒNG, WANWISA PEONSAMUT,
MANAW SANGFUANG, YANIN LIMPANONT,
CHAROONROJ CHOTWIWATTANAKUN,
PRASERT SOBHON, NARIN PREYAVICHYAPUGDEE


LÝ HỮU TOÀN, KHIN THIRI KHIT, PHẠM DUY HẢI,
TRẦN THỊ LỆ TRINH, JOHN H. BAVOR,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN

Khảo sát thành phần các nguyên liệu cung
cấp protein và carbohydrate trong sản xuất
thức ăn cá tra và thành phần sinh hóa của cá
tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở các giai
đoạn phát triển.
Biochemical properties of protein and
carbohydrate sources in the feed and tra catfish
(Pangasianodon hypophthalmus) fillet at
different stages of development.

58-69

Đánh giá hiện trạng nước thải trong nhà máy
chế biến cá tra (Pangasianodon hypophthalmus).
Assessment of the current status of wastewater in
tra catfish processing plants.
NGUYỄN QUỐC CƯỜNG, PHẠM DUY HẢI, LÊ HOÀNG,
NGUYỄN LỮ HỒNG DIỄM, VÕ THỊ MY MY,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN, H. JOHN BAVOR

VÕ THỊ MY MY, LÊ HOÀNG, NGUYỄN LỮ HỒNG DIỄM,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN

2


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

70-78

79-86


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM MƠI TRƯỜNG SỐNG VÀ PHÂN BỐ CỦA NGAO
MĨNG TAY CHÚA LIÊN HỆ ĐẾN HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
GIỐNG VÀ NI THƯƠNG PHẨM
Trần Ngọc Hiểu1, Đinh Kim Diệu1, Ngơ Minh Lý1, Nguyễn Thanh Hà1,
Nguyễn Quốc Thể1, Vũ Anh Tuấn1*

TÓM TẮT
Ngao móng tay chúa (NMTC) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và cũng được xem là lồi
ni tương đối mới và tiềm năng. Nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá thực trạng khai thác, một
số đặc điểm môi trường sống và phân bố NMTC tại Cà Mau và Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM)
và đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm đối
tượng này. Áp dụng phương pháp điều tra nông hộ khai thác để thu thập thông tin và số liệu nghiên
cứu. Từ tháng 3 đến tháng 5/2019 đã tiến hành điều tra phỏng vấn hộ khai thác NMTC bằng phiếu
điều tra soạn sẵn. Tổng số đã lựa chọn được 38 hộ khai thác NMTC để phỏng vấn, trong đó 26 hộ
tại Cà Mau và 12 hộ tại Tp. HCM. Sử dụng phương pháp thống kê mơ tả để phân tích số liệu, trình
bày và diễn giải số liệu khảo sát. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy NMTC được khai thác quanh năm
nhưng tập trung cao vào thời gian tháng 4-6 tại vùng nghiên cứu, và được khai thác ở vùng phân bố
gần bờ nhất là 2,54 km và xa bờ nhất là 18,04 km, vùng có độ sâu mức nước cạn nhất là 1,15 m và
sâu nhất là 10 m. NMTC được khai thác và bắt gặp sống trong hang đất với độ sâu hang từ 31,67
- 94,23 cm. NMTC phân bố theo bề mặt đáy bằng phẳng là chính. NMTC khai thác kích thước nhỏ
sống ở nền đáy có cơ cấu tỷ lệ bùn nhiều hơn hoặc bằng tỷ lệ cát; trong khi, NMTC khai thác kích

thước lớn và trung bình thì tỷ lệ giữa cát và bùn phụ thuộc vào điều kiện khu vực khai thác. NMTC
được khai thác ở Cà Mau có kích cỡ khai thác trung bình là 22 con/kg, khối lượng ghe bắt trung
bình mỗi ngày là 3,65 ± 2,07 kg/ghe/ngày; trong khi, ở Tp. HCM cỡ NMTC khai thác trung bình 13
con/kg, khối lượng mỗi ghe khai thác theo ngày là 2,50 ± 1,22 kg/ghe/ngày. Qua nghiên cứu đã cho
thấy, thời điểm khai thác NMTC tập trung cao chính là thời điểm thích hợp cần tiến hành thu thập
nguồn NMTC bố mẹ để thuần dưỡng và nuôi vỗ để phục vụ cho việc sản xuất giống. Bên cạnh đó,
khi phát triển đưa NMTC vào ni thương phẩm thì việc thiết kế điều kiện sống cho NMTC là rất
quan trọng, trong đó việc thiết kế hang đất, nền đáy ao nuôi NMTC cần được chú trọng thực hiện để
đảm bảo điều kiện tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển.
Từ khóa: Ngao móng tay chúa, phân bố, khai thác, Cà Mau, HCM

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Động vật thân mềm đang được xem là một
trong những đối tượng nuôi ưu thế trong chiến
lược phát triển nuôi biển của nước ta, do đó
có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về động
vật thân mềm, trong đó nghiên cứu về sản xuất
giống nhân tạo và phương pháp ương nuôi ấu

trùng được quan tâm nhiều nhất (Nguyễn Xuân
Thu, 2005; Nguyễn Quang Hùng và Hồng Đình
Chiều, 2009). Động vật thân mềm như nhuyễn
thể được nuôi phổ biến ở Việt Nam trong những
năm gần đây là nghêu Bến Tre, nghêu dầu, vẹm
xanh, sò huyết, hàu Thái Bình Dương, ..., trong
đó, Ngao móng tay chúa (NMTC) được coi là

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email:


1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

3


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

lồi ni tương đối mới (Nguyễn Đức Minh,
2015). Ngao móng tay chúa (Cultellus maximus
Gmelin, 1791) là đối tượng có giá trị kinh tế
cao, hiện được chào bán giá 450.000 đồng/kg
với cỡ 8-12 con/kg và chủ yếu được tiêu thụ
trong hệ thống nhà hàng ăn uống. Tuy nhiên,
nguồn NMTC tiêu thụ hiện nay chủ yếu đến
từ việc đánh bắt tự nhiên và vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy,
việc phát triển nghề nuôi NMTC không chỉ giải
quyết được vấn đề này mà cịn góp phần cân
bằng hệ sinh thái và ổn định môi trường ven
biển. Nuôi thương phẩm NMTC hiện chưa có
ở Việt Nam, tuy nhiên, một số đối tượng có
đặc tính tương tự đã được đưa vào nuôi và đã
thành công như nghề nuôi tu hài, nuôi móng tay
dài cũng phát triển trong những năm gần đây ở
vùng ven biển nước ta (Trần Thế Mưu và Vũ
Văn Sáng, 2013; Trần Trung Thành, 2016). Trên
thế giới, ni móng tay (Ensis arcuatus) ở Tây
Ban Nha cho thấy móng tay phát triển tốt vào

mùa xuân và mùa hè, nhưng không phát triển
vào mùa thu và bị chết khi mưa nhiều (Costa
và ctv., 2011). Trong khi đó thì ni trùng trục
(Sinonovacula constricta) và các lồi móng tay
dày (Solen grandis) ở Trung Quốc có kết qủa
khá tốt (Nguyễn Đức Minh, 2015).
Theo Nguyễn Quang Hùng và Hồng Đức
Triều (2009) thì NMTC phân bố tự nhiên dọc
theo các vùng bãi triều nông, chủ yếu ở vùng
trung triều và hạ triều, nơi có địa hình bằng
phẳng, độ sâu mực nước từ 2 - 6 m, có nền đáy là
bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất hữu cơ, độ mặn
từ 18 - 30‰, nơi ít bị ảnh hưởng bởi sóng gió,
rừng ngập mặn nơi có nguồn nước ngọt chảy
vào từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cà Mau. Kết quả
điều tra qua khảo sát vùng ven biển Cà Mau
của Nguyễn Quốc Thể (2016) cho thấy NMTC
xuất hiện tại các điểm Gị Cơng, Rạch Tàu và
Ơng Trang nơi có chất đáy là bùn mịn và bùn
cát. Mực nước nơi NMTC phân bố có độ sâu từ
4 - 10 m cách bờ từ 2 - 10 km. Số lượng NMTC
4

trong tự nhiên đang có xu hướng giảm nhanh
chóng và sản lượng khai thác NMTC cũng đã
giảm theo thời gian (Nguyễn Đức Minh, 2021).
Theo khảo sát ngư dân ở Cà Mau thì cách đây
7 - 8 năm, mỗi ngày người dân bắt được 6 - 8
kg, nhưng hiện nay chỉ khai thác được 2 - 3 kg/
ngày (Nguyễn Quốc Thể, 2016). NMTC là đối

tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và cũng
được coi là lồi ni tương đối mới, do vậy việc
phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm
là hết sức cần thiết. Nghiên cứu sản xuất giống
NMTC đã bước đầu thành công bởi Nguyễn
Quốc Thể (2016) và Nguyễn Đức Minh (2015;
2021); trong khi, Nguyễn Đức Minh (2021) đã
lần đầu tiên đưa NMTC vào thử nghiệm nuôi
thương phẩm trên bãi triều tại Cần Giờ và ghi
nhận với mật độ thả 10 con/m2 thì sau 10 tháng
đạt tỷ lệ sống 22% và cỡ NMTC thu hoạch đạt
20 con/kg. Tuy nhiên, các nghiên cứu kể trên
cịn có những hạn chế trong việc xác định mùa
vụ để thu thập đàn NMTC bố mẹ trong tự nhiên,
thiết kế điều kiện sống của NMTC bố mẹ trong
điều kiện nhân tạo nuôi nhốt và điều kiện sống
của NMTC trong giai đoạn ương giống và ni
thương phẩm. Để có thơng tin đầy đủ về tình
hình khác thác NMTC, nghiên cứu này áp dụng
phương pháp điều tra phỏng vấn hộ khai thác
NMTC được tiến hành để đánh giá tình hình
khai thác, một số đặc điểm phân bố và tập tính
sống NMTC tại Cà Mau và Tp. HCM và qua đó
bước đầu đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan
tâm khi phát triển sản xuất giống và nuôi thương
phẩm đối tượng này ở nước ta.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm
nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các hộ khai thác
ngao móng tay chúa (NMTC) thuộc hai địa điểm
Cà Mau và Tp. HCM đây là hai địa phương có
số lượng khai thác NMTC tập trung nhiều ở khu
vực phía Nam. Từ tháng 3 đến tháng 5/2019 đã

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

tiến hành điều tra phỏng vấn hộ khai thác bằng
phiếu điều tra soạn sẵn.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ
cấp được thu thập từ các báo cáo kết quả của các
đề tài nghiên cứu liên quan trước đây thực hiện
tại khu vực nghiên cứu bởi Nguyễn Quốc Thể
(2016) và Nguyễn Đức Minh (2015; 2021); và
các báo cáo của Chi cục thủy sản tỉnh Cà Mau
và Tp. HCM. Bên cạnh đó, để có thơng tin cụ
thể hơn đối với đối tượng NMTC thì thực hiện
phỏng vấn thêm 7 cán bộ quản lý của Chi cục
Thủy sản của hai địa phương (Cà Mau: 5 cán bộ
và Tp. HCM: 2 cán bộ).
Thu thập thông tin sơ cấp: Phối hợp và
thống nhất với cán bộ quản lý Chi cục thủy sản
tỉnh Cà Mau và Tp. HCM để lựa chọn vùng
nghiên cứu là nơi tập trung số lượng nhiều hộ
tham gia khai thác NMTC. Tại mỗi địa điểm

khảo sát tiến hành làm việc với đại diện của
UBND xã để lập danh sách các hộ khai thác
NMTC, tiếp đến là phân nhóm hộ khai thác rải
đều trên địa bàn xã, và sau cùng là lựa chọn
ngẫu nhiên các hộ để điều tra phòng vấn. Tổng
số đã lựa chọn được 38 hộ khai thác NMTC để
phỏng vấn, trong đó 26 hộ tại Cà Mau (15 hộ
tại xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân; và
11 hộ tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển) và
12 hộ tại Tp. HCM (6 hộ tại xã Thạnh An và 6
hộ tại xã Long Hòa, huyện Cần Giờ). Sử dụng
phương pháp điều tra phỏng vấn hộ khai thác
NMTC bằng phiếu điều tra đã soạn sẵn (đã có
bước điều tra thử và hồn thiện phiếu) để thu
thập thơng tin phỏng vấn. Các nội dung khảo
sát bao gồm: các thông tin chung về nông hộ,
đặc điểm nghề khai thác NMTC, ngư cụ khai
thác, mùa vụ khai thác, khu vực khai thác, kích
cỡ và sản lượng khai thác và tiêu thụ NMTC.
Các thông tin được thu thập về hoạt động khai
thác cho năm gần nhất (năm 2018), các thông
tin được rà sốt và kiểm tra đầy đủ thơng tin
trong cùng ngày phỏng vấn.

2.3. Phương pháp phân tích và xử lý
số liệu
Số liệu thu thập được kiểm tra và nhập liệu,
phân tích số liệu bằng phương pháp thống kê
mô tả và được trình bày dưới dạng giá trị trung
bình ± độ lệch chuẩn (TB ± STD), giá trị nhỏ

nhất và lớn nhất (Min - Max), tần suất xuất hiện
bằng phần mềm SPSS 22.0. Các chỉ tiêu đánh
giá sản lượng khai thác NMTC được tính tốn
bằng cơng thức (1) và (2):
Cơng thức 1: Ước tính khối lượng khai
thác, YW =M*D*X
Trong đó: YW: Khối lượng khai thác NMTC
(kg/năm); M: Khối lượng mỗi ghe khai thác 1
ngày (kg/ngày/ghe); D: Số ngày khai thác trong
1 năm (ngày/năm/ghe); X: Số ghe khai thác (ghe)
Công thức 2: Ước lượng số lượng khai thác,
YN=YW/S
Trong đó: YN: Số lượng khai thác (con/
năm); S: Kích cỡ khai thác (con/kg)
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng khai thác ngao móng tay
chúa
3.1.1. Số ghe, số người và ngư cụ tham gia
khai thác
Số ghe và số người tham gia khai thác
NMTC: Kết quả thu thập số liệu từ cơ quan quản
lý địa phương đã ghi nhận tại huyện Phú Tân
và huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) có khoảng 456
người làm nghề khai thác NMTC với số lượng
ghe tham gia khai thác là 143 chiếc, và Tp. HCM
có khoảng 79 ngư dân khai thác NMTC tại huyện
Cần Giờ. Những ngư dân khai thác ở xã Long
Hòa đã dùng kỹ thuật lặn (như ở Cà Mau) để bắt
NMTC, trong khi ở xã Thạnh An bắt trên bãi cạn.
Tuy nhiên, kết quả kiểm tra thực tế cùng với ngư

dân ở xã Thạnh An ngày 6 tháng 6 năm 2019
cho thấy không bắt được NMTC trên bãi triều.
Điều này cho thấy, những người phỏng vấn đã
dựa vào kết quả những năm trước đây (có thể 3
hay 5 năm về trước), cịn hiện tại thì khơng có
hoặc có rất ít NMTC (Bảng 1).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

5


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 1. Thơng tin về số ngư dân, số ghe tham gia khai thác ngao móng tay chúa.
Địa điểm
Cà Mau
Tp. HCM (Long Hịa – Cần Giờ)
Tp. HCM (Thạnh An – Cần Giờ)

Số lượng ghe khai thác
(chiếc)
143
(35 – 250)
5
(4 – 5)
70
(50 – 100)

Số lượng người khai thác

(người)
138,46 ± 91,10
(105 – 750)
8,33 ± 0,82
(8 – 10)
71
(50 – 100)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, số trong dấu ngoặc là giá trị nhỏ nhất và
lớn nhất; Nguồn từ: số liệu thứ cấp và phỏng vấn cán bộ quản lý từ Chi cục Thủy sản Cà Mau và Tp. HCM.

Ngư cụ tham gia khai thác NMTC: Ngư
dân ở Cà Mau và Tp. HCM đều sử dụng ngư
cụ giống như nhau gồm: vỏ/ghe composite, kết
hợp bình chứa ơxy và dây dẫn ơxy, kính lặn, cào
sắt, túi lưới. Người khai thác phải lặn và đi dưới
đáy biển để kéo cào, phát hiện hang NMTC và
dùng tay để bắt.
3.1.2. Đặc điểm mùa vụ và địa điểm khai
thác ngao móng tay chúa
Mùa vụ khai thác NMTC: Kết quả điều tra
ngư dân khai thác NMTC ở Cà Mau cho thấy
NMTC có thể khai thác quanh năm. Tuy nhiên,
thời gian có nhiều NMTC nhất từ tháng 1 đến

tháng 6 và khai thác ít vào tháng 6 đến tháng 12
(Hình 1). Có nhiều ngư dân khai thác NMTC
được nhiều vào tháng 1 đến tháng 6, nhiều nhất
là tháng 4 với 24 ngư dân khai thác được nhiều
và rất ít ngư dân khai thác được nhiều từ tháng

7 đến tháng 12. Ở Tp. HCM, thời điểm khai thác
nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 6 và từ tháng
10 đến tháng 11 hàng năm. Thời điểm thấp nhất
từ 1 đến tháng 3 và từ tháng 7 đến tháng 9. Một
điểm ghi nhận chung của hai vùng nghiên cứu
đó là thời điểm khai thác được nhiều sẽ tập trung
từ tháng 4 đến tháng 6.

Hình 1. Diễn biến số ngư dân khai thác NMTC theo tháng hoạt động ở Cà Mau.
(Tháng khai thác được ít/nhiều: theo tự đánh giá của hộ điều tra, so sánh theo sản lượng khai thác
NMTC của họ qua các tháng trong năm).
6

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Địa điểm, khu vực khai thác NMTC: Kết
quả điều tra cho thấy ở tỉnh Cà Mau NMTC
được khai thác nhiều ở Hòn Khoai, Rạch Tàu,
Gị Cơng và Đất Mũi; trong khi, các địa điểm
còn lại như Rạch Gốc, Hố Rùi, Hàng Ngang,
Hàng Đáy, Tam Giang, Ơng Trang, Sào Lưới
thì khai thác ít hơn (Hình 2). Kết quả điều tra

này về cơ bản tương tự với kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Quốc Thể (2016) về khu vực khai
thác NMTC tại Cà Mau trước đây. Ở Tp. HCM,
ngư dân khai thác cho biết có sự phân bố của

NMTC ở biển Cần Giờ, bãi bồi quanh xã Thạnh
An, bãi Hàng Cồn, biển Cần Giờ, bãi Gò Chó,
bãi Tàu Chìm, bãi Ơng Biện.

Hình 2. Số ngư dân khai thác phân theo địa điểm khai thác NMTC ở Cà Mau.
3.1.3. Phân bố NMTC theo chiều rộng,
chiều dọc và độ sâu hang
Phân bố NMTC theo chiều rộng: Ở Cà
Mau, NMTC được đánh bắt và phân bố khu vực
gần bờ nhất là 0 – 7 km, khu vực cách xa bờ
nhất là 7 – 30 km tính từ bờ (đất liền); NMTC
phân bố khu vực gần bờ nhất đạt là 2,54 ± 3,42
km và khu vực xa nhất là 18,04 ± 5,48 km. Ở
Tp. HCM, NMTC có thể được khai thác khu
vực phân bố gần nhất là cách bờ 4 – 6 km, vị
trí xa nhất là cách bờ 7 – 12 km; NMTC phân
bố khu vực gần bờ nhất đạt trung bình là 5,00 ±
0,63 km và khu vực xa nhất là 9,83 ± 1,60 km.
Phân bố NMTC theo chiều dọc: Ở Cà Mau,
NMTC đã được khai thác ở độ sâu mực nước
cạn nhất là 0 – 5 m, sâu nhất là 5 – 20 m; và
khu vực có độ sâu mực nước cạn nhất đạt giá trị
trung bình là 1,15 ± 1,19 m và sâu nhất là 10,23

± 4,55 m. Kết quả này gần tương tự như kết quả
khảo sát của Chi cục Thủy sản Cà Mau (2016),
NMTC phân bố cách bờ 2 – 10 hải lý và độ sâu
mực nước 4 – 18 m. Ở Tp. HCM, độ sâu mực
nước cạn nhất 1 – 6 m, sâu nhất là 9 – 14 m; và
khu vực có độ sâu mực nước cạn nhất 4,33 ±

2,25 m và sâu nhất là 10,00 ± 2,00 m.
Phân bố NMTC theo độ sâu hang: Ở Cà
Mau, kết quả khảo sát cho thấy 100% số hộ
khảo sát cho biết NMTC đánh bắt được sống
trong hang đất. Độ sâu hang cạn nhất là 15 – 80
cm và hang sâu nhất từ 80 – 150 cm. Vị trí có
thể bắt được NMTC kích thước nhỏ (kích cỡ
con giống, khơng bán để ăn) là ở hang với độ
sâu 5 – 80 cm, và NMTC kích thước lớn (kích
cỡ thương phẩm, bán để ăn) là ở hang có độ sâu
40 – 100 cm. Tương tự ở Cà Mau, NMTC ở Tp.
HCM cũng hầu hết sống ở trong hang (100% số

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

7


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

hộ khảo sát); hang sâu nhất là 70 – 100 cm và 53,8% số hộ khảo sát); trong khi, ở Tp. HCM thì
cạn nhất 20 – 80 cm. Vị trí bắt được NMTC kích NMTC sống ở nền đáy “mặt đáy bằng phẳng”
thước nhỏ trong hang ở độ sâu 10 – 30 cm và cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (66,7%) (Bảng 2).
Kết quả nghiên cứu cho thấy loại “mặt đáy bằng
kích thước lớn là 20 – 70 cm.
3.1.4. Phân bố NMTC theo bề mặt và phẳng” chiếm ưu thế cho sự phân bố của NMTC,
tiếp đến là “mặt đáy bằng phẳng kết hợp với
thành phần nền đáy
Phân bố NMTC theo bề mặt nền đáy: Ở Cà dốc” cũng được nhiều ngư dân khai thác cho là
Mau, NMTC được đánh bắt thường sống ở “mặt có sự phân bố của NMTC.

đáy bằng phẳng” chiếm tỷ lệ lớn nhất (chiếm
Bảng 2. Loại mặt đáy khai thác được NMTC ở Cà Mau và Tp. HCM.
Loại mặt đáy

Bằng phẳng

Dốc

Bằng phẳng + dốc

Bằng phẳng + mấp mô

Cà Mau

53,8%

3,8%

34,6%

7,7%

Tp. HCM

66,7%

0%

16,7%


16,7%

Phân bố theo thành phần nền đáy: Thành
phần nền đáy ảnh hưởng đến sự phân bố của
kích cỡ NMTC khai thác khác nhau ở Cà Mau
được trình bày trong Hình 3. Theo kinh nghiệm
của người khai thác thì NMTC đánh bắt với
kích cỡ nhỏ (nhóm kích thước 20 - 30 con/kg;
hoặc 33-50 g/con) phân bố chủ yếu ở nền đáy
“bùn nhiều hơn cát”. Cịn NMTC đánh bắt với

kích cỡ trung bình (nhóm kích thước 10 - <20
con/kg, hoặc >50-100 g/con) thì phân bố chủ
yếu ở nền đáy có cát nhiều hơn. Tương tự như
vậy, NMTC đánh bắt với kích cỡ lớn (nhóm
kích thước <10 con/kg, hoặc >100 g/con) và cỡ
trung bình xuất hiện nhiều ở mơi trường với nền
đáy bùn và cát bằng nhau.

Hình 3. Thơng tin về nền đáy nơi khai thác NMTC ở Cà Mau.
Có sự khác biệt về thành phần nền đáy nơi
khai thác được NMTC ở Tp. HCM so với ở Cà
Mau, ngư dân ở Tp. HCM cho biết NMTC có
kích cỡ nhỏ thì bắt được ở nơi có nền đáy “bùn
8

và cát bằng nhau” nhưng NMTC kích cỡ lớn và
trung bình bắt được ở nơi nền đáy có tỷ lệ bùn
nhiều hơn cát (Hình 4).


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 4. Thơng tin về nền đáy nơi khai thác NMTC ở Tp. HCM.
3.1.5. Kích cỡ, số lượng, khối lượng và
tiêu thụ NMTC
Kích cỡ và số lượng khai thác NMTC: Kích
cỡ NMTC lớn nhất đánh bắt được ở Cà Mau là
4 con/kg, nhỏ nhất 40 con/kg, trung bình là 22
con/kg (Bảng 3). Kết quả tương tự đã được ghi
nhận trong nghiên cứu của Nguyễn Quốc Thể
(2016), kích cỡ khai thác loại lớn nhất từ 7 con/
kg, loại nhỏ có kích cỡ 40 con/kg. Mỗi ghe khai

thác trung bình 16.940 con NMTC/năm và tổng
số con tất cả các ghe khai thác được 2.422.420
con/năm. Tương tự như vậy, Tp. HCM có kích
cỡ NMTC lớn nhất khai thác được là 3 – 9 con/
kg, nhỏ nhất 18 – 22 con/kg, trung bình là 13
con/kg, ước lượng mỗi ghe khai thác trung bình
3.003 con/năm và tổng số con tất cả các ghe
khai thác được 15.015 con/năm.

Bảng 3. Kích cỡ và số lượng NMTC đã khai thác năm 2018.
Địa điểm

Cà Mau
Tp. HCM


Kích cỡ khai
thác (con/kg)

Số lượng mỗi ghe khai thác
theo năm (con/ghe/năm)

Tổng số lượng khai thác theo
năm (con/năm)

22
(4 – 40)
13
(3 – 22)

16.940
(3.388 – 30.492)
3.003
(1.716 – 4.290)

2.422.420
(484.484 – 4.360.356)
15.015
(8.580 – 21.450)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình, số trong dấu ngoặc là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất.

Sản lượng khai thác NMTC: Ở Cà Mau,
mỗi ghe khai thác được trung bình 3,65 ± 2,07
kg/ghe/ngày (1 – 9 kg/ghe/ngày) (Bảng 4). Ước

tính khối lượng trung bình 1 năm mỗi ghe khai
thác 770 kg/ghe/năm (154-1.386 kg/ghe/năm)
và tổng số khối lượng tất cả các ghe khai thác
ở Cà Mau 110.110 kg/năm (22.022-198.198 kg/

năm). Ở Tp. HCM, mỗi ghe khai thác được 2,50
± 1,22 kg/ghe/ngày (2 – 5 kg/ghe/ngày). Ước
tính khối lượng trung bình mỗi ghe khai thác
231 kg/ghe/năm (132-330 kg/ghe/năm) và tổng
số khối lượng tất cả các ghe khai thác ở Long
Hịa 1.155 kg/năm.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

9


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 4. Ước lượng khối lượng NMTC đã được bắt năm 2018.
Địa điểm

Khối lượng mỗi ghe khai
Khối lượng mỗi ghe bắt
thác theo ngày (kg/ghe/ngày)
theo năm (kg/ghe)
3,65 ± 2,07
770
Cà Mau
(1 – 9)

(154 – 1.386)
2,50 ± 1,22
231
Tp. HCM
(2 – 5)
(132 – 330)

Tổng khối lượng khai thác
theo năm (kg/năm)
110.110
(22.022 – 198.198)
1.155
(660 – 1.650)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, số trong dấu ngoặc
là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất.

Nơi tiêu thụ và giá bán NMTC: Ở Cà Mau,
cơ sở/đại lý thu mua NMTC và tiêu thụ chủ yếu
ở Tp. HCM, Vũng Tàu, Tp. Cà Mau, Đà Nẵng,
Phú Quốc, với giá bán NMTC loại nhất (8 – 12
con/kg): 480.000 – 500.000 đồng/kg, loại nhì
(12 – 20 con/kg): 300.000 đồng/kg. Trong khi,
ngư dân khai thác thì bán cho cơ sở/đại lý thu
mua với giá loại lớn (8 – 12 con/kg) là 400.000
- 450.000 đồng/kg và loại nhỏ (12 – 20 con/kg)
là 190.000 - 300.000 đồng/kg. Ở Tp. HCM, sản
lượng NMTC khai thác được đều bán thông qua
cơ sở/đại lý thu mua với mức giá loại lớn (8 –
12 con/kg): 400.000 đồng/kg, loại nhỏ (12 – 20

kg): 200.000 đồng/kg.
3.2. Thảo luận
3.2.1. Liên hệ mùa vụ khai thác, tập tính
sống và phân bố NMTC đến giải pháp kỹ thuật
cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống
Mùa vụ khai thác và kích cỡ NMTC: Kết
quả điều tra đã ghi nhận ở Cà Mau NMTC phân
bố ở vùng gần bờ nhất là 2,54 km và vùng xa
nhất là 18,04 km; phân bố tại vùng có độ sâu
mức nước cạn nhất là 1,15 m và sâu nhất là sâu
nhất là 10,23 m. Mùa vụ khai thác NMTC nhiều
nhất từ tháng 1 đến tháng 6 và ít vào tháng 6
đến tháng 12. Trong khi đó, ở Tp. HCM khai
thác nhiều nhất từ tháng 4-6, 10-11 và ít nhất
từ tháng 1-3 và 7-9; phân bố vùng gần bờ nhất
là 5,00 km và vùng xa nhất là 9,83 km, phân
bố tại vùng có độ sâu mức nước cạn nhất 4,33
m và sâu nhất là 10,00 m. Kết quả nghiên cứu
cũng tương tự với những nghiên cứu gần đây
10

về đối tượng này của Nguyễn Đức Minh (2015;
2021), Nguyễn Quốc Thể (2016) Theo Nguyễn
Quang Hùng và Hoàng Đức Triều (2009), qua
kết quả điều tra về khu hệ động vật đáy ven biển
nước ta đã ghi nhận NMTC phân bố tự nhiên
dọc theo các vùng bãi triều nông có độ sâu 2-6
m, có nền đáy là bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất
hữu cơ, độ mặn từ 18-30‰, nơi ít bị ảnh hưởng
bởi sóng gió, rừng ngập mặn nơi có nguồn nước

ngọt chảy vào từ Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Giờ
đến Cà Mau. NMTC sống trong tầng đáy bùn
cát ở nơi có thủy triều lên xuống và cũng được
tìm thấy trong vùng nước nông. NMTC thường
phân bố phổ biến ở những vùng có khí hậu nhiệt
đới như Ấn Độ-Tây Thái Bình Dương, Trung
Quốc, Indonesia và Việt Nam (Hylleberg và
Kilburn, 2003).
Mùa vụ khai thác được nhiều NMTC tập
trung vào tháng 4-6 hiện nay khơng rơi vào mùa
vụ sinh sản chính của NMTC ngồi tự nhiên,
đây có thể xem là thời điểm cần tiến hành thu
thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần dưỡng và
nuôi vỗ thành thục để phục vụ cho việc sản xuất
giống. Theo Nguyễn Chính (1996) thì mùa sinh
sản của NMTC ngoài tự nhiên kéo dài từ cuối
tháng 9 đến tháng 1 năm sau với thời kỳ đỉnh
điểm diễn ra từ giữa tháng 10 và giữa tháng 11.
Động vật thân mềm hai mảnh vỏ thường sinh
sản và thụ tinh ngồi mơi trường nước nên quần
thể mới phụ thuộc rất lớn vào điều kiện môi
trường. Mùa vụ sinh sản NMTC cũng như động
vật thân mềm nói chung phụ thuộc rất nhiều

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

vào lồi và điều kiện mơi trường sống (Nguyễn

Chính, 1996). Bên cạnh việc xác định mùa vụ,
việc lựa chọn để thu thập NMTC bố mẹ cũng
cần được chú ý trong thời điểm khai thác tập
trung cao trong tháng 4-6, vì kết quả nghiên cứu
cho thấy kích cỡ khai thác biến động lớn giữa
hai điểm nghiên cứu (kích cỡ khai thác trung
bình đạt 22 con/kg ở Cà Mau và 13 con/kg ở Tp.
HCM); trong khi theo nghiên cứu gần đây thì
NMTC thành thục sinh dục và có khả năng tham
gia sinh sản ở kích cỡ trên 100 g, chẳng hạn
Nguyễn Quốc Thể (2016) đã ghi nhận NMTC
có kích thước sinh sản lần đầu từ 12 cm trở lên
(trọng lượng cơ thể từ 120g trở lên, chiều cao
4-4,5 cm chiều dầy 1,7-2,2cm). Kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Đức Minh (2021) cũng cho
biết NMTC thành thục sinh dục và có khả năng
cho tham gia sinh sản với chiều dài từ 13-15
cm, chiều rộng khoảng 4-4,5 cm với độ dày của
thân 1,7-2,2 cm và khối lượng khoảng 100-150
g/con. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Minh
(2015), trong điều kiện được kích thích sinh
sản, sức sinh sản thực tế của các nhóm NMTC
dao động từ 1,6-1,8 triệu trứng/con/lần sinh
sản. Sức sinh sản sẽ bị tác động bởi chất lượng
thành thục của con bố mẹ và hiệu ứng do kích
thích sinh sản cũng như khối lượng bố mẹ. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng một số lồi có tuyến sinh
dục thành thục quanh năm và do đó có thể tham
gia sinh sản quanh năm, nhưng có những lồi có
tuyến sinh dục thành thục trong những mùa nhất

định. Quá trình sinh sản của động vật thân mềm
hai mảnh vỏ trong tự nhiên phụ thuộc vào lồi
và vùng phân bố. Sinh sản có thể bị kích thích
bởi nhiều yếu tố mơi trường như: nhiệt độ, hố
chất, tác nhân kích thích tự nhiên, tình trạng của
nguồn nước hoặc sự kết hợp một số yếu tố khác
(Nguyễn Chính, 1996).
Tập tính sống và đặc điểm phân bố NMTC:
Bên cạnh tính mùa vụ thì tập tính sống trong
hang, sống trên nền đáy bằng phẳng và nền đáy
có tỷ lệ cát cao hơn bùn ở Cà Mau và tỷ lệ bùn

lớn hơn cát ở Tp. HCM cũng cho thấy đây là
những điều kiện cần được quan tâm khi thu thập
NMTC bố mẹ và tiến hành nuôi thuần dưỡng và
nuôi vỗ. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy
chất nền đáy là một yếu tố ảnh hưởng đến sự
thành cơng của q trình ni vỗ nhất là đối với
những lồi có tập tính đào hang như ngao móng
tay với kích thước chân đào chiếm đến 1/3 thể
tích cơ thể. Chẳng hạn, Garcia và ctv. (2008)
đã thực hiện nuôi vỗ ngao móng tay Ensis
macha được thực hiện trong bể composite hình
chữ nhật có lớp cát dày 30-40 cm, được cung
cấp thức ăn liên tục với hỗn hợp tảo Isocrhysis
galbana và Chaetoceros muelleri (300,000 tb/
mL). Hệ thống nuôi này cũng tương tự trong
ni vỗ ngao móng tay Ensis siliqua (Costa và
ctv., 2011). Trong hệ thống này, mật độ nuôi vỗ
được giữ từ 140-160 cá thể/m2, ở mật độ cao

hơn có thể sẽ cản trở việc đào hang của vật ni.
Ngao móng tay vùi mình trong chất nền trong tự
nhiên, chúng ăn hiệu quả hơn nếu chúng được
giữ trong một chất nền phù hợp. Vùi mình trong
chất nền thì việc tách vỏ được hạn chế nên tăng
tỷ lệ sống. Tỷ lệ sống của ngao móng tay bố mẹ
ni trong hệ thống này thường trên 90%, cho
thấy đây là một hệ thống nuôi phù hợp với loài
này (Garcia và ctv., 2008).
3.2.2. Liên hệ tập tính sống, phân bố
NMTC đến giải pháp kỹ thuật cho phát triển
ni thương phẩm
Tập tính sống trong hang đất: Người dân
khai thác NMTC cho biết NMTC hầu hết sống
trong hang đất (100% số hộ khảo sát xác nhận,
với độ sâu hang cạn nhất từ 31,67 cm và hang
sâu nhất 94,23 cm). Kết quả này cho thấy khi
đưa đối tượng NMTC vào ni thương phẩm
thì việc thiết kế điều kiện sống là rất quan trọng,
trong đó việc thiết kế hang để thả giống giai đoạn
đầu vụ nuôi cần được quan tâm thực hiện, đồng
thời cũng tránh rủi ro do địch hại gây ra đối với
NMTC trong vụ nuôi. Theo Nguyễn Đức Minh
(2021) thì NMTC có kích cỡ khá lớn và khơng

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

11



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thuận tiện cho quá trình di chuyển tìm nơi định
cư mới, và việc di chuyển sẽ khiến NMTC dễ
gặp nguy hiểm trước những động vật ăn thịt
hơn nên chúng chọn cách sống suốt cuộc đời
trong cái hang của mình, chỉ trừ khi có thiên tai
hay yếu tố nào khác của môi trường ảnh hưởng
phá hủy mất hang, khiến chúng di chuyển thụ
động đến khu vực khác (Yan, 1991). Theo Yang
(1991) thì NMTC có tập tính sống trong hang
và di chuyển theo chiều dọc trong lớp bề mặt
cát nằm phía trên nhờ vào sự co rút của cơ chân.
Khi di chuyển, chân đào bùn cát, sau phình to
móc vào đất rồi kéo phần cịn lại của cơ thể.
Chỉ cần một vài lần co cơ là chúng vùi cơ thể
sâu xuống bùn cát. Khi thuỷ triều lên NMTC
di chuyển lên trên hang để tìm kiếm thức ăn,
hai ống hút và thốt nước thị ra ngồi để lọc
thức ăn từ nước biển xung quanh. Khi thuỷ triều
xuống thấp chúng lui sâu xuống hang để ẩn nấp
lẩn tránh kẻ thù. Độ sâu và đường kính của hang
phụ thuộc vào kích cỡ của NMTC, chất nền và
mùa vụ (Nguyễn Đức Minh, 2015; Nguyễn
Quốc Thể, 2016; Nguyễn Đức Minh, 2021).
Độ sâu của hang thường gấp 5-8 lần chiều dài
của vỏ, từ 30-50 cm (Yang, 1991; Nguyễn Đức
Minh, 2021).
Đặc điểm phân bố nơi sinh sống: Kết quả
điều tra cho thấy NMTC phân bố theo bề mặt

đáy bằng phẳng là chính, điều này cũng khá phù
hợp với đề xuất về chọn địa điểm nuôi thương
phẩm NMTC của Nguyễn Đức Minh (2021).
Các bãi ni thích hợp thường nằm gần các cửa
biển nhỏ lưu lượng nước vừa phải, nội đồng ít
có các hoạt động nơng nghiệp, cơng nghiệp.
Hình thức ni được khuyến cáo là nuôi đặt bãi,
đây là kiểu nuôi phù hợp với các bãi biển chịu
nhiều tác động của thời tiết, sóng gió; tuy nhiên
bãi ni phải bằng phẳng. Kết quả nghiên cứu
này đánh giá về phân bố NMTC theo nền đáy đã
ghi nhận ở Cà Mau NMC kích thước nhỏ sơng
ở đáy có bùn nhiều hơn cát, NMTC kích thước
lớn và trung bình ở đáy cát nhiều hơn; trong khi,
12

ở Tp. HCM lại ghi nhận NMTC nhỏ sống ở nơi
có đáy bùn và cát bằng nhau nhưng con lớn và
trung bình bắt được ở nơi đáy có bùn nhiều hơn
cát. Như vậy, khi phát triển ni NMTC thì việc
thiết kế nền đáy ao, đầm và bãi nuôi NMTC cần
được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện
tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển. Kết
quả các thí nghiệm ni thương phẩm NMTC
trên bãi triều tại Cần Giờ gần đây (Nguyễn Đức
Minh, 2021) cho thấy nuôi NMTC thương phẩm
với mật độ 10 con/m2 là có tiềm năng, nhưng
cũng cần lưu ý rằng các địa điểm khác nhau
có thể có tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống khác
nhau của NMTC ở giai đoạn nuôi thương phẩm.

Nghiên cứu về chất nền đáy của quá trình ương
giống NMTC của Nguyễn Quốc Thể (2016) đã
cho thấy nền đáy phù hợp cho ấu trùng NMTC
(giai đoạn sống đáy) phát triển là 100% là cát
mịn cho tỷ lệ sống cao nhất 30% từ giai đoạn
ấu trùng spat lên giống. Trong khi, Nguyễn Đức
Minh (2021) đã tiến hành thực hiện nhiều đợt
sản xuất giống nhân tạo NMTC, từ giai đoạn ấu
trùng đến giai đoạn giống 3 cm. Kết quả các đợt
thí nghiệm cho thấy tỷ lệ sống ở giai đoạn con
giống phụ thuộc vào chất liệu nền đáy, tỉ lệ sống
con giống NMTC đạt tỷ lệ sống ở nghiệm thức
2 (sử dụng nền đáy: 100% cát) cho kết quả cao
nhất, tỷ lệ đạt 3,16%, so với nghiệm thức 1 (chất
liệu nền đáy là 70% cát + 30% bùn), tỉ lệ sống
con giống đạt thấp hơn, chỉ 0,53%. Tác giả cũng
đưa ra nhận định tỉ lệ sống rất thấp ở chất liệu
nền đáy là cát và bùn (nghiệm thúc 1) do môi
trường nước dễ bị ô nhiễm. Do bùn chứa nhiều
yếu tố mầm bệnh cũng như các tác nhân hóa lý
nhưng rất khó xử lý để đảm bảo phần bùn khơng
ảnh hưởng xấu đến nước ương giống. Ngồi ra,
do đặc tính ăn lọc, khi ương giống trong chất
liệu nền đáy có bùn, giống NMTC sẽ bị cản trở
hấp thu dinh dưỡng (tảo), khi quan sát, kiểm tra
đường tiêu hóa của giống, thấy xuất hiện nhiều
hạt bùn lẫn với tảo. Điều này dẫn đến con giống
bị thiếu dinh dưỡng và chết từ từ. Nền đáy là

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

điều kiện khá quan trọng đến sinh trưởng phát
triển của động vật hai mảnh vỏ nói chung và
NMTC nói riêng. Nghiên cứu trên đối tượng
nghêu, tác giả Lê Thị Thanh (2014) đã cho thấy
nền đáy có ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ
sống của nghêu ở giai đoạn giống cấp 1 đến
cấp 2. Sử dụng nền đáy cát - bùn (70% cát và
30% bùn) để ương nghêu giống cấp 1 lên giống
cấp 2 cho hiệu quả tốt nhất. Tương tự Chu Chí
Thiết và Kumar M.S. (2008), nền đáy cát - bùn
là môi trường phù hợp cho ấu trùng nghêu biến
thái thành con giống. Bên cạnh đó, Zhuang và
ctv. (2004), ngao M. meretrix ương ni ở bể
có nền đáy cát, tốc độ lọc, tốc độ tiêu hóa thức
ăn cao hơn 2-3 lần so với chúng nuôi ở nơi đáy
trơ (đáy bể). The da-Costa và ctv. (2015) cho
rằng ngao móng tay E. arcuatus ương ni từ
kích cỡ con giống 4 mm trên nền đáy khơng
bùn có tỷ lệ sống 50%, trong khi đó nếu ương
ni trên nền đáy cát có tỷ lệ sống dao động từ
80 – 90%. Trong nghiên cứu của Costa và ctv.
(2011), ngao móng tay S. Marginatus ương ni
trên nền đáy không bùn không cát cho tỷ lệ sống
81,9% so với 36,1% ở nền đáy cát mịn và 53,3%
ở nền đáy cát thơ. Kết quả tương tự đạt được với
lồi ngao móng tay E. siliqua, con giống ni

thương phẩm có tỷ lệ sống cao hơn ở nền đáy
không bùn không cát (70%) so với khi nuôi trên
nền đáy cát (33%) (da -Costa và ctv., 2015).
IV. KẾT LUẬN
NMTC được khai thác quanh năm,
nhưng tập trung cao vào thời gian tháng 4-6, và
được khai thác ở vùng phân bố gần bờ nhất là
2,54 km và xa bờ là 18,04 km, vùng có độ sâu
mức nước cạn nhất là 1,15m và sâu nhất là 10
m. NMTC được khai thác trong hang đất với
độ sâu hang từ 31,67 - 94,23 cm. NMTC phân
bố theo bề mặt đáy bằng phẳng là chính, tuy
nhiên NMTC kích thước nhỏ sống ở nền đáy
có cơ cấu tỷ lệ bùn nhiều hơn hoặc bằng tỷ lệ
cát; trong khi, NMTC kích thước lớn và trung
bình thì tỷ lệ cát nhiều hơn bùn hoặc bùn nhiều

hơn cát. NMTC được khai thác ở Cà Mau có
kích cỡ trung bình là 22 con/kg, khối lượng ghe
bắt trung bình mỗi ngày là 3,65 ± 2,07 kg/ghe/
ngày. Ở Tp. HCM cỡ trung bình là 13 con/kg,
khối lượng mỗi ghe khai thác theo ngày là 2,50
± 1,22 kg/ghe/ngày. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, từ tháng 4-6 là thời điểm thích hợp cần
tiến hành thu thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần
dưỡng và nuôi vỗ để phục vụ cho việc sản xuất
giống. Bên cạnh đó, khi đưa NMTC vào ni
thương phẩm thì việc thiết kế điều kiện sống
cho NMTC là rất quan trọng, trong đó việc thiết
kế hang, nền đáy ao/đầm/bãi nuôi NMTC cần

được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện
tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển.
LỜI CẢM ƠN: Nghiên cứu này được
thực hiện thuộc nội dung đề tài “Nghiên cứu
hồn thiện quy trình sinh sản nhân tạo và thử
nghiệm nuôi thương phẩm Ngao móng tay
chúa Cultellus maximus (Gmelin, 1791), mã số:
KHCN-TNB.ĐT/14-19/C33” trong khuân khổ
Chương trình khoa học và cơng nghệ phục vụ
phát triển vùng Tây Nam Bộ, với nguồn kinh
phí được cấp từ Bộ Khoa học và Công nghệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt
Chi cục thủy sản Cà Mau, 2016. Báo cáo về việc
khảo sát tình hình khai thác Ngao móng tay
chúa khu vực bãi bồi. Số 33/BC-KT&BVNL,
04.02.2016.
Nguyễn Chính, 1996. Nghiên cứu xây dựng quy
trình sản xuất giống nhân tạo và ni thương
phẩm Điệp (Chlamys nobilis Reeve, 1852), Hải
sâm (Actynopyga echinites Jaeger, 1883). Báo
cáo khoa học đề tài KN04 - 08, 135.
Nguyễn Quang Hùng, Hồng Đình Chiều, 2009.
Nguồn lợi động vật thân mềm hai mảnh vỏ
Bivalvia tại một số vùng rừng ngập mặn điển
hình ven biển Việt Nam. Viện nghiên cứu Hải
sản, Hải Phòng, Bản tin số 14 – tháng 10/2009.
Nguyễn Đức Minh, 2015. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học sinh sản và thăm dị khả năng sinh sản trên

Ngao móng tay chúa (Sinonovacula sp.). Báo cáo
tổng kết Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Sở khoa học
và cơng nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

13


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Nguyễn Đức Minh, 2021. Nghiên cứu xây dựng quy
trình sản xuất giống và thử nghiệm ni thương
phẩm móng tay chúa tại Cần Giờ. Báo cáo khoa
học, Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, Tp.
Hồ Chí Minh.
Trần Thế Mưu và Vũ Văn Sáng, 2013. Ảnh hưởng
của thức ăn đến tỷ lệ thành thục của tu hài mẹ và
tỷ lệ sống của ấu trùng (Lutraria philippinarum).
Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số
1: 24-29.
Lê Thị Thanh, 2014. Ảnh hưởng của độ mặn, mật
độ và nền đáy đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của
nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851)
từ giai đoạn giống cấp 1 lên giống cấp 2 trong
điều kiện sản xuất. Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp.
Trần Trung Thành, 2017. Kết quả khoa học cơng
nghệ “Xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất
giống nhân tạo và thử nghiệm nuôi thương phẩm
móng tay dài Solen vagina Linnaeus, 1758 tại
Khánh Hịa”, Nha Trang: 48-53.

Nguyễn Quốc Thể, 2016. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học và thử nghiệm cho sinh sản giống ngao móng
tay chúa (Cultellus maximus) tại tỉnh Cà Mau.
Báo cáo khoa học Đề tài cấp tỉnh, Sở khoa học
và công nghệ tỉnh Cà Mau, Cà Mau.
Chu Chí Thiết, Kumar M. S., 2008. Tài liệu về kỹ
thuật sản xuất giống ngao Bến Tre Meretrix
lyrata (Sowerby, 1851). Phân viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ (ARSINC):
36 trang
Nguyễn Thị Xuân Thu, 2005. Kỹ thuật sản xuất
giống và nuôi động vật thân mềm. Giáo trình cao
học, 193 trang.

14

Tài liệu tiếng Anh
Costa, F., Nóvoa, S., Ojea, J. and Martínez-Patiđo, D.,
2011. Razor clam culture in Galicia (NW Spain).
In: A. Guerra, C. Lodeiros, M.B. Gaspar, F. da
Costa (Eds.), Razorclams: Biology, aquaculture
and fisheries. pp. 181-285
Da Costa, F., Barreiro, B., Ojea, J., Nóvoa, S. and
Martínez-Patiđo, D., 2015. Effects of stocking
density on intermediate culture of the razor clam
Ensis arcuatus (Pharidae: Bivalvia). Aquac Res,
46: 1858–1865
Garcia, M. I. L., Duran, F. E.V., Obregon, D. A.
A., 2008. Razor clam (Ensis macha) culture in
Chile. In Razor clams: Biology, Aquaculture

and Fisheries. Edited by Alejandro Guerra Diaz,
César Lodeiros Seijo, Miguel Baptista Gaspar
and Fiz da Costa González
Hylleberg, J., Kilburn, R.N., 2003. Marine molluscs
of Vietnam - Polyplacophora, Gastropoda,
Cephalopoda, Bivalvia, Scaphopoda. Phuket
Marine Biological Center Special Publication.
300p: p.196
Yan, H. W., 1991. Studies on Reproductive
Physiology of Sinonovacula constricta and
Cyclina sinensis. Training manual on breeding
and culture of scallop and sea cucumber in
China. Yellow Sea Fisheries Research Institute
in Qingdao.
Zhuang, S.H., Wang, Z.Q., 2004. Influence of size,
habitat and food concentration on the feeding
ecology of the Bivalve Meretrix meretrix
Linnaeus, Aquaculture 241: 689 – 699.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

SOME LIVING ENVIRONMENTAL CHARACTERISTICS AND
DISTRIBUTION OF RAZOR CLAM RELATE TO DIRECTIONS FOR
REPRODUCTION AND GROW-OUT FARMING DEVELOPMENT
Tran Ngoc Hieu11, Dinh Kim Dieu1, Ngo Minh Ly1, Nguyen Thanh Ha1,
Nguyen Quoc The1, Vu Anh Tuan1*
ABSTRACT

Razor clam is an aquatic species with high economic value and is also considered a relatively new
and potential aquaculture species. This study aims to assess the current status of fishing practices,
some living environmental characteristics and distribution of the razor clam in Ca Mau province
and Ho Chi Minh city, and propose technical solutions for developing seed production and grow-out
farming of this species. Applying the fishing household’s survey method is to collect information
and research data. From March to May 2019, the household survey was conducted by using a
structured-questionnaires. A total of 38 fishing households were selected for the interview, of which
26 were in Ca Mau province and 12 were in Ho Chi Minh City. Descriptive statistics were used
to analyze data, present and interpret survey data. Results shown that the razor clams are captured
all year round, but highly concentrated fishing season in the period from April to June in the study
area, and they were exploited in the area near the shore with distance of 2.54 km and offshore with
distance of 18.04 km, the shallowest water depth was 1.15 m and the deepest was 10 m. The razor
clams were exploited and found living in earth caves with a cave depth of 31.67 - 94.23 cm. The
razor clams are mainly lived on the flat bottom surface. Small size razor clams have lived on the
bottom that has a structure with more mud than or equal to sand; while for the large and medium
sized razor clams, the ratio between sand and mud depends on the conditions of the fishing habitats.
The razor clams caught in Ca Mau was an average size of 22 individuals/kg, the average catch of
fishing boat per day was 3.65 ± 2.07 kg/boat/day; while, in Ho Chi Minh city the average size of
the razor clams was 13 individuals/kg, the catch of each fishing boat per day was 2.50 ± 1.22 kg/
boat/day. Results also showed that the highly concentrated fishing season that is the suitable time
necessarily to collect the razor clam bloodstocks for domesticating and rearing for seed production.
In addition, when develop grow-out farming of the razor clam, it is very important to design living
conditions for this species, in which the design of earth caves, pond bottoms should be focused on
to ensure good conditions for growing and developing of the razor clams.
Keywords: Razor clam, distribution, fishing, Ca Mau, HCMC.

Người phản biện: PGS. TS. Thái Thanh Bình

Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước


Ngày nhận bài: 15/6/2021

Ngày nhận bài: 15/6/2021

Ngày thông qua phản biện: 28/6/2021

Ngày thông qua phản biện: 28/6/2021

Ngày duyệt đăng: 29/6/2021

Ngày duyệt đăng: 29/6/2021

Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

15


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ẢNH HƯỞNG CỦA THÀNH PHẦN CHẤT ĐÁY VÀ MẬT ĐỘ ƯƠNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG ẤU TRÙNG NGAO MÓNG TAY
CHÚA Cultellus maximus (Gmelin, 1791) GIAI ĐOẠN ĐÁP ĐÁY
(1 mm) LÊN GIỐNG (1 cm)
Đinh Kim Diệu1*, Trần Ngọc Hiểu1, Ngô Minh Lý1, Tiêu Thanh Tươi1,
Nguyễn Quốc Thể1, Vũ Anh Tuấn1


TĨM TẮT
Ngao móng tay chúa (Cultellus maximus) là lồi thuộc nhóm hai mảnh vỏ (Bivalvia), có giá trị dinh
dưỡng và kinh tế cao. Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu được tiến hành liên quan
đến sản xuất giống nhân tạo ngao móng tay chúa và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm khảo sát ảnh hưởng của thành phần chất đáy và mật độ ương đến
tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay chúa ương từ giai đoạn đáp đáy (1 mm) lên
giống 1 cm.
Hai thí nghiệm đã được thực hiện trong nghiên cứu này. Thí nghiệm 1 khảo sát ảnh hưởng của thành
phần chất đáy với hai tỉ lệ bùn : cát khác nhau (90:10 và 70:30). Thí nghiệm 2 khảo sát ảnh hưởng
của 3 mật độ ương khác nhau (10.000 con/m2, 15.000 con/m2 và 20.000 con/m2). Kết quả của thí
nghiệm khảo sát thành phần của chất đáy cho thấy, khơng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nghiệm thức bổ sung chất đáy và nghiệm thức đối chứng (không bổ sung chất đáy) về tốc độ tăng
trưởng về khối lượng và chiều dài của ấu trùng ngao móng tay chúa. Tuy nhiên việc bổ sung chất
đáy có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đối với tỉ lệ sống của ấu trùng, với tỉ lệ sống của ấu trùng
giai đoạn giống 1cm là 67,7% và 71%, lần lượt đối với hai nghiệm thức với tỉ lệ bùn:cát là 90:10
và 70:30.
Kết quả của thí nghiệm khảo sát các mật độ ương khác nhau cho thấy, tốc độ tăng trưởng về khối
lượng và chiều dài và tỉ lệ sống của ấu trùng đều không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 3 mật độ
ương. Vì vậy, có thể chọn mật độ phù hợp cho ấu trùng ngao móng tay chúa giai đoạn đáp đáy lên
giống 1 cm là 20.000 con/m2.
Từ khóa: ấu trùng ngao móng tay chúa, mật độ ương, tỉ lệ chất đáy, tỉ lệ sống, tốc độ tăng trưởng.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, nghề nuôi động
vật thân mềm (ĐVTM) ở vùng ven biển Việt
Nam đang có xu hướng phát triển mạnh. Nhiều
lồi có giá trị như sị huyết, trai ngọc, hàu, điệp,
nghêu,… đã được nghiên cứu và nuôi thành
công, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con

người về các sản phẩm từ ĐVTM và giảm áp lực
khai thác lên quần thể ĐVTM trong tự nhiên.

Ngao móng tay chúa (Cultellus maximus) là
một loài thuộc lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia), phân
bố tự nhiên dọc theo các vùng bãi triều nông có
độ sâu 2-6m, có nền đáy là bùn mịn hoặc bùn
cát giàu chất hữu cơ, độ mặn từ 18-30‰, nơi ít
bị ảnh hưởng bởi sóng gió, hoặc rừng ngập mặn
nơi có nguồn nước ngọt chảy vào, dọc theo các
tỉnh từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cà Mau (Nguyễn
Quang Hùng và Hồng Đức Triều, 2009). Bên

Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản II
* Email:

1

16

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

cạnh đó, ngao móng tay chúa là lồi có tỷ lệ thịt
cao (60-70%) so với nhiều lồi động vật thân
mềm khác, có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh
tế. Những năm gần đây, nguồn lợi ngao móng
tay chúa trong tự nhiên suy giảm nhanh chóng,

sự suy giảm này là do nhiều nguyên nhân, trong
đó có việc mơi trường vùng cửa sơng ven biển
thay đổi và việc khai thác không hợp lý đã làm
cho nguồn lợi ngao móng tay chúa ngày càng
cạn kiệt.
Để bảo vệ và phát triển nguồn lợi, đồng thời
tạo sản phẩm cung cấp lâu dài và liên tục đáp
ứng nhu cầu của thị trường cần phải có những
đầu tư nghiên cứu, tiến tới việc chủ động sản
xuất con giống, phát triển nuôi thương phẩm.
Một số nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo
ngao móng tay chúa trước đây từ giai đoạn ấu
trùng đến giai đoạn đáp đáy (1mm) đã đạt được
một số kết quả ban đầu. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Đức Minh và ctv. (2015) và Nguyễn
Quốc Thể và ctv. (2016) cho thấy, tỷ lệ sống
ngao móng tay chúa ương từ giai đoạn ấu trùng
chữ D đến giai đoạn đáp đáy dao động trong
khoảng từ 4 – 8,89%. Kết quả của các nghiên
cứu này mở ra khả năng sinh sản nhân tạo và
ni thương phẩm đối với lồi ngao móng tay
chúa có hiệu quả kinh tế cao này. Tuy nhiên,
các nghiên cứu nói trên chưa xác định được mật
độ ương và thành phần nền đáy phù hợp theo
các giai đoạn phát triển khác nhau của ấu trùng.
Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện
nhằm bổ sung thêm thông tin về ảnh hưởng của
thành phần chất đáy và mật độ ương đến tăng
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay
chúa giai đoạn đáp đáy lên giống 1 cm. Thông

tin này là cần thiết nhằm đưa ra các giải pháp
nâng cao tỉ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay
chúa và hiệu quả kinh tế khi đưa vào sản xuất
đại trà.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại Trại thực
nghiệm thủy sản nước lợ Nam sông Hậu, Viện
Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II.
Con giống ngao móng tay chúa giai đoạn đáp
đáy, có kích thước từ 1,0 - 1,5 mm, được sử dụng
trong nghiên cứu này. Con giống được sinh sản
nhân tạo bằng phương pháp kích thích ngao bố
mẹ bằng phương pháp sốc nhiệt. Trứng thụ tinh
sau thời gian ấp (khoảng 8 – 10 giờ) sẽ nở thành
ấu trùng dạng trôi nổi (trochophore) và chuyển
sang ấu trùng dạng chữ D trong vòng 14 – 22
giờ. Sau 30 ngày ương, ấu trùng chữ D sẽ chuyển
sang giai đoạn đáp đáy (có hình dạng giống như
con trưởng thành) có kích cỡ 1,0 - 1,5 mm.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
Chuẩn bị chất đáy: Mẫu bùn và cát được
phối trộn theo các tỷ lệ khác nhau, trước khi đưa
vào bể thí nghiệm. Mẫu chất đáy được đưa đi
phân tích để xác định lại tỉ lệ bùn : cát.
Chuẩn bị nước: Nguồn nước từ ao lắng ở
Trại thực nghiệm thủy sản nước lợ Nam sơng
Hậu được bơm vào bể chứa có dung tích 8m3

qua túi lọc 20 micron. Tại đây, nước được kiểm
tra các thông số môi trường, nhằm đảm bảo
nước có độ mặn 25 - 27‰, pH dao động trong
khoảng 7,5 - 8,5; độ kiềm từ 120 – 160 ppm.
Nước trước khi cấp được xử lý với 5 – 10 ppm
EDTA, để lắng trong 24 giờ trước khi cấp vào
bể ương. Nước biển đã qua lọc và xử lý được
cấp vào bể từ từ để không xáo trộn nền đáy.
Sau đó các bể thí nghiệm được để n khoảng 3
ngày trước khi đưa con giống vào.
2.3. Bố trí thí nghiệm
Hai thí nghiệm được bố trí trong nghiên
cứu này, nhằm khảo sát ảnh hưởng của thành
phần chất đáy và mật độ ương đến tỷ lệ sống của
ấu trùng ngao móng tay chúa ương từ giai đoạn
đáp đáy (1 mm) lên giai đoạn giống (1 cm).
2.3.1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của
thành phần chất đáy đến tỷ lệ sống của ấu
trùng ngao móng tay chúa giai đoạn đáp đáy
lên giống 1 cm.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

17


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần lặp lại riêng. Độ dày của lớp chất đáy là 5cm. Thành
cho mỗi nghiệm thức với thành phần chất đáy phần chất đáy được mô tả trong Bảng 1. Mỗi bể

khác nhau, tổng cộng gồm 9 bể nhựa với thể được cấp nước đến độ cao 50 cm và được lắp 1
tích nước trong mỗi bể là 35,5 lít và diện tích viên đá khí, dây khí để duy trì hàm lượng ơxy
đáy là 710 cm2. Mỗi bể có ống thốt nước đáy hịa tan trên 5 mg/l.
Bảng 1. Mô tả và ký hiệu các nghiệm thức của thí nghiệm 1.
Mơ tả nghiệm thức

Ký hiệu

Khơng có chất đáy (đối chứng)

SS1

90% bùn : 10% cát

SS2

70% bùn : 30% cát

SS3

Các nghiệm thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn.

Mật độ giống ban đầu khoảng 10.000 con/
m (hay 1 con/cm2). Số lượng giống của từng

nghiệm thức và tổng lượng giống được mô tả
ở Bảng 2.

2


Bảng 2. Số lượng con giống ở các nghiệm thức của thí nghiệm 1.
Nghiệm thức
SS1
SS2
SS3
TỔNG

Số lượng (con)
710
710
710

Số lần lặp lại
3
3
3

Tổng số (con)
2130
2130
2130
6.390

2.3.2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của mật Thiết kế bể ương tương tự như ở thí nghiệm 1.
độ ương đến tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng Tất cả các bể được bố trí chất đáy giống nhau
với tỷ lệ bùn:cát là 70:30. Viên đá sục khí được
tay chúa giai đoạn đáp đáy lên giống 1 cm.
Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần lặp lại bố trí nằm cách đáy 5 cm để không xáo trộn nền
cho mỗi nghiệm thức với các mật độ ương khác đáy. Mật độ ương ở các nghiệm thức được mô
nhau, tổng cộng gồm 9 bể nhựa có thể tích nước tả ở Bảng 3.

mỗi bể là 35,5 lít và diện tích đáy là 710 cm2.
Bảng 3. Mô tả và ký hiệu các nghiệm thức của thí nghiệm 2.
Mơ tả nghiệm thức

Ký hiệu

Mật độ 10.000 con/m (1 con/cm )
Mật độ 15.000 con/m2 (1,5 con/cm2)
Mật độ 20.000 con/m2 (2 con/cm2)
2

SD1
SD2
SD3

2

Các nghiệm thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên hồn tồn.

Số lượng giống của từng nghiệm thức và tổng lượng giống được mô tả ở Bảng 4.
Bảng 4. Số lượng con giống ở các nghiệm thức của thí nghiệm 2.
Nghiệm thức

Mật độ (con/cm2)

SD1

1,0

710


3

2.130

SD2

1,5

1.060

3

3.180

SD3

2,0

1.520

3

4.560

3.290

9

9.870


TỔNG
18

Số lượng (con/bể) Số lần lặp lại (bể) Tổng số con giống

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Đối với cả hai thí nghiệm, ấu trùng được
cho ăn hỗn hợp tảo tươi gồm Nannochloropsis
oculata, Isochrysis galbana, Chaetoceros
calcitrans theo tỷ lệ về thể tích là 1:1:3. Ban
đầu mỗi bể được cấp khoảng 2 lít hỗn hợp tảo
chia làm 2 lần mỗi ngày (7 giờ – 9 giờ sáng và 4
giờ – 6 giờ chiều). Lượng tảo cho ăn được điều
chỉnh tăng/giảm dựa vào nhu cầu thực tế của ấu
trùng trong từng bể ương. Bổ sung thức ăn tổng
hợp khi nguồn tảo tươi thiếu hoặc chất lượng
tảo không đảm bảo.
Nước được thay mỗi ngày 1 lần với thể tích
50%. Nguồn nước được xử lý như đã nêu ở phần
2.2, và được lọc qua lưới 20 micron để đảm bảo
khơng có động vật phù du hay ấu trùng nhuyễn
thể từ bên ngoài vào trong bể ương.
2.4. Thu thập và xử lý số liệu
Các chỉ tiêu mơi trường: Nhiệt độ và ơxy
hịa tan đo bằng máy đo ôxy cầm tay vào lúc

7-8 giờ sáng hàng ngày. Các chỉ tiêu độ mặn,
pH, kiềm tổng số, COD được đo định kỳ 15
ngày/lần.
Khối lượng ấu trùng được xác định bằng
cân điện tử 4 số lẻ. Chiều dài được xác định
bằng thước kẹp điện tử.
Trước khi bắt đầu thí nghiệm, cân và đo
chiều dài 30 cá thể/bể. Vào thời điểm kết thúc
thí nghiệm, cân và đo tồn bộ số cá thể còn
sống, đồng thời xác định tỉ lệ sống.
Tỉ lệ sống (SUR) ấu trùng được xác định
theo công thức:
SUR (%) = (FLN/ILN) x 100
Trong đó:
+ ILN là số lượng ấu trùng ở thời điểm bố
trí thí nghiệm.
+ FLN là số lượng ấu trùng ở thời điểm kết
thúc thí nghiệm.
Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu theo khối lượng
(SGR, %/ngày) của ấu trùng được xác định theo

công thức của Ball và Jones (1960) như sau:
SGR (%/ngày) = [(lnFW – lnIW)/(t2 - t1)]
x 100
Trong đó:
+ IW  : Khối lượng tại thời điểm bố trí
thí nghiệm t1
+ FW  : Khối lượng tại thời điểm kết
thúc thí nghiệm t2
Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu theo chiều dài

(SLR, %/ngày) của ấu trùng được xác định theo
công thức:
SLR (%/ngày) = [(lnFL – lnIL)/(t2 - t1)] x
100
Trong đó:
+ IL : Chiều dài vỏ tại thời điểm bố trí
thí nghiệm t1
+ FL  : Chiều dài vỏ tại thời điểm kết
thúc thí nghiệm t2
Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm
SPSS 22.0. Phân tích phương sai (ANOVA)
một yếu tố để so sánh giá trị trung bình giữa
các nghiệm thức với mức ý nghĩa 0,05. Sử dụng
kiểm định LSD để xác định mức độ khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của thành phần chất đáy
đến tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay
chúa giai đoạn đáp đáy lên giống 1 cm (Thí
nghiệm 1)
3.1.1. Các thông số chất lượng nước
Các yếu tố môi trường trong các nghiệm
thức thí nghiệm được theo dõi ít biến động và
duy trì trong khoảng thích hợp cho ấu trùng
ngao móng tay chúa phát triển (Bảng 5). Tất cả
những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi để đánh
giá đúng thành phần chất đáy phù hợp cho ương
nuôi ấu trùng ngao móng tay chúa giai đoạn đáp
đáy lên giống 1cm.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

19


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 5. Các yếu tố mơi trường của các nghiệm thức thí nghiệm.
Chỉ tiêu
Nhiệt độ (oC)
Ơxy hịa tan (mg/L)
pH
Kiềm (mg/L)
Độ mặn (o/oo)
COD (mg/L)

SS1

SS2

SS3

29,1 – 29,7
(29,6±0,18)
5,50 – 5,64
(5,61±0,12)
8,2 – 8,5

29,1 – 29,7
(29,6±0,18)

5,50 – 5,68
(5,62±0,13)
8,2 – 8,5

29,1 – 29,7
(29,6±0,18)
5,50 – 5,70
(5,63±0,12)
8,2 – 8,5

(8,4±0,16)
107 – 143
(133±13,08)
24,0 – 27,0
(25,4±1,24)
11,20 – 13,68
(12,76±1,22)

(8,4±0,14)
107 – 143
(131±15,59)
24,0 – 27,0
(25,3±1,32)
11,95 – 13,68
(12,98±0,87)

(8,4±0,14)
107 – 143
(129±12,00)
24,0 – 27,0

(25,3±1,32)
12,05 – 13,68
(13,00±1,10)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất, số trong dấu ngoặc là giá trị trung bình
± độ lệch chuẩn.

đến giống 1 cm, tốc độ tăng trưởng về khối
3.1.2. Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống
Qua thời gian thử nghiệm ương nuôi ấu lượng, chiều dài và tỷ lệ sống được thể hiện ở
trùng ngao móng tay chúa từ giai đoạn đáp đáy Bảng 6
Bảng 6. Tốc độ tăng trưởng về khối lượng, chiều dài và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay
chúa (NMTC) ở các nghiệm thức với thành phần chất đáy khác nhau.
Chỉ tiêu

SS1

SS2

SS3

Khối lượng NMTC ban đầu
thí nghiệm (mg)

0,640

0,640

0,640


Khối lượng NMTC cuối thí

34,7 – 43,3

35,1 – 53,7

39,9 – 42,9

nghiệm (mg)

(37,7±4,83)

(41,7±10,38)

(41,9±1,73)

Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu
về khối lượng (%/ ngày)

14,8 – 15,6
(15,1±0,46)

14,8 – 16,4
(15,4±0,87)

15,3 – 15,6
(15,5±0,17)

Chiều dài NMTC ban đầu
thí nghiệm (mm)


1,438

1,438

1,438

Chiều dài NMTC cuối thí
nghiệm (mm)

8,0 – 10,7
(9,1±1,40)

9,2 – 10,0
(9,5±0,42)

9,1 – 9,7
(9,4±0,30)

Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu
về chiều dài (%/ ngày)

6,4 – 7,4
(6,8±0,51)

6,9 – 7,2
(7,0±0,15)

6,8 – 7,1
(7,0±0,15)


Tỷ lệ sống (%)

9,4 – 23,4
(14,3±7,92)

45,8 – 95,6
(67,7±25,42)

63,8 – 82,3
(71,0±9,91)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất, số trong dấu ngoặc là giá trị trung bình
± độ lệch chuẩn.
20

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Kết quả phân tích ANOVA một nhân tố cho kết quả phân tích ANOVA một nhân tố về tỷ lệ
thấy khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê sống của ấu trùng đã cho thấy sự khác biệt có ý
giữa các nghiệm thức về tốc độ tăng trưởng về nghĩa thống kê (P< 0,01) giữa các nghiệm thức
khối lượng và chiều dài (P>0,05). Tuy nhiên, (Bảng 7).
Bảng 7. Kết quả phân tích ANOVA về tỷ lệ sống cuối thí nghiệm.
Chỉ tiêu
Tỷ lệ sống
(%)


Nghiệm thức

Lần lặp

Trung bình

Độ lệch chuẩn

SS1

3

14,3a

7,92

SS2

3

67,7b

25,42

SS3

3

71,0b


9,91

Ngồi ra, kết quả phân tích LSD về tỷ lệ
sống của ấu trùng khi kết thúc thí nghiệm cho
thấy nghiệm thức SS2 và SS3 khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với nghiệm thức SS1.
Qua Bảng 7 cho thấy nghiệm thức SS2;
SS3 có số lượng ấu trùng thu được trung bình
lần lượt là 481,0 ± 180,70; 504,0 ± 70,15 và
tỷ lệ sống trung bình 67,7 ± 25,42%; 71,0 ±
9,91%, cao hơn có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so
với nghiệm thức SS1. Điều đó cho thấy nền đáy
có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng Ngao
móng tay chúa. Kết quả của nghiên cứu này là
tương đồng với nghiên cứu của Lê Thị Thanh
(2014), cho thấy nền đáy có ảnh hưởng lớn đến
tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của nghêu ương
từ giai đoạn giống cấp 1 đến giống cấp 2. Sử
dụng nền đáy cát - bùn (70% cát và 30% bùn)
là hiệu quả nhất để ương nghêu giống cấp 1 lên
giống cấp 2. Tương tự, Chu Chí Thiết và ctv.
(2008) cũng cho rằng nền đáy cát – bùn là môi
trường phù hợp cho ấu trùng nghêu biến thái
thành con giống. Theo Zhuang và ctv. (2004),
nghêu Meretrix meretrix ương ni ở bể có nền
đáy cát - bùn có tốc độ lọc, tốc độ tiêu hóa thức
ăn cao hơn gấp 2-3 lần so với khi chúng được
ni ở nơi đáy trơ (khơng có chất đáy). Theo da

Giá trị F


Giá trị P

11,313

0,009

Costa và ctv. (2015), ngao móng tay E. arcuatus
ương ni từ kích cỡ con giống 4mm trên nền
đáy cát khơng bùn có tỷ lệ sống 50%, trong khi
nếu ương nuôi trên nền đáy cát – bùn có tỷ lệ
sống dao động từ 80 – 90%. Trong nghiên cứu
của Da Costa và ctv. (2011), ngao móng tay S.
marginatus ương ni trên nền đáy bùn – cát
cho tỷ lệ sống 81,9%, so với 36,1% ở nền đáy
cát mịn và 53,3% ở nền đáy cát thô.
Bên cạnh đó, khơng có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (P>0,05) giữa hai nghiệm thức
SS2 và SS3. Qua các kết quả của thí nghiệm 1,
có thể kết luận ấu trùng ngao móng tay chúa
giai đoạn đáp đáy lên giống 1cm phù hợp với
nền đáy chứa 70% bùn : 30% cát hoặc 90% bùn:
10% cát.
3.2. Ảnh hưởng của mật độ ương đến
tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay chúa
ương từ giai đoạn đáp đáy lên giống 1 cm
(Thí nghiệm 2)
3.2.1. Các thơng số chất lượng nước
Tương tự như thí nghiệm 1, các yếu tố mơi
trường thí nghiệm được duy trì ở điều kiện phù

hợp với sự phát triển của ấu trùng ngao móng
tay chúa (Bảng 8).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

21


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 8. Các yếu tố mơi trường ở các nghiệm thức thí nghiệm.
Chỉ tiêu

SD1

SD2

SD3

29,1 – 29,7
29,1 – 29,7
29,1 – 29,7
(29,6±0,18)
(29,6±0,18)
(29,6±0,18)
5,44 – 5,71
5,48 – 5,67
5,50 – 5,75
Oxy hòa tan (mg/L)
(5,58±0,13)

(5,58±0,14)
(5,61±0,13)
8,2 – 8,5
8,2 – 8,5
8,2 – 8,5
pH
(8,4±0,15)
(8,4±0,14)
(8,4±0,13)
107 – 143
107 – 143
107 – 143
Kiềm (mg/L)
(131±12,73)
(127±16,70)
(129±15,00)
24,0 – 30,0
24,0 – 30,0
24,0 – 30,0
Độ mặn (o/oo)
(26,3±2,78)
(26,3±2,78)
(26,3±2,78)
12,24 – 13,68
12,98 – 13,81
13,16 – 13,68
COD (mg/L)
(13,15±0,74)
(13,49±0,44)
(13,36±0,41)

Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất, số trong ngoặc là giá trị trung bình ±
độ lệch chuẩn.
45,4±14,81; 44,6±17,03 ở các nghiệm thức
3.2.2. Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng và chiều SD1, SD2 và SD3. Theo Lê Thị Thanh (2014),
dài, và tỷ lệ sống của NMTC ương từ giai đoạn mật độ có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và
đáp đáy lên giống 1cm ở các mật độ khác nhau, tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu. Mật độ thích hợp
để ương nghêu giống cấp 1 lên giống cấp 2 là
được thể hiện ở Bảng 9.
Kết quả phân tích ANOVA một nhân tố cho 20.000 con/m2. Bên cạnh đó, kết quả của nghiên
thấy khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên
giữa các nghiệm thức về tốc độ tăng trưởng về cứu của Liu và ctv. (2006) trên ương nuôi ấu
khối lượng và chiều dài và tỷ lệ sống (P>0,05). trùng nghêu M. meretrix, tác giả này cũng kết
Các nghiệm thức đều cho kết quả tỷ lệ sống của luận tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu không phụ
ấu trùng tương đối cao, lần lượt là 69,1±25,01; thuộc vào mật độ ương.
Bảng 9. Tốc độ tăng trưởng về khối lượng, chiều dài và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay
chúa ở các nghiệm thức với các mật độ ương khác nhau.
Nhiệt độ (oC)

Chỉ tiêu
Khối lượng NMTC ban đầu TN (mg)

Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu về khối
lượng (%/ ngày)

SD1
0,640
39,0 – 49,8
(44,3±5,40)
15,2 – 16,1

(15,7±0,45)

SD2
0,640
31,6 – 52,9
(45,8±12,30)
14,4 – 16,3
(15,7±1,10)

SD3
0,640
30,3 – 38,6
(35,5±4,55)
14,3 – 15,2
(14,9±0,49)

Chiều dài NMTC ban đầu TN (mm)

1,438

1,438

1,438

Khối lượng NMTC cuối TN (mg)

8,4 – 11,1
6,7 – 11,5
6,9 – 10,4
(9,8±1,35)

(9,4±2,47)
(8,4±1,80)
Tốc độ tăng trưởng đặc hiệu về chiều
6,5 – 7,6
5,7 – 7,7
5,8 – 7,3
dài (%/ ngày)
(7,1±0,56)
(6,9±1,04)
(6,5±0,76)
43,1 – 93,0
30,9 – 60,5
28,2 – 62,2
Tỷ lệ sống (%)
(69,1±25,01)
(45,4±14,81)
(53,0±20,71)
Ghi chú: Số liệu được trình bày là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất, số trong dấu ngoặc là giá trị trung bình
± độ lệch chuẩn.
Chiều dài NMTC cuối TN (mm)

22

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Từ kết quả ở Bảng 9, có thể kết luận mật độ
ương giống ngao móng tay chúa giai đoạn đáp

đáy lên giống 1cm phù hợp là 20.000 con/m2,
mật độ cao nhất được chọn để có thể đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất trong giới hạn 3 mật độ ương của
nghiên cứu này. Các nghiên cứu tiếp theo nên bố
trí ở mật độ ương cao hơn, để có thể xác định mật
độ phù hợp để ương ấu trùng NMTC từ giai đoạn
đáp đáy lên giai đoạn giống 1 cm.
VI. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã chứng minh được thành
phần chất đáy có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của
ấu trùng Ngao móng tay chúa. Nền đáy phù hợp
cho ấu trùng ngao móng tay chúa giai đoạn đáp
đáy 1 mm lên giống 1 cm nên có tỷ lệ bùn từ
70% đến 90%, và tỷ lệ cát từ 10% đến 30%.
Mật độ phù hợp cho ấu trùng ngao móng
tay chúa giai đoạn đáp đáy lên giống 1 cm là
20.000 con/m2.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện thuộc nội
dung đề tài “Nghiên cứu hồn thiện quy trình
sinh sản nhân tạo và thử nghiệm ni thương
phẩm ngao móng tay chúa Cultellus maximus
(Gmelin, 1791), mã số: KHCN-TNB.ĐT/14-19/
C33”, trong khuôn khổ Chương trình Khoa học
và cơng nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng
Tây Nam Bộ, với nguồn kinh phí được cấp từ
Bộ Khoa học và Công nghệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

Nguyễn Quang Hùng & Hoàng Đức Triều, 2009.
Nguồn lợi động vật thân mềm hai mảnh vỏ
Bivalvia tại một số vùng rừng ngập mặn điển
hình ven biển Việt Nam.Viện nghiên cứu Hải
sản, Hải Phòng, Bản tin số 14 – tháng 10/2009.
Nguyễn Đức Minh, 2015.  Nghiên cứu đặc điểm
sinh học sinh sản và thăm dò khả năng sinh sản
trên Ngao móng tay chúa (Sinonovacula sp.).
Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh. Sở
khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí Minh,
80 trang.
Nguyễn Hữu Phụng, 1996. Đặc điểm sinh học và kỹ
thuật ương nuôi ấu trung ngao Bến Tre (Meretrix

lyrata Sowerby), Tạp chí Khoa học và cơng nghệ
số 7 và 8, tr. 14-18.
Trương Quang Phú, 1996. Nuôi ngao thương phẩm
ở Đồng bằng sông MêKông, Việt Nam, The
ICLARM Quarterly.Vol. 19. No. 4, p. 60-62.
Lê Thị Thanh, 2014. Ảnh hưởng của độ mặn, mật
độ và nền đáy đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của
nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) từ
giai đoạn giống cấp 1 lên giống cấp 2 trong điều
kiện sản xuất. Luận văn Thạc sĩ Nông nghiệp.
Nguyễn Quốc Thể, 2016. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học và thử nghiệm cho sinh sản giống Ngao
móng tay chúa (Cultellus maximus) tại tỉnh Cà
Mau. Báo cáo khoa học Đề tài cấp tỉnh, Sở khoa
học và công nghệ tỉnh Cà Mau, 97 trang.
Chu Chí Thiết, Kumar, M. S., 2008. Tài liệu về

kỹ thuật sản xuất giống ngao Bến Tre Meretrix
lyrata (Sowerby, 1851). Phân viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ (ARSINC):
36 trang.
Tài liệu tiếng Anh
Calabrese, A., 1972. How some pollutants affect
embryos and larvae of American oyster and
hard-shell clam, Marine Fishery Review, 34(112):66-77.
Da Costa, F., Barreiro, B., Ojea, J., Nóvoa, S. and
Martínez-Patiđo, D., 2015. Effects of stocking
density on intermediate culture of the razor
clam Ensis arcuatus (Pharidae: Bivalvia). Aquac
Res, 46: 1858–1865.
Da Costa, F., Darriba, S., Martínez-Patiđo, D.,
Guerra A., 2011. Culture possibilities of the razor
clam Ensis arcuatus (Pharidae: Bivalvia): Culture
possibilities of the razor clam E. arcuatus. Aquac
Res 42:1549–1557.
Li, Z., Liu, Z., Yao, R.,Luo, C.,Yan, J., 2010. Effect
of temperature and salinity on the survival
and growth of Meretrix lyrata juveniles. Acta
Ecologica Sinnica, 30(13): 3406-3413.
Liu, B., Dong, B., Tang, B., Zhang, T., Xiang, J.,
2006. Effect of stocking density on growth,
settlement and survival of clam larvae, Meretrix
meretrix Linnaeus, Aquculture 258: 344-349.
Shau-Hwai Tan., 1997. Effect of salinity on hatching,
larval growth and survival in the green ussel Perna
viridis (Linnaeus). Phuket Marine Biological
Center, Special Publication. 17 (1): 279-284.

Zhuang, S.H., and Wang, Z.Q., 2004. Influence
of size, habitat and food concentration on the
feeding ecology of the Bivalve Meretrix meretrix
Linnaeus, Aquaculture 241: 689 – 699.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

23


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

EFFECT OF SUBSTRATE COMPOSITION AND STOCKING DENSITY
ON GROWTH RATE AND SURVIVAL OF RAZOR CLAM Cultellus
maximus (Gmelin, 1791) FROM SPAT TO JUVENILE STAGE
Dinh Kim Dieu1*, Tran Ngoc Hieu1, Ngo Minh Ly1, Tieu Thanh Tuoi1,
Nguyen Quoc The1, Vu Anh Tuan1
ABSTRACT
Razor clam (Cultellus maximus) is a species that belongs to Bivalvia class, with high nutritious and
economical value. In recent years, several studies have been conducted on artificial breeding of this
species and have attained preliminary results. This study was aimed at testing the effect of substrate
composition and stocking density on the growth rate and survival rate of razor clam postlarvae reared
from spat to juvenile stage.
Two experiments were conducted in this study. In the first experiment, effect of two mud:sand ratios
(90:10 and 70:30) was investigated. In the second experiment, effect of 3 stocking densities (10,000
ind/m2, 15,000 ind/m2 and 20,000 ind/m2) was tested. Results of the first experiment showed that, no
significant difference was found between the treatments with two mud:sand ratios and control treatment
(without substrate) in the growth rate of weight and length. However, the substrate addition showed a
significant effect on the increase of clam postlarvae survival rates, which were 67.7% and 71.0% in the
treatments with mud:sand ratios of 90:10 and 70:30, respectively.

Results of the second experiment showed that, there was no significant difference in the survival and the
growth rate of weight and length between the three stocking densities. Therefore, the stocking density of
20,000 ind/m2 can be selected for rearing razor clam postlarvae from spat to juvenile stage.
Keywords: growth rate, razor clam postlarvae, stocking density, substrate, survival.

Người phản biện: TS. Thái Ngọc Trí

Người phản biện: TS. La Xuân Thảo

Ngày nhận bài: 12/6/2021

Ngày nhận bài: 12/6/2021

Ngày thông qua phản biện: 22/6/2021

Ngày thông qua phản biện: 20/6/2021

Ngày duyệt đăng: 30/6/2021

Ngày duyệt đăng: 30/6/2021

Research Institute for Aquaculture No. II
* Email:

1

24

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ DỨA (Pangasius sp.) Ở HUYỆN
CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Tiến1*, Võ Văn Phẳng2, Lê Thị Cẩm Hà1, Lương Đức Thiện1,
Lê Thị Trang1, Phan Doãn Đăng1, Nguyễn Văn Tú1

TĨM TẮT
Các lồi cá thuộc giống Pangasius đều có giá trị kinh tế cao và được khai thác chủ yếu ngoài tự
nhiên. Cá dứa là đối tượng ni mới và có tiềm năng phát triển ni trên địa bàn huyện Cần Giờ.
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 06/2019 - 06/2020 nhằm đánh giá hiện trạng nghề nuôi cá
dứa và tiềm năng phát triển trên địa bàn huyện Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh. Thơng qua điều tra dữ
liệu từ 12 nông hộ nuôi và dữ liệu thứ cấp về quy hoạch và điều kiện tự nhiên, nghiên cứu đã đánh
giá hiện trạng mơ hình ni gồm kỹ thuật nuôi, hiệu quả kinh tế và những thuận lợi, khó khăn trong
hoạt động ni cá dứa. Kết quả cho thấy, nghề nuôi cá dứa bắt đầu phát triển ở Cần Giờ từ năm
2015, kinh nghiệm của người nuôi dao động từ 1 - 3 vụ nuôi. Diện tích trung bình của ao ni là
0,68 ± 0,12 ha, với mật độ thả cá trung bình là 1,67 ± 0,21 con/m2 cá giống có kích thước trung bình
là 8,33 ± 0,48 cm. Sau thời gian nuôi từ 12 - 14 tháng, cá đạt kích cỡ 1,15 ± 0,03 kg/con với FCR
là 2,19 ± 0,11, năng suất trung bình đạt 11,9 ± 2,72 tấn/ha. Với chi phí đầu tư trung bình 955,91 ±
127,12 triệu đồng/ha, người ni cá dứa thu được lợi nhuận 337,42 ± 196,96 triệu đồng/ha, tỉ suất
lợi nhuận của mơ hình trung bình là 35,01 ± 24,23 %. Mặc dù cịn nhiều khó khăn và thách thức
nhưng với kỹ thuật nuôi đơn giản, sản phẩm tiêu thụ dễ dàng, sử dụng lao động sẵn có, nghề ni
cá dứa đã góp phần tạo cơng ăn việc làm, tăng thu nhập và ổn định sinh kế cho người dân trên địa
bàn huyện Cần Giờ.
Từ khóa: Cần Giờ, mơ hình nuôi, Pangasius, sinh kế.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Froese & Pauly (2021) có 22 lồi
thuộc giống cá Pangasius trên tồn cầu. Ở Việt

Nam đã ghi nhận được hơn 10 loài cá thuộc
giống Pangasius và chúng phân bố chủ yếu
trong môi trường từ nước ngọt đến lợ mặn vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Nguyễn
Hữu Phụng và Nguyễn Bạch Loan, 1999; Đinh
Trang Điểm và ctv., 2020). Các loài cá thuộc
giống Pangasius đều có giá trị kinh tế cao và
ban đầu được khai thác chủ yếu ngoài tự nhiên
(Poulsen et al., 2004; Nguyễn Văn Thường,
2009; Lê Dương Ngọc Quyền & Dương Thúy
Yên, 2018). Trong đó, có một số lồi được liệt
kê trong sách đỏ của IUCN (Baird, 2011). Hoạt

động nuôi cá da trơn ở Việt Nam đã phát triển
từ những năm 1980 trong đó chủ yếu là cá tra
(Pangasianodon  hypophthalmus) và cá ba sa
(Pangasius bocourti) (Trong et al., 2002; Khoi,
2007). Thời gian gần đây, một số loài cá thuộc
giống Pangasius cũng được tiến hành nghiên
cứu nuôi tại khu vực ĐBSCL như cá bông lau
- P. krempfi (Nguyễn Văn Hiệp và ctv., 2020),
cá sát sọc - P. macronema (Huỳnh Văn Đức &
Nguyễn Phú Hòa, 2020). Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có nghiên cứu về hoạt động nuôi cá
dứa được thực hiện.
Về phân loại cá dứa, hiện nay cịn rất nhiều
tranh cãi do tên lồi khoa học được sử dụng
rất khác nhau ở Việt Nam, có 4 tên khoa học

Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam

2 Phịng Kinh tế, UBND huyện Cần Giờ
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 19 - THÁNG 6/2021

25


×