Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế và yếu tố nước ngoài trong giao dịch dân sự ở việt nam lấy ví dụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.99 KB, 18 trang )

MƠN TƯ PHÁP QUỐC TẾ
LẦN 1
Đề tài: Phân tích yếu tố nước ngồi trong tư pháp quốc tế.Lấy ví dụ
thực tế chứng minh.
A.

MỞ ĐẦU

Trong hoạt động giao lưu dân sự, các quan hệ không chỉ diễn ra trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn được thực hiện trong phạm vi tồn cầu. Để
điều chỉnh các quan hệ đó, tư pháp quốc tế giữ vai trò quan trọng. Về cơ bản,
Tư pháp quốc tế là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngồi, chính yếu tố nước ngồi là điểm mấu chốt tạo nên
đặc trưng trong quan hệ tư pháp quốc tế. Để tìm hiểu một số đặc điểm và bản
chất pháp lí của yếu tố nước ngồi và thực thế phát sinh,trong bài tập nhóm này,
chúng em xin đề cập, phân tích các nội dung liên quan đến “yếu tố nước ngoài”
trong tư pháp quốc tế.

1


B.
I.
1.

NỘI DUNG

Một số vấn đề chung
Khái niệm tư pháp quốc tế
Tư pháp quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, là


một ngành khoa học pháp lý độc lập mà đối tượng nghiên cứu, điều chỉnh các
mối quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ lao động, quan hệ
thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngồi. Nói cách khác, ngành luật
Tư pháp quốc tế điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài.
2.

Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự như kinh

doanh, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động… có yếu tố nước ngồi và
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực tố tụng dân sự có yếu tố nước ngồi.
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thường được xác định thơng qua ba
dấu hiệu chính: về dấu hiệu chủ thể tham gia quan hệ ; về căn cứ làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó; về dấu hiệu đối tượng của quan hệ.
3.

Ý nghĩa điều chỉnh
Tư pháp quốc tế ra đời đã mang đến một ý nghĩa to lớn đối với việc hội

nhập quốc tế của các quốc gia khi mà thế giới hiện đại ngày càng phát sinh
nhiều vấn đề về quan hệ nhân thân cũng như tài sản phát sinh giữa các công
2


dân, pháp nhân của các quốc gia khác nhau thâm chí là các quốc gia, các tổ
chức quốc tế với tư cách là một loại pháp nhân đặc biệt hay nói một cách rộng
hơn là các vấn đề về vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi. Việc hầu hết các quốc
gia đều thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngồi nhằm phù hợp với
q trình phát triển, khách quan và công bằng hơn trong việc điều chỉnh quan hệ

dân sự giữa cơng dân nước mình và cơng dân nước ngồi thì tư pháp quốc tế
càng chứng tỏ được vai trò then chốt, giúp giải quyết hài hịa các vấn đề phát
sinh nêu trên.
II.

Yếu tố nước ngồi trong tư pháp quốc tế
Ở Việt Nam, tư pháp quốc tế với tư cách là một ngành luật có đối tượng

điều chỉnh rộng bao gồm: quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, lao động,
hơn nhân và gia đình, tố tụng dân sự… có yếu tố nước ngồi. Các quy phạm Tư
pháp quốc tế được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau và thường
được hướng dẫn điều chỉnh cụ thể hơn trong các nghị định thông tư. Theo đó,
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi
Bộ luật dân sự 2015 (Phần thứ Năm); Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính
phủ về việc quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngồi; Luật hơn nhân và gia đình 2014 (Chương VIII);
Nghị định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định thi tiết thi hành một số điều
của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước

3


ngoài; Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Phần thứ Tám)… và các văn bản pháp luật
chuyên ngành khác có liên quan.
Trong đó, Bộ luật dân sự 2015 trên cơ sở kế thừa các bộ luật dân sự trước
với Phần thứ Năm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã quy định những
nguyên tắc chung nhất cho việc xác định pháp luật điều chỉnh một số quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi. Cụ thể, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
được quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật này, bao gồm 3 trường hợp: Thứ
nhất, có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngồi;

Thứ hai, các bên tham gia đều là cơng dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại
nước ngoài; Thứ ba, các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi.
1.

Về dấu hiệu chủ thể
Dựa vào chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, một quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngồi khi có ít nhất một bên chủ thể tham gia quan hệ là “người nước
ngoài”. “Người nước ngoài” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, có thể là cá nhân
nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài kể cả quốc gia nước
ngoài hoặc các tổ chức quốc tế…
Cá nhân nước ngồi được hiểu là người khơng mang quốc tịch của quốc
gia sở tại. Theo pháp luật Việt Nam, khoản 2 Điều 3 Nghị định số
138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ
4


luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thì: “Người nước ngồi là
người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngồi và
người khơng quốc tịch”. Theo Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008 thì: “Người
nước ngồi cư trú ở Việt Nam là cơng dân nước ngồi và người không quốc tịch
thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”. Như vậy, người nước ngoài theo quy định
của pháp luật Việt Nam bao gồm: người mang quốc tịch của một quốc gia khác;
người mang nhiều quốc tịch nhưng khơng có quốc tịch Việt Nam và người
không quốc tịch.
Pháp nhân là một tổ chức gồm nhiều cá nhân thành lập trên cơ sở pháp
luật và có tư cách pháp nhân. Khái niệm pháp nhân nước ngoài xuất phát từ nhu
cầu thực hiện mục đích, chức năng của pháp nhân khi họ mở rộng phạm vi hoạt

động tại lãnh thổ của quốc gia khác. Các quốc gia khác nhau có cách giải thích
riêng về pháp nhân nước ngồi. Do đó, trên thực tế, để xác định một pháp nhân
có phải là pháp nhân nước ngồi hay khơng phải căn cứ vào quốc tịch của pháp
nhân. Việc xác định quốc tịch của pháp nhân dựa trên các nguyên tắc: dựa vào
nơi có trung tâm quản lý của pháp nhân, theo nơi thành lập hoặc nơi đăng ký
điều lệ của pháp nhân khi thành lập, nơi có phần lớn tài sản của pháp nhân hoặc
theo nơi tiến hành hoạt động chủ yếu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
pháp nhân nước ngoài là “pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước
ngoài” (khoản 5 Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi).

5


Với sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu dân sự quốc tế, các chủ thể tham
gia vào các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế khơng chỉ
có cá nhân và pháp nhân mà cịn có cả quốc gia. Ví dụ: Nhà nước Việt Nam
tham gia vào các quan hệ hợp đồng, các quan hệ tài chính quốc tế (phát hành
trái phiếu quốc tế tại nước ngồi)…
Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng tham gia vào những
quan hệ này. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết các quốc gia có
chủ quyền và các chủ thể khác của luật quốc tế. Các tổ chức quốc tế liên chính
phủ được thành lập dựa trên các điều ước quốc tế, có hệ thống các cơ quan để
duy trì hoạt động thường xun theo đúng mục đích, tơn chỉ của tổ chức đó.
Ngồi ra, có thể hiểu dấu hiệu chủ thể ở khía cạnh khác, đó là trong một
số quan hệ nhất định, các bên tham gia quan hệ mặc dù có cùng quốc tịch nhưng
các bên có trụ sở thương mại hoặc nơi cư trú ở các nước khác nhau. Trong
trường hợp này, quan hệ phát sinh vẫn là quan hệ có yếu tố nước ngồi. Ví dụ:
Trong một quan hệ hợp đồng mua bán vải, bên bán là thương nhân có trụ sở
thương mại tại Việt Nam, cịn bên mua là thương nhân có trụ sở tại Pháp. Theo

Điều 1 Công ước Vienna 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế
thì quan hệ hợp đồng trên chính là quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam quy định về yếu tố nước ngoài trong hầu hết các lĩnh
vực, từ dân sự đến hơn nhân gia đình, thương mại, lao động và cả tố tụng dân
sự, cụ thể:
6


Điểm a khoản 2 Điều 663 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là
cá nhân, pháp nhân nước ngồi”. Ví dụ: Anh A là cơng dân Việt Nam đại diện
cho anh B là công dân Hoa Kỳ trong một vụ tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
Khoản 25 Điều 3 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Quan
hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân và gia đình
mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngồi, người Việt Nam định cư ở
nước ngồi”. Ví dụ: Chị A là công dân Việt Nam 30 tuổi kết hôn với anh B là
công dân Đức 35 tuổi, chủ thể nước ngoài là anh B. Khoản 5 Điều 3 Luật nuôi
con nuôi năm 2010 quy định: “Nuôi con ni có yếu tố nước ngồi là việc ni
con ni giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, giữa người nước ngoài
với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
định cư ở nước ngồi”. Ví dụ: Anh C là cơng dân Việt Nam đang định cư tại
Nga nhận cháu D 12 tuổi là công dân Việt Nam làm con nuôi, chủ thể nước
ngoài là anh C.
Trong tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết một vụ việc tranh chấp
về quyền sở hữa tài sản giữa nguyên đơn là công dân Việt Nam đang cư trú tại
Hà Nội và bị đơn là cơng dân Anh đang cư trú tại Bungari, tịa án Việt Nam (tòa
án đang giải quyết vụ việc) đã yêu cầu tòa án Bungari xác minh một số vấn đề
nhân thân và tài sản của công dân Anh trong thời gian cư trú tại Bungari thông
qua thủ tục ủy thác tư pháp quốc tế.
7



2.

Về đối tượng
Đối tượng tồn tại ở nước ngoài là một trong ba dấu hiệu quan trọng để

xác định một quan hệ nội dung có tính chất dân sự hoặc quan hệ tố tụng dân sự
có yếu tố nước ngồi, theo đó, mặc dù trong quan hệ dân sự chủ thể tham gia là
người Việt Nam, sự phát sinh, thay đổi, thực hiện hay chấm dứt quan hệ xảy ra
ở Việt Nam nhưng có đối tượng ở nước ngồi thì quan hệ đó chính là quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi.
Như vậy, một quan hệ có tính chất dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ
mà đối tượng của quan hệ này tồn tại ở nước ngoài. BLDS 2015 đã thay thuật
ngữ “tài sản” liên quan đến quan hệ dân sự ở nước ngoài bằng thuật ngữ “đối
tượng” của quan hệ đó ở nước ngồi. Thay đổi này đã mở rộng phạm vi quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi ở góc độ đối tượng sẽ rộng hơn, cụ thể đối tượng
có thể là tài sản hoặc lợi ích khác mà các bên hướng tới khi tham gia vào mối
quan hệ dân sự không nhất thiết là tài sản.
Đối tượng ở nước ngoài bao gồm các trường hợp:
Thứ nhất, đối tượng của quan hệ dân sự là tài sản ở nước ngoài. Chẳng
hạn như tranh chấp về chia di sản thừa kế, cụ thể A là công dân Việt Nam, đã
sinh sống và chết tại Việt Nam, A chết không để lại di chúc nên đã gây ra tranh
chấp về tài sản giữa con đẻ và con nuôi của A (đều là công dân Việt Nam, đang
sinh sống tại Việt Nam) tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của A tại thời điểm chết
là một căn nhà tại Việt Nam và một căn nhà tại Mỹ. Như vậy, có dấu hiệu về đối
8


tượng của quan hệ dân sự là tài sản ở nước ngồi nên đây là quan hệ dân sự có

yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng của quan hệ dân sự là lợi ích khác mà khơng phải là
tài sản. Chẳng hạn như việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, bản án
hoặc quyết định dân sự của tịa nước ngồi, cụ thể B là cơng dân Việt Nam đã
từng sinh sống tại Mỹ, trong thời gian đó B đã được Tòa án Mỹ tuyên bản án
được quyền nuôi con, hiện nay người con đang mang quốc tịch Việt Nam và
đang sinh sống tại Việt Nam, B trở về và định cư tại Việt Nam, đồng thời yêu
cầu Tịa án Việt Nam cơng nhận bản án đã có hiệu lực tại Mỹ cũng có hiệu lực
tại Việt Nam.
Như vậy, đối tượng của quan hệ dân sự cũng được coi là dấu hiệu nhận
biết yếu tố nước ngoài, bởi lẽ tài sản và lợi ích khác là cơ sở làm phát sinh các
mối quan hệ dân sự và việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đối tượng là
việc mà bất kỳ chủ thể nào khi tham gia quan hệ dân sự cũng đều mong muốn
và đối tượng giữ một vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự,
bên cạnh đó, khi đối tượng ở nước ngồi, về bản chất nó đã vượt qua phạm vi về
pháp luật điều chỉnh (nội dung và thẩm quyền giải quyết) của quốc gia khơng có
đối tượng, nên khơng thể coi đó là quan hệ dân sự thuần túy mà phải giải quyết
vụ việc đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.
Việc xác định yếu tố nước ngoài theo đối tượng của quan hệ dân sự có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định quy phạm pháp luật áp dụng là quy phạm
9


thực chất hay quy phạm xung đột, đặc biệt là đối với các quy phạm xung đột, để
qua đó xác định thẩm quyền và nội dung giải quyết phù hợp với bản chất của vụ
việc dân sự.
3.

Về căn cứ làm phát sinh, thay đổi, thực hiện hay chấm dứt quan hệ
Dấu hiệu thứ ba của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi chính là dấu


hiệu về căn cứ làm phát sinh, thay đổi, thực hiện hay chấm dứt quan hệ. Nếu
như ở hai trường hợp trước thì yếu tố nước ngoài thể hiện trong mối quan hệ
này ở việc có một trong các chủ thể là người nước ngồi, hoặc là đối tượng phải
ở nước ngồi, thì, ở dấu hiệu thứ ba này sẽ xác định quan hệ có yếu tố nước
ngồi là quan hệ mà căn cứ (cơ sở) làm phát sinh, thay đổi, thực hiện hay chấm
dứt quan hệ này xảy ra ở nước ngoài.
Trong tư pháp quốc tế Việt Nam hiện nay, yêu tố nước ngoài này được thể
hiện ở trong quy định của nhiều Bộ luật, điển hình là Bộ luật dân sự năm 2015,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,… Cụ thể, Điểm b khoản 2 Điều 663 BLDS
2015 quy định về Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự thuộc
một trong các trường hợp, trong đó có “Các bên tham gia đều là cơng dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài”. Tương tự tại điểm b khoản 2 Điều 464
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định về vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp, trong đó có
trường hợp “Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
10


nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại
nước ngồi”. Có thể nói các quy định về yếu tố nước ngồi trong tư pháp quốc
tế Việt Nam khá hiện đại và phù hợp với tư pháp quốc tế.
Một ví dụ cụ thể để thể hiện cho trường hợp này như sau: Ông Nguyễn Văn
A là công dân Việt Nam đang sinh sống tại Hàn Quốc, trước khi mất ơng có để
lại một bản di chúc được ông viết tại Hàn Quốc theo đó để lại một số lượng tài
sản của ơng ở Việt Nam cho các con của mình. Trong trường hợp này có thể
thấy được người lập di chúc là ơng A là công dân Việt Nam, đối tượng là tài sản
của ông tại Việt Nam cho người thụ hưởng là các con của ông, tuy nhiên bản di
chúc này lại được ông lập tại Hàn Quốc. đây là một trường hợp xác định quan

hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, cụ thể là quan hệ thừa kế do người để lại thừa
kế là ông A đã lập di chúc ở nước ngoài. Do hành vi lập di chúc ở Hàn Quốc
này của ông A đã làm phát sinh quan hệ thừa kế đối với các con của ông. Từ đó
thấy được rằng đây là trường hợp mà việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi. Bên cạnh đó thì yếu tố nước ngoài ở
đây được thể hiện ở quy định của tại khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân sự năm
2015 của Việt Nam thì “ Hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật
của nước nơi di chúc được lập.”
III.
1.

Bàn luận một số nội dung liên quan
Sự thay đổi về xác định yếu tố nước ngoài trong hệ thống pháp luật
dân sự Việt Nam

11


So sánh Điều 663 của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự
2005, cụ thể tại Điều 758: "Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân
sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa
các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi."
Có thể thấy, nếu như cách xác định “quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi” trong Bộ luật Dân sự 2005 khá dài dịng thì đến Bộ luật Dân sự 2015 đã
quy định chi tiết, ngắn gọn và rõ ràng 3 yếu tố làm nên quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi. Bên cạnh đó, có thể dễ dàng nhận ra, 2 điều luật trên có cách xác
định khác nhau ở dấu hiệu chủ thể tham gia quan hệ. Nếu theo quy định của Bộ

luật Dân sự 2005, quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là người
Việt Nam định cư ở nước ngồi cũng được coi là có yếu tố nước ngồi, thì đến
Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015, người Việt Nam định cư ở nước ngồi khơng
cịn là chủ thể của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nữa. Có thể giải thích
cho sự lược bỏ này là xuất phát từ việc theo giải nghĩa Khoản 3 Điều 3 Luật
quốc tịch 2008: “người Việt Nam định cư ở nước ngồi là cơng dân Việt Nam
và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” – chính địa vị
pháp lý này khiến Bộ luật Dân sự 2015 khi ra đời đã xếp chủ thể này trong quan
hệ dân sự khơng có yếu tố nước ngồi, được điều chỉnh bằng hệ thống pháp luật

12


quốc gia, đảm bảo tối đa lợi ích của cơng dân Việt Nam hay của người gốc Việt
ở nước ngoài. Không những thế, điểm mới này cũng giúp pháp luật dân sự phù
hợp với cách định nghĩa “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi” trong khoa học
Tư pháp quốc tế của Việt Nam nói riêng và khoa học Tư pháp quốc tế của thế
giới nói chung.
2.

Sự khác nhau về đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự Việt Nam
và tư pháp quốc tế
Đầu tiên, chúng ta có thể dễ dàng thấy được rằng tư pháp quốc tế và dân

sự theo nghĩa rộng có điểm tương đồng, đó là cùng điều chỉnh quan hệ mang
tính chất dân sự, điều chỉnh mối quan hệ pháp lý mang tính chất tư giữa công
dân, pháp nhân phát sinh trong đời sống xã hội. Những quan hệ pháp luật được
xem là quan hệ pháp luật dân sự đó là những quan hệ được quy định trong Bộ
luật dân sự.
Bên cạnh những điểm tương đồng, tư pháp quốc tế với dân sự hay chính

là pháp luật dân sự Việt Nam lại có những điểm khác biệt cơ bản đó là về đối
tượng điều chỉnh, cụ thể:
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh: Luật dân sự có đối tượng điều chỉnh
là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, điều chỉnh những quan hệ dân sự cụ thể
phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam và không bao hàm tố tụng dân sự. Trong khi
đó, tư pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng tức là bao gồm
quan hệ dân sự, quan hệ hơn nhân và gia đình, quan hệ lao động, quan hệ
13


thương mại và cả tố tụng dân sự có yếu tố nước ngồi. Điều đó có nghĩa là nếu
xét về yếu tố dân sự thì Tư pháp quốc tế có đối tượng điều chỉnh, hay nói cách
khác là phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với ngành luật luật dân sự.
Thứ hai, điểm khác biệt quan trọng khác trong đối tượng điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế với các ngành luật cần nói đến ở đây chính là “́u tố nước ngoài”.
Nếu ngành luật dân sự chỉ điều chỉnh quan hệ dân sự trong phạm vi lãnh thổ thì
Tư pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ dân sự mang tính chất quốc tế. Cụ thể, theo
khoản 2 Điều 663 BLDS 2015 thì yếu tố nước ngồi ở đây được hiểu: Có ít nhất
một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; Các bên tham gia
đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi,
thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi; Các bên tham gia
đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ
dân sự đó ở nước ngồi.
3.

Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến
yếu tố nước ngoài và kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở nghiên cứu và xem xét các quy định về yếu tố nước ngoài

trong tư pháp quốc tế, nhóm xin đưa ra một số bất cập và kiến nghị các giải

pháp như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 14 và 15, Điều 3, Luật Đầu tư 2014:
“Nhà đầu tư nước ngồi là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập
theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
14


Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế khơng
có nhà đầu tư nước ngồi là thành viên hoặc cổ đơng”. Như vậy, người vừa có
quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch nước ngoài là nhà đầu tư trong nước hay
nhà đầu tư nước ngồi? Điều này cịn bỏ ngỏ. Thực tế, nếu Việt kiều mang cả
hai quốc tịch Việt Nam và nước ngoài vẫn bị coi là người nước ngoài và nếu
tham gia góp vốn đầu tư tại Việt Nam vẫn áp dụng các quy định hạn chế về tỷ lệ
vốn góp tối đa trong doanh nghiệp như trường hợp nhà đầu tư nước ngồi. Vì
vậy, vấn đề này cần được hướng dẫn cụ thể hơn để đảm bảo quyền lợi hợp pháp
cho những chủ thể này.
Thứ hai, về khái niệm "người Việt Nam định cư ở nước ngoài" cũng chưa
được quy định rõ ràng trong Luật quốc tịch, Bộ luật dân sự và các văn bản
hướng dẫn. Theo quy định tại khoản 3, 4, Điều 3, Luật Quốc tịch 2008 thì
“Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Người gốc Việt Nam định
cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh
ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con cháu của
họ đang cư trú sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Vậy thời hạn bao lâu thì được
xác định là "lâu dài" thì khơng có cách hiểu thống nhất. Đây cũng là điểm mà
nhóm mong muốn sẽ có quy định chặt chẽ hơn, ví dụ như quy định về khoảng
thời gian hợp lý, hoặc một tiêu chí khác khơng phụ thuộc thời gian để áp dụng
một cách thuận tiện hơn. Vì vấn đề xác định một đương sự trong vụ án dân sự

15



có phải là "người Việt Nam định cư ở nước ngồi" hay khơng có vai trị quyết
định đến việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Thứ ba, theo khoản 4, Điều 16, Luật thương mại 2005: "Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi được thương nhân nước ngồi thành lập tại Việt Nam
theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì được coi là thương nhân Việt Nam".
Và khoản 1, Điều 16, Luật thương mại 2005 quy định: "Thương nhân nước
ngoài là thương nhân được thành lập đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngồi cơng nhận". Trong khi
Luật đầu tư sử dụng thuật ngữ "nhà đầu tư nước ngoài". Như vậy là có những
tên gọi khác nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật nhằm để chỉ một đối
tượng giống nhau và cùng là chủ thể của Tư pháp quốc tế. Vì vậy, nhóm cho
rằng nên thống nhất lại các thuật ngữ trong các văn bản quy phạm pháp luật để
thuận tiện hơn trong quá trình thực thi, tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt
động xây dựng văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản hướng dẫn, giải thích
những yếu tố nước ngồi. Một mặt, tạo ra khung pháp lí quan trọng cho việc áp
dụng pháp luật, tránh hiện tượng chồng chéo và mâu thuẫn pháp luật. Mặt khác,
đảm bảo quyền và lợ ích hợp pháp của các chủ thể trong tư pháp quốc tế.
16


17


C.


KẾT LUẬN

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến “yếu tố nước
ngoài” trong tư pháp quốc tế, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về đặc điểm,
nội dung, bản chất của yếu tố nước ngồi. Từ đó, làm căn cứ pháp lí áp dụng
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thực tế, phân biệt phạm vi điều chỉnh
giữa pháp luật dân sự Việt Nam và tư pháp quốc tế. Đảm bảo tối ưu quyền lợi
của các chủ thể tư pháp quốc tế và đảm bảo sự phù hợp với pháp luật quốc tế.

18



×