Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

hệ thống quản trị toàn cầu và chính phủ toàn cầu, các tổ chức và hiệp định (toàn cầu, khu vực, song phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.81 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
Mua bán là một trong những hành vi bản năng của con người nhằm
thỏa mãn các đòi hỏi của mình; vì thế, tự do hóa thương mại, về bản chất, là
trạng thái phát triển của bản năng đó. Tuy nhiên, hơn cả thế, nó là một xu thế
tồn cầu, khơng lệ thuộc vào ý chí của bất kỳ quốc gia nào và khơng quốc gia
nào có thể nằm ngồi xu thế đó. Thế nhưng, tự do hóa thương mại có thể phá
vỡ những biên giới khơng chỉ về mặt pháp lý mà cả về mặt chính trị, chính vì
vậy tự do hóa thương mại ở các cấp độ khác nhau địi hỏi phải có nhiều hơn
những tổ chức, cơ quan với công cụ hữu hiệu là hệ thống các văn bản pháp lý
quốc tế làm cơ sở cho quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát triển.
Trong một cuốn sách gần đây, người từng đoạt giải Nobel kinh tế Joseph
Stiglitz cũng đã viết: "Ngày nay chúng ta có một hệ thống quản trị tồn cầu
mà khơng cần chính phủ tồn cầu - một loạt các tổ chức và hiệp định (toàn
cầu, khu vực, song phương) tác động tới mọi khía cạnh của cuộc sống." Thêm
vào đó ơng Stiglitz còn tỏ ra quan ngại về sự bất cập của cơ chế thực thi. Câu
nói của Stiglitz đã lần nữa khẳng định vai trò của các tổ chức quốc tế và hệ
thống các hiệp định trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Những tìm hiểu,
nghiên cứu của nhóm sau đây sẽ làm rõ vấn đề này.


B. NỘI DUNG
I.

BÌNH LUẬN VỀ NHẬN ĐỊNH CỦA STIGLITZ TRONG LĨNH
VỰC THƯƠNG MẠI Q́C TÊ
Trước khi đi vào việc bình luận và đưa ra quan điểm của nhóm về nhận

định của ông Stiglitz, ta cần phải đi làm rõ một số khái niệm, cụ thể:
Một là, khái niệm về hệ thống quản trị tồn cầu. Ta có, hệ thống quản
trị toàn cầu là 1 hệ thống, tập hợp các thể chế, quy định, chuẩn tắc và dàn xếp
pháp lý nhằm quản lý quan hệ giữa các quốc gia và tạo thuận lợi cho các hoạt


động hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực vấn đề khác nhau. Hệ thống quản trị
tồn cầu có thể được xem là một nhân tố mới làm thay đổi nền chính trị thế
giới hiện đại.
Hai là, khái niệm về chính phủ tồn cầu. Nếu như chính phủ là các thể
chế chính trị mà một quốc gia nào đó dùng để tổ chức nhằm sử dụng quyền
lực của mình để quản lý xã hội trong phạm vi quốc gia đó thì chính phủ tồn
cầu là một kiểu chính phủ sử dụng quyền lực của riêng mình để quản lý mọi
khía cạnh của cuộc sống trên phạm vi toàn cầu – toàn thế giới. trên thế giới đã
có 1 tổ chức tồn cầu đó là Liên Hợp quốc, tuy nhiên đây lại khơng phải là
một chính phủ toàn cầu mà chỉ là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hịa
bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các
dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tơn trọng
ngun tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Bởi vì đã gọi là


chính phủ tồn cầu thì phải có quyền lực riêng và cơ chế để thực hiện và bảo
đảm quyền lực đó. giống như việc chính phủ có quyền lực nhà nước, sử dụng
pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền lực của mình.
Ba là, khái niệm về thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế
là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vơ hình)
giữa các quốc gia, tn theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi
ích cho các bên, hay nói cách khác đó là các hoạt động thương mại vượt ra
khỏi biên giới quốc gia hoặc biên giới hải quan.
Từ việc tìm hiểu những khái niệm trên, có thể thấy nhận định của
Stiglitz đã nói lên đúng thực trạng, xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa hiện nay
mà cụ thể là sự ra đời và phát triển của hệ thống quản trị toàn cầu đã tác động
mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Bên cạnh đó, trong câu nói của
Stiglitz cịn nhắc đến việc hiện tại chúng ta khơng cần 1 chính phủ toàn cầu và
thực tế, hiện tại trên thế giới cũng chưa có 1 chính phủ tồn cầu. Như khái
niệm chúng ta đã tìm hiểu, việc xây dựng nên 1 chính phủ tồn cầu với quyền

lực riêng, đủ lớn mạnh để quản lý thế giới là một điều không dễ dàng – đó
từng là tham vọng của 1 số cường quốc trong lịch sử từng muốn làm bá chủ
thế giới. Mỗi quốc gia dân tộc xuất phát từ những sự khác nhau về lịch sử,
văn hóa, trình độ phát triển kinh tế xã hội, và đặc biệt xuất phát từ yếu tố chủ
quyền quốc gia, lợi ích riêng của từng dân tộc thì việc tổ chức nên một chính
phủ tồn cầu ở hiện tại dường như là điều không thể và đang còn là một dấu


chấm hỏi bỏ ngỏ trong tương lai liệu thế giới có xuất hiện 1 chính phủ tồn
cầu hay khơng.
Hệ thống quản trị toàn cầu ra đời cùng với sự xuất hiện của các tổ chức
hợp tác đa phương toàn cầu hay các thể chế toàn cầu cũng như các tổ chức
khu vực, liên minh. Những thể chế toàn cầu này là kết quả của sự hợp tác
ngày càng tăng của các quốc gia kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hệ
thống quản trị tồn cầu cịn kéo theo xuất hiện cùng với những quy định,
chuẩn mực chung cho các hoạt động quốc tế. Các quốc gia khi tham gia vào
các tổ chức hợp tác đa phương phải tuân theo những quy định và chuẩn mực
này. Như vậy, nếu như sự ra đời của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa trong việc
liên minh các quốc gia, chính phủ lại với nhau nhằm duy trì hịa bình, quan hệ
hữu nghị và nhằm đạt được mục đích nhất định; thì sự ra đời của các chuẩn
mực quốc tế mà cụ thể là sự ra đời của các hiệp định tồn cầu, khu vực hay
song phương chẳng những có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho các tổ chức
quốc tế ấy hoạt động hiệu quả, mà còn đảm bảo cho các cam kết quốc tế khác
được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Thực tiễn cho thấy, hệ thống
quản trị toàn cầu hiện nay đang ngày càng phát triển và phủ sóng, tác động
đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta khơng chỉ có những tổ chức quốc
tế chuyên môn chỉ hoạt động trên 1 lĩnh vực như Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), mà chúng ta cịn có hàng loạt các tổ
chức quốc tế toàn cầu đến khu vực có nội dung hoạt động trên mọi lĩnh vực
của cuộc sống như Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Liên



Minh Châu Âu... Cũng như việc trên thế giới, hàng năm có hàng loạt các hiệp
định từ song phương đến đa phương hay tồn cầu được kí kết và đàm phán.
Chính vì vậy mà khẳng định của Stiglitz khi cho rằng “Ngày nay chúng ta có
một hệ thống quản trị toàn cầu bao gồm một loạt các tổ chức và hiệp định tác
động đến mọi khía cạnh của cuộc sống” là hoàn toàn đúng đắn. Khẳng định
này xuất phát từ chính thực tại hiện hữu của hệ thống quản trị tồn cầu này
cũng như những tác động của nó đến đời sống quốc tế ngày nay.
Đặc biệt, nhận định của Stiglitz khi áp dụng vào lĩnh vực thương mại
quốc tế càng đúng đắn hơn khi mà trên thực tiễn, các tổ chức quốc tế liên
chính phủ có tính chất chun môn trong lĩnh vực thương mại quốc tế hay các
tổ chức quốc tế liên chính phủ có tính chất chung bao trùm lên mọi lĩnh vực
của đời sống quốc tế, trong đó có thương mại quốc tế ra đời ngày càng nhiều,
cùng với đó, là sự gia tăng chóng mặt về số lượng các hiệp định trong lĩnh
vực này.
Các tổ chức quốc tế then chốt có vai trị quan trọng trong lĩnh vực
thương mại quốc tế có thể kể đến như Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), Liên minh châu Âu (EU), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC), (Vai trị cụ thể của từng tổ chức quốc tế này đối
với lĩnh vực thương mại quốc tế sẽ được trình bày ở Chương II)... Các tổ chức
quốc tế như các thiết chế thương mại quốc tế đóng vai trị ngày càng quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế giới nói chung và nền kinh tế của
các quốc gia nói riêng. Cụ thể sự ra đời và hoạt động tích cực của các tổ chức


quốc tế trong lĩnh vực này đã và đang góp phần hài hịa lợi ích kinh tế giữa
các thành viên thơng qua việc phối hợp hành động, hồn thiện các kế hoạch
hợp tác kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước, giải quyết các
vấn đề toàn cầu như vấn đề môi trường, an ninh lương thực, năng lượng... Các

tổ chức quốc tế này cịn có vai trị quan trọng trong việc đàm phán và kí kết
các điều ước quốc tế ở cấp độ khu vực cũng như tồn cầu nhằm xây dựng và
hồn thiện khn khổ pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật thương mại
nói riêng, thúc đẩy tiến trình tồn cầu hóa diễn ra nhanh hơn. Đối với các
tranh chấp phát sinh trong quá trình hợp tác kinh tế, cơ chế giải quyết tranh
chấp của các thiết chế thương mại quốc tế như WTO, EU, ASEAN... là một
trong những bảo đảm pháp lý cho quyền và lợi ích hợp pháp của các thành
viên.
Bên cạnh đó, hệ thống quản trị tồn cầu khơng chỉ tác động đến lĩnh
vực thương mại quốc tế thông qua các tổ chức quốc tế mà cịn tác động thơng
qua hệ thống các hiệp định trong lĩnh vực này. Hiện tại chưa có một thống kê
nào về số lượng các hiệp định trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Riêng Tổ
chức thương mại thế giới từ khi ra đời, các thành viên WTO đã ký kết khoảng
30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả
các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15
tháng 4 năm 1994. Các hiệp định này đã tạo nên khung pháp lý ngày càng
hoàn thiện để kịp thời điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực thương


mại quốc tế ngày càng nhiều, đảm bảo hoạt động thương mại quốc tế đi vào
khuôn khổ, tránh những rủi ro, tranh chấp không cần thiết và cũng là để đảm
bảo, nếu có tranh chấp xảy ra, các hiệp định này sẽ là công cụ pháp lý hiệu
quả giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi của các bên trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, từ đó thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế ngày càng
phát triển nhanh chóng và bền vững hơn.
Như vậy, có thể thấy, nhận định của Stiglitz về vai trò của hệ thống
quản trị toàn cầu là rất đúng đắn, đã phản ánh sự ảnh hưởng của các tổ chức
và hiệp định đến mọi khía cạnh của cuộc sống nói chung và đến lĩnh vực luật
thương mại quốc tế nói riêng. Cụ thể sự tác động, mức độ ảnh hưởng này đến

đâu thì sẽ được nhóm làm rõ thơng qua việc phân tích vai trò của một số tổ
chức quốc tế then chốt trong lĩnh vực thương mại quốc tế sau đây.
II.

NHỮNG TỔ CHỨC QUỐC TÊ QUAN TRỌNG TRONG LĨNH
VỰC THƯƠNG MẠI QUỐC TÊ

1. Liên hợp quốc
Liên Hợp Quốc hay Liên Hiệp Quốc được thành lập trên cơ sở của tổ
chức tiền thân là Hội Quốc Liên. Hiện nay, Liên Hợp Quốc có 192 thành viên,
bao gồm phần lớn các quốc gia được thế giới công nhận. Việt Nam gia nhập
Liên Hợp Quốc từ ngày 20/9/1977.
Liên Hợp Quốc có ba mục tiêu chính: gìn giữ hịa bình thế giới, thúc
đẩy những mối quan hệ thân thiết giữa các quốc gia, hợp tác quốc tế để giải


quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và con người song song
với việc thúc đẩy tôn trọng nhân quyền và quyền tự do thiết yếu. Liên Hợp
Quốc có sáu cơ quan chính, bao gồm: Đại Hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội
đồng Kinh tế và Xã hội, Ban Thư kí, Tịa án Quốc tế vì Cơng lý và Hội đồng
Quản thác.
Cho đến nay, Liên Hợp Quốc đã tồn tại được hơn nữa thế kỉ và ngày
càng chứng minh được vai trò quan trọng của mình trong đời sống quốc tế. Là
tổ chức quốc tế liên chính phủ có tính chất chung, hoạt động của Liên Hợp
Quốc bao trùm lên mọi lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế. Một số cơ quan của Liên Hợp Quốc hoạt động trong lĩnh
vực kinh tế có thể kể đến như Hội đồng kinh tế xã hội (ECOSOC), Ủy ban
Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), Cơ quan về thương
mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD)… Trong đó, Ủy ban Liên
Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế hoạt động với mục đích thúc đẩy việc

hài hòa, thống nhất luật thương mại quốc tế thông qua xây dựng các công
ước, luật mẫu trong lĩnh vực luật thương mại quốc tế, cùng các hướng dẫn
pháp lí, cập nhật thơng tin về án lệ và những văn bản thống nhất về luật
thương mại.Ví dụ: Luật mẫu về chuyển giao quỹ, luật mẫu về thương mại
điện tử, dự thảo công ước về bảo lãnh độc lập, những quy định về tổ chức
trọng tài,… Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của UNCITRAL là đề ra các
giải pháp để từng bước pháp điển hóa luật thương mại quốc tế. Việc pháp điển
hóa pháp luật thương mại quốc tế trong khn khổ UNCITRAL đã góp phần


loại bỏ những rào cản thương mại do những khác biệt trong hệ thống pháp
luật quốc gia gây ra, đóng góp tích cực vào q trình cải cách luật thương mại
quốc tế.
Liên quan đến những đóng góp của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực này,
phải kể đến việc Liên Hợp Quốc thơng qua Luật sở hữu trí tuệ, Luật hàng
hải… Những quy định luật quốc tế này đã góp phần tạo nên một môi trường
pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế quốc tế trên cơ sở toàn cầu hóa và
khu vực hóa theo hướng tự do hóa thương mại, đầu tư và dịch vụ. Những
quan hệ này lại thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, cơng
nghệ và tạo điều kiện nhanh chóng áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật, công nghệ trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
2. WTO
Tổ chức thương mại thế giới WTO được chính thức thành lập từ ngày
1/1/1995. WTO kế tục và mở rộng phạm vi điều chỉnh thương mại quốc tế
của khung khổ tiền thân là GATT - Hiệp định chung về Thuế quan Thương
mại. Tính đến ngày 2/2012, WTO có hơn 153 thành viên.
Cơ cấu tổ chức cơ bản của WTO được quy định tại Ðiều IV của Hiệp
định WTO. Cấp cao nhất trong cấu trúc của WTO là Hội nghị Bộ trưởng. Cấp
thứ hai là Ðại hội đồng, Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà
sốt chính sách thương mại (TPRB). Ba cơ quan này thực chất là một. Dưới

Đại hội đồng, DSB và TPRB là ba hội đồng chuyên môn về thương mại hàng


hóa (CTG), thương mại dịch vụ (CTS), quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại (hội đồng TRIPS). Bên cạnh các hội đồng chun mơn, có một số
ủy ban và nhóm làm việc được thành lập để hỗ trợ Hội nghị bộ trưởng và Đại
hội đồng. Ngồi ra cịn có Ủy ban đàm phán (TNC) và Ban thư ký.
Sự ra đời của WTO đã góp phần tăng trưởng thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững
và bảo vệ môi trường. Thúc đẩy sự phát triển cơ chế thị trường, giải quyết các
bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của
hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế, đảm bảo cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém
phát triển được hưởng thụ những lợi ích thực sự từ sự tăng cường của thương
mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và
khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế
thế giới. WTO tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế và đảm bảo
công bằng cho các bên liên quan, giảm nguy cơ tranh chấp thương mại leo
thang thành xung đột chính trị hoặc quân sự, đảm bảo pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia.
Quan trọng hơn hết, hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào
mậu dịch thông qua thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối
xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ
giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn. Đồng thời, đem đến cho
người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn và phạm vi chất lượng rộng hơn để lựa


chọn. Ngoài ra, việc giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng
trưởng, điều này không chỉ làm tăng thu nhập quốc dân mà còn làm tăng thu
nhập cá nhân.

3. APEC
APEC được thành lập theo sang kiến của Australia tại Hội nghị bộ
trưởng kinh tế thương mại và ngoại giao 12 nước khu vực châu Á và Thái
Bình Dương được tổ chức tại Canbera (Australia) tháng 11/1989. Sự ra đời
của APEC là kết quả của sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển nhanh của
nền kinh tế nhiều nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, xu thế tồn cầu
hóa và khu vực hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh
tế. Việt Nam trở thành thành viên của APEC vào năm 1998.
Về cơ cấu tổ chức của APEC gồm các cơ quan sau đây: Hội nghị
thượng đỉnh; Hội nghị bộ trưởng; Hội nghị các quan chức cao cấp; Ban thư ký
và các Ủy ban chuyên môn. Mặc dù APEC cũng có một bộ máy đề thực hiện
cơ chế phối hợp giữa các thành viên. Tuy nhiên, cho đến nay APEC cũng mới
chỉ dừng lại ở mức độ là một diễn đàn đối thoại, trao đổi có tính chất liên khu
vực chứ chưa phải là tổ chức quốc tế liên chính phủ với những cam kết ràng
buộc.
Với diện tích khoảng hơn 50 triệu km 2, dân số khoảng 2,3 tỷ người,
APPEC sẽ là thị trường tiêu thụ rất rộng lớn, một trung tâm công nghiệp hàng
đầu của thế giới với nhiều thị trường mới được khai thác bước đầu. APEC


không phải là khu vực thương mại tự do hay liên minh thuế quan mà theo cơ
chế “ khu vực mở”, ở đó việc tự do hóa thương mại diễn ra thông qua những
nỗ lực đơn phương của các nền kinh tế thành viên và đang tiến tới mục tiêu
tổng thể rộng lớn khơng cịn thuế quan và thể chế thương mại đầu tư mở cửa
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương khơng muộn hơn năm 2020 cho các
nền kinh tế đang phát triển và năm 2010 cho các nền kinh tế phát triển.
Trong bối cảnh trọng tâm kinh tế thế giới tiếp tục chuyển dịch về châu
Á-Thái Bình Dương, khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, nơi hội
tụ các công nghệ mới và lực lượng lao động có tay nghề, APEC được thừa
nhận là cơ chế dẫn dắt tiến trình tự do hóa thương mại, đầu tư, thúc đẩy xu thế

hợp tác toàn cầu, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cũng như duy
trì hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
4. EU
Liên minh châu Âu bắt nguồn từ Cộng đồng Than Thép châu Âu
(ECSC) và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC), được thành lập lần lượt vào
năm 1951 và 1958 bởi sáu nước thành viên là Bỉ, Pháp, Tây Đức, Ý,
Luxembourg và Hà Lan. Hiện nay, EU là một trong những khối kinh tế mạnh
nhất hành tinh.
Về cơ bản, cơ cấu của EU bao gồm: Hội đồng châu Âu, Hội đồng Bộ
trưởng, Nghị viện châu Âu, Uỷ ban châu Âu, Tòa án cộng đồng châu Âu, Tịa
Kiểm tốn và Ban thư ký.


Qua cac việc làm thiết thực EU đã có những đóng góp khơng nhỏ đối
với việc phát triển thương mại thế giới. Khối lượng thương mại ngày càng
tăng lên đáng kể nhờ vào việc tiếp tục loại bỏ các hàng rào thuế quan và hàng
rào phi thuế quan.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của EU tăng lên hằng năm (năm 1998:
1,463,13 tỷ USD; năm 19991: 1,532,37 tỷ USD; năm 2000: 1,575,51 tỷ
USD). Kim ngạch nhập khẩu của EU năm 2000 là 757,852 tỷ USD trong đó
59,1% là bn bán trong nội bộ EU và 40,9% là từ các nước ngoài EU. Giá trị
nhập khẩu vào EU tăng trung bình 4%/ năm, trong đó nhập khẩu từ Mỹ và
Trung Quốc chiếm khoảng 50%. Kim ngạch xuất khẩu của EU năm 2000 đạt
817,658 tỷ USD gồm xuất khẩu giữa các nước thành viên với nhau chiếm
61,8%, phần còn lại là xuất khẩu ra bên ngồi.
Từ những số liệu phân tích trên, chúng ta đã có thể thấy rằng EU chiếm
một tỷ trọng lớn trong thương mại tồn cầu và có vai trị nổi bật trong Tổ
chức Thương mại thế giới, bất kì một sự suy giảm nào của nền kinh tế EU đều
ảnh hưởng xấu đến hoạt động thương mại toàn cầu.
5. ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc, với 5 nước thành. Sau 50
năm tồn tại và phát triển, ASEAN ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác
khu vực liên Chính phủ bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á.


ASEAN ra đời đã có tác động vơ cùng lớn đến nền thương mại quốc tế
nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Trong thời gian gần đây, kim ngạch
thương mại ngoại khối của ASEAN tăng gấp 3 lần so với thương mại nội
khối. ASEAN cũng đang đóng vai trị đầu tàu trong đàm phán thỏa thuận
thương mại khu vực lớn nhất thế giới, đó là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực (16 quốc gia thành viên, chiếm 46% dân số thế giới và 24%
GDP toàn cầu, cung cấp những điều kiện tốt hơn về thương mại hàng hóa,
dịch vụ và đầu tư cho ASEAN cũng như 6 nền kinh tế bên ngồi khu vực).
ASEAN đang nhìn xa hơn vượt khỏi khu vực châu Á - Thái Bình
Dương nhằm mở rộng, tham gia tích cực hơn nữa trong lĩnh vực thương mại.
Hiện nay, ASEAN giữ vai trò trung tâm trong khu vực châu Á-Thái Bình
Dương; theo thống kê gần đây thì 10 quốc gia ASEAN đang có tổng GDP
khoảng gần 2.600 tỷ USD. Năm ngoái, ASEAN đã vượt qua Pháp trở thành
nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới, thứ 3 ở châu Á. ASEAN hiện là một khu
vực kinh tế năng động của thế giới với đà tăng trưởng cao. ASEAN trở thành
thị trường chung và mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của các nước lưu chuyển
thuận lợi, an toàn, và đặc biệt hơn là doanh nghiệp các nước trong khu vực có
thể mở rộng và phát triển kinh doanh tại tất cả các nước thành viên.
ASEAN có tiềm năng lớn để trở thành một nhân tố có ảnh hưởng hơn
trong nền kinh tế tồn cầu. Khi xu hướng bài tồn cầu hóa và tự do thương
mại đang trỗi dậy, ASEAN lại được xem như là biểu tượng của chủ nghĩa khu
vực mở.



6. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
Khu vực mậu dịch tự do các nước Bắc Mỹ được thành lập theo Hiệp
định ký kết ngày 12/8/1992 bao gồm 3 nước Mỹ, Canada và Mehico. Năm
1993, hiệp định NAFTA được quốc hội 3 nước thông qua, chủ trương dần
tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan giữa 3 nước, gạt bỏ mọi trở ngại trong các
lĩnh vực buôn bán, dịch vụ và đầu tư, cho phép công dân các nước thành viên
được tự do đi lại, mở ngân hàng, thị trường chứng khốn, cơng ty bảo hiểm...
Khác với EU, NAFTA chỉ mở rộng cửa buôn bán giữa các nước thành viên
bằng cách từ từ bãi bỏ hàng rào thuế quan chứ khơng tiến tới xóa bỏ biên giới
quốc gia và không xây dựng một thị trường thống nhất về tiền tệ.
Khu vực tự do Bắc Mỹ với nền tảng là Hiệp định NAFTA đã tác động
mạnh mẽ không chỉ với chính các nước thành viên mà cịn có ảnh hưởng đến
nền thương mại quốc tế. Sau khi ra đời khu vực mậu dịch tự do Bắc Mĩ, nền
thương mại khu vực Bắc Mĩ đã phát triển năng động hơn, nâng cao sức cạnh
tranh nhờ sự kết hợp giữa vốn và kĩ thuật cũng như nguồn tài nguyên của các
nước thành viên. Đối với nền thương mại của các nước thành viên, lượng xuất
khẩu, nhập khẩu của các nước thành viên tăng lên gấp 3 lần kể từ khi khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mĩ được thiết lập. Sự chuyển dịch lớn về vốn, cơng nghệ,
quản lí … đã tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu các ngành sản xuất, dịch
vụ của các nước thành viên, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế theo thống kê
trung bình từ 3 – 5% hằng năm. Tự do hóa thương mại trong khu vực mậu
dịch tự do bắc mĩ cũng tạo nhiều lợi thế cho cả sản xuất lẫn tiêu dùng của các


nước thành viên, dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng cao một cách thường xun vì nó
khuyến khích đầu tư vào cơng nghệ mới, tích tụ nhân lực, chun mơn hóa và
chuyển giao cơng nghệ quốc tế. Bên cạnh đó,cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các
nước Bắc Mĩ với các nước khác diễn ra ngày càng gay gắt hơn trước và cũng
chính từ đó đã tạo nên một động lực mới cho nền kinh tế thế giới. Khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mĩ có tác động 2 mặt đến nền thương mại thế giới; đây

chính là khả năng phát triển của các nước khác khi các nước buộc phải nâng
cao trình độ cũng như các tiêu chí để thỏa mãn điều kiện giao thương, nhu cầu
của khu vực Bắc Mĩ; đồng thời cũng đặt ra sự cạnh tranh gay gắt trong
thương mại.
III.

SỰ BẤT CẬP TRONG CƠ CHÊ THỰC THI VÀ ĐỀ XUẤT
PHƯƠNG HƯỚNG HỒN THIỆN
Khi khẳng định vai trị của hệ thống quản trị tồn cầu đối với mọi khía

cạnh của đời sống nói chung cũng như trong lĩnh vực thương mại quốc tế nói
riêng, ơng Stiglitz cịn tỏ ra quan ngại về sự bất cập của cơ chế thực thi. Thực
thi luật quốc tế trong lĩnh vực thương mại là quá trình các chủ thể thương mại
quốc tế áp dụng cơ chế đảm bảo các quy định của luật thương mại quốc tế
được thi hành và được tôn trọng đầy đủ trong đời sống pháp luật quốc tế. Hay
nói cách khác, thực thi luật thương mại quốc tế là q trình hiện thực hóa các
quy định của thương mại quốc tế vào đời sống thương mại.


Việc thực thi các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại, bên cạnh
những thành cơng thì thời gian qua cũng bộc lộ khơng ít những hạn chế, khó
khăn trong việc đảm bảo thực thi, có thể kể đến như sau:
Công tác chuẩn bị gia nhập các điều ước thương mại quốc tế thực hiện
chưa có hiệu quả như việc đánh giá tính hợp hiến của các điều ước quốc tế,
nhiều trường hợp xuất hiện hiện tượng mâu thuẫn hoặc trái với các nguyên tắc
pháp luật quốc gia dẫn tới tình trạng lúng túng, khó xử lí, việc nộp lưu chuyển
bản gốc điều ước quốc tế và công bố Điều ước quốc tế để làm cơ sở cho các
chủ thể tham gia quan hệ thương mại quốc tế biết được quyền lợi và nghĩa vụ
của mình trong quan hệ thương mại đó; Hệ thống pháp luật quốc gia khơng đủ
căn cứ để các cá nhân, tổ chức dựa vào đó để áp dụng cho việc thực thi các

điều ước quốc tế về thương mại; Cơ chế bảo đảm thực thi điều ước quốc tế
chưa hiệu quả; Nhận thức của cán bộ, cơng chức cịn hạn chế; Sự tham gia
của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến
các điều ước quốc tế còn nhiều hạn chế; Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo
đảm cho việc thực thi các điều ước quốc tế…
Trong GATT: Hiệp định Nơng nghiệp AoA có lợi nhiều hơn cho các
cường quốc kinh tế, nhiều nước đang phát triển đã cảm thấy rằng họ bị buộc
phải ký vào Hiệp định này. Cho nên việc thực thi các cam kết không mang lại
hiệu quả cao bởi những bất lợi cho các quốc gia đang phát triển.
Trong GATS và TRIPs: Thực tế, Hiệp định GATS và TRIPs phục vụ
cho mục đích của các nước phát triển để có thể thâm nhập dễ dàng hơn và


chiếm lĩnh thị trường dịch vụ của các nước đang phát triển như trong các lĩnh
vực bảo hiểm, hàng không, bưu chính viễn thơng, ngân hàng, vận tải, y tế…
Việc các nước đang phát triển “chen chân” là một thử thách cực kì lớn. Chính
vì thế, đa số các quốc gia đều e ngại và khơng đồng tình với hiệp định này.
Nhưng việc ra đời của Hiệp định là một tất yếu địi hỏi các nước phải chấp
nhận. Chính vì thế, sự khiên cưỡng là một yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi
GATS và TRIPs.
Trong việc giải quyết tranh chấp và thi hành: cơ chế thực thi các phán
quyết trong tranh chấp khơng có hiệu quả cao. Thậm chí ngay cả khi báo cáo
của Ban hội thẩm đã được thơng qua thì các phán quyết cũng khơng được thi
hành một cách tự động. Thực tế cho thấy khi yêu cầu cho phép đình chỉ
nhượng bộ khơng được chấp thuận thì các bên tăng cường sử dụng các biện
pháp trừng phạt đơn phương và điều này càng cho thấy hiệu quả của cơ chế
giải quyết tranh chấp vẫn còn hạn chế. Biện pháp trả đũa dể đảm bảo sự tuân
thủ của các bên trong tranh chấp không thể hiện được sự kết thúc một tranh
chấp. Các nước nhỏ thường gặp nhiều khó khăn khi trã đũa các nước lớn do
họ lo ngại việc trả đũa có thể gây hại cho chính nền kinh tế nước mình. Đồng

thời, GATT khơng quy định về biện pháp bồi thường thiệt hại hay việc hạn
chế thời gian thi hành phán quyết của bên thua kiện, do đó việc thực thi phán
quyết có thể bị kéo dài nhiều năm và giái trị hiệu lực của phán quyết cũng dần
suy giảm.


Trên đây là một vài nét minh chứng cho sự bất cập trong việc thực thi
các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại. Để hạn chế và khắc phục
những hạn chế đó, nhóm xin đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần thực hiện công tác xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế trong quá trình bảo đảm thi hành các điều ước quốc
thương mại mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia. Đây là điều kiện tiền đề để
đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế có hiệu quả, cụ thể: Hồn thiện hệ
thống pháp luật về việc thực thi điều ước quốc tế; Cần minh bạch hệ thống
các văn bản pháp lý có các quy định về thương mại mà điều ước quốc tế tác
động đến (GATT; GATS; TRIPs…)
Thứ hai, cần thiết lập một môi trường tốt để đảm bảo thực thi các điều
ước quốc tế, cụ thể: cần phải kiện toàn, củng cố bộ máy có chức năng thực
hiện điều ước quốc tế; Cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh với các hành
vi vi phạm điều ước quốc tế; Cần phải có những bảo đảm cần thiết để điều
ước quốc tế được thực hiện trong thương mại; Tăng cường mở rộng các cuộc
hội thảo, các dự án để nâng cao nhận thức các cơ quan, tổ chức, cá nhân về
các điều ước quốc tế.
Thứ ba, tiếp tục đàm phán, thương lượng trong tiến trình hội nhập và
tham gia các Hiệp định về thương mại (GATT; GATS; TRIPs…) đảm bảo sự
bình đẳng và có ưu thế hơn đối với các bên cịn chưa đủ tiềm lực kinh tế. Tạo
điều kiện thuận lợi để tất cả các bên tham gia có động lực tự nguyện thi hành
các điều ước quốc tế.



Thứ tư, đẩy mạnh vai trò của thiết chế giải quyết tranh chấp trong
thương mại quốc tế. Nâng cao hiệu quả thi hành các phán quyết của cơ quan
giải quyết tranh chấp, tạo ý thức tự nguyện thi hành của bên thua kiện. Đảm
bảo hài hòa mối quan hệ thương mại quốc tế.


KẾT LUẬN
Tóm lại, qua những tìm hiểu và phân tích trên, chúng ta đã có cái nhìn
tiếp cận câu nói của ơng Stiglitz trong các khía cạnh của đời sống quốc tế nói
chung, cũng như trong lĩnh vực luật thương mại quốc tế nói riêng. Bài nghiên
cứu của nhóm cũng đã kể tên các tổ chức quốc tế then chốt trong lĩnh vực này
để thấy những tác động rõ rệt từ khi các tổ chức này ra đời đến hoạt động
thương mại quốc tế. Quan ngại của Stiglitz cũng là quan ngại chung của thế
giới về 1 cơ chế thực thi còn nhiều bất cập – điều này ảnh hưởng rất lớn và
chi phối đến hiệu quà của hệ thống quản trị tồn cầu. Chính vì vậy mà hiện
nay cũng như trong thời gian tới, chúng ta cần phải có những biện pháp tích
cực để tăng cường tính khả thi, đảm bảo hiện thực hóa các quy định của
thương mại quốc tế vào đời sống thương mại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế,
Nxb. Công an nhân dân, 2013;
2. />3. />4. />5. />




×