Tải bản đầy đủ (.pdf) (351 trang)

Một trăm truyện tích nhân duyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.34 MB, 351 trang )


MỘT TRĂM
TRUYỆN TÍCH
NHÂN DUYÊN
Soạn tập bách duyên kinh


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN
(SOẠN TẬP BÁCH DUYÊN KINH)

NGUYỄN MINH TIẾN
Việt dịch và chú giải

Bản quyền thuộc về dịch giả và Nhà xuất bản Liên Phật
Hội.
Copyright © 2016 by Nguyen Minh Tien
ISBN-13: 978-1539703785
ISBN-10: 1539703789
© All rights reserved. No part of this book may be
reproduced by any means without prior written permission
from the publisher.


NGUYỄN MINH TIẾN
Việt dịch và chú giải

MỘT TRĂM
TRUYỆN TÍCH
NHÂN DUYÊN
NGUYÊN TÁC HÁN VĂN


SOẠN TẬP BÁCH DUYÊN KINH

撰集百緣經

NHÀ XUẤT BẢN LIÊN PHẬT HỘI



LỜI NĨI ĐẦU

T

ập sách “Một trăm truyện tích nhân dun”
này có nguồn gốc từ bản kinh tiếng Phạn
nhan đề là Avadāna-Cataka,1 nằm trong Đại tạng
kinh Phật giáo và đã được phiên dịch ra nhiều thứ
tiếng như Tây Tạng, Pāli, Hán, Pháp...
Bản dịch tiếng Pháp lấy tựa là “Avadāna-Cataka
ou Cent légendes bouddhiques”, do Léon Feer dịch
và phát hành tại nhà sách Ernest Leroux 28 Rue
Bonaparte Paris, in xong năm 1891. Trước đây cư sĩ
Đồn Trung Cịn đã dịch bản tiếng Pháp này sang
tiếng Việt.
Bản chữ Hán nhan đề “Soạn tập bách duyên
kinh”, do ngài Chi Khiêm đời nhà Ngô ở Trung
Quốc dịch từ tiếng Phạn, gồm 10 quyển, được đưa
vào Đại chánh tạng thuộc tập 4, kinh số 200, bắt
đầu từ trang 203.
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên
ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân

duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi
1

Avadāna, phiên âm là A-ba-đà-na, nghĩa là: nhân duyên, thí dụ.
Cataka: một trăm đời. Hán dịch là Soạn tập bách duyên kinh (撰
集 百 緣 經), tức là bản kinh thuật lại một trăm truyện tiền kiếp,
mỗi truyện đều nói lên nhân duyên từ trước. Kinh này thấy xuất
hiện từ khoảng thế kỉ thứ 2, nhấn mạnh tính chất quan trọng của
nghiệp báo.

5


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

tiết thú vị. Và với nội dung như thế, nên hầu như
có thể thích hợp cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Bất
cứ ai khi đọc qua một trong những truyện tích này
cũng đều có thể rút ra được những điều cần chiêm
nghiệm, suy ngẫm trong cách ứng xử hằng ngày
của mình.
Qua những câu truyện tích này, chúng ta hiểu
ra một điều đã từ nhiều thế kỷ nay rất quen thuộc
đối với mọi người Việt Nam, đó là: “Ở hiền gặp lành.”
Đây chính là tinh thần Phật giáo bàng bạc trong
dân gian, một thứ đạo lý không cần rút ra từ thiên
kinh vạn quyển, mà như một sự chứng nghiệm cụ
thể qua những gì tai nghe mắt thấy hằng ngày.
Chính nhờ vậy mà bản dịch của cư sĩ Đồn
Trung Cịn trước đây đã được sự đón nhận rất nhiệt

tình từ nhiều tầng lớp độc giả khác nhau, từ bậc trí
thức uyên thâm cho đến giới bình dân ít học.
Gần đây, khi đối chiếu kỹ giữa nguyên bản chữ
Hán trong Đại tạng kinh với bản dịch của cư sĩ
Đồn Trung Cịn, chúng tơi thấy có một số điểm
cần sửa chữa, bổ khuyết. Vì thế, chúng tơi không
nệ tài hèn sức mọn, đã nỗ lực hết sức để hồn thiện
những gì người đi trước đã làm.
Trên tinh thần đó, chúng tơi cố gắng gìn giữ
tối đa bản dịch cũ, nhưng đồng thời cũng so sánh
với bản chữ Hán để hoàn chỉnh nội dung hơn so
với trước đây. Như vậy, bản dịch tiếng Việt lần này
được kết hợp giữa hai bản dịch Pháp văn và Hán
văn như đã nói trên. Bản hồn chỉnh đã được xuất
6


LỜI NĨI ĐẦU

bản với hình thức in kèm theo bản chữ Hán và đã
được đơng đảo bạn đọc đón nhận (NXB Tôn giáo,
Hà Nội, 2005).
Do nhu cầu của đông đảo bạn đọc, trong đó có
nhiều người khơng sử dụng đến phần Hán văn, nên
lần này chúng tôi chỉ cho in riêng phần Việt dịch và
chú giải, nhằm tạo điều kiện để nhiều người được
tiếp cận với bản kinh này hơn. Ngồi ra, chúng tơi
cũng thực hiện một số điểm bổ sung, chỉnh sửa cho
bản dịch so với lần in trước.
Mặc dù đã cố gắng hết sức mình, nhưng do sự

giới hạn nhất định về trình độ và năng lực, chắc
chắn khơng tránh khỏi có ít nhiều sai sót, kính
mong các bậc cao minh rộng lòng chỉ giáo.


NGUYỄN MINH TIẾN

7


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

8


PHẨM THỨ NHẤT

BỒ TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ1
1.
THỈNH PHẬT TỪ PHƯƠNG XA

L

úc ấy, đức Phật ở gần thành Vương Xá,2
trong khu rừng Trúc Lâm.

Bấy giờ, về phía nam có người bà-la-mơn tên là
Mãn Hiền,3 giàu có, của cải tài vật nhiều vơ kể.
Người này tánh tình nhu thuận, hiền hậu, giàu
lịng thương người và rất chuộng việc bố thí. Ơng

tin và thờ phụng đức Tỳ-sa-môn,4 đã từng chu cấp,
cúng dường cho cả trăm ngàn thầy ngoại đạo, hy
vọng nhờ phước ấy mà được sinh lên cõi trời.
Lúc ấy, có một người họ hàng của Mãn Hiền từ
thành Vương Xá đến. Ông này đã từng đến lễ Phật,
1

Thọ ký: Phật xác nhận và nói trước việc thành Phật về sau này
của một vị Bồ Tát.
2
Vương Xá (王舍): phiên âm từ tiếng Phạn là Rājagriha, cũng dịch
theo nghĩa là La Duyệt.
3
Phiên âm là Phú-lâu-na, từ tiếng Phạn là Pūrna, nghĩa là đầy đủ,
Hán dịch là Mãn Hiền (滿 賢).
4
Một trong các vị thần được thờ phụng theo tín ngưỡng Bà-la-mơn,
có từ trước khi Phật ra đời.

9


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

nên ca tụng với Mãn Hiền về công đức của ngôi Tam
bảo: Phật, Pháp, Tăng. Ơng nói rằng, chính vua
Tần-bà-sa-la1 ở thành Vương Xá cũng qui y theo
Phật và có đến hàng trăm ngàn người, gồm cả các vị
đại thần, trưởng giả, quan thuộc... đều theo gương
vua mà theo đạo Phật. Oai đức của Phật khiến cho

tất cả mọi người không ai nghe đến mà khơng hết
lịng kính ngưỡng, tán thán.
Ơng Mãn Hiền nghe người ấy xưng tụng cơng
đức của Phật thì tự nhiên sinh lịng tin phục, kính
ngưỡng. Ơng liền lên trên lầu cao, quay mặt về phía
thành Vương Xá, quỳ gối tung các thứ hương hoa,
nước sạch lên và cầu thỉnh đức Phật rằng: “Như
Lai công đức vô lượng, ngưỡng mong ngài thọ nhận
những lễ cúng dường này và khiến cho hương thơm
bay tỏa khắp thành Vương Xá, hoa thơm hóa thành
lọng hoa mà che trên đầu Phật.”
Phát nguyện như vậy rồi, liền thấy những hương
hoa cúng Phật tự bay đến thành Vương Xá, khói
hương bay tỏa khắp thành, cịn hoa thơm thì tụ lại
thành một lọng hoa bay đến che trên đầu Phật.
Khi ấy, Tơn giả A-nan2 nhìn thấy sự thần biến
như vậy liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn,
chẳng hay những hương hoa này từ đâu mà đến?”
Đức Thế Tôn đáp rằng: “A-nan! Về phía nam, ở
1
2

Tần-bà-sa-la: phiên âm từ tiếng Phạn là Bimbisāra.
A-nan, hay A-nan-đà, tiếng Phạn là Ānanda, Hán dịch là Khánh
Hỷ (慶喜) nghĩa là “rất vui”. Ngài A-nan là thị giả của Phật trong
hai mươi năm, được Phật khen là Đa văn đệ nhất trong các đệ tử
của Ngài.

10



THỈNH PHẬT TỪ PHƯƠNG XA

nước Kim Địa, có người trưởng giả tên là Mãn Hiền.
Người ấy từ phương xa mà phát nguyện thỉnh ta
cùng chư tăng đến để cúng dường. Ta nhận lời thọ
nhận lễ cúng, vậy chư tỳ-kheo hãy cùng nương thần
lực của ta mà đi đến đó!”
Bấy giờ đức Phật và một ngàn vị tỳ-kheo cùng
hiện về phương nam. Nhờ thần lực của Phật, các
vị đều thấy như chỉ gần trong gang tấc. Phật lại
hiện thần lực khiến cho một ngàn vị tỳ-kheo đều ẩn
hình đi khơng ai nhìn thấy, duy chỉ thấy một mình
ngài ơm bát đến chỗ ông trưởng giả Mãn Hiền.
Bấy giờ ông Mãn Hiền biết Phật đã đến liền
cùng với năm trăm người thuộc hạ ra nghênh tiếp,
mang theo đủ các thứ thức ăn ngon q để cúng
dường. Ơng nhìn thấy đức Thế Tơn với ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang rạng ngời,
sáng hơn cả trăm ngàn mặt trời, dáng đi uy nghi,
thanh thoát, đủ vẻ trang nghiêm tốt đẹp, liền đến
quỳ lạy dưới chân Phật, thưa rằng: “Lành thay!
Nay đức Thế Tơn đã từ bi thương xót mà đến đây
thọ nhận phẩm vật cúng dường của con.”
Phật bảo Mãn Hiền rằng: “Ơng muốn cúng
dường ta món gì, cùng với năm trăm thuộc hạ của
ông nữa, hãy đặt hết thảy vào bình bát của ta đây!”
Ơng Mãn Hiền với năm trăm thuộc hạ vâng lời
dạy liền đặt các món thức ăn mang đến vào bình
bát của Phật. Rất nhiều các thứ đồ ăn thức uống

ngon quý, số dùng cho cả ngàn người, nhưng đặt
mãi vào mà bình bát vẫn khơng đầy.
11


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

Do thần lực của đức Thế Tơn, bình bát của một
ngàn vị tỳ-kheo khi ấy đều được đầy đủ các món vật
thực, rồi các ngài bỗng nhiên hiện hình ra đứng vây
quanh đức Phật.
Chứng kiến phép mầu nhiệm ấy, ông trưởng
giả Mãn Hiền khen là việc chưa từng có, liền lấy
hết tâm thành mà lễ bái Phật, phát lời nguyện lớn
rằng: “Với phước lành cúng dường vật thực lên đức
Phật và chư tăng hôm nay, nguyện trong đời vị lai
tơi sẽ vì những chúng sanh mù lịa mà hóa hiện làm
cho mắt sáng, vì những chúng sanh chưa thọ pháp
quy y mà giáo hóa cho quy y, vì những chúng sanh
khơng người cứu hộ mà hóa thân cứu hộ, vì những
chúng sanh chưa được an ổn mà làm cho an ổn, vì
những chúng sanh chưa nhập Niết-bàn mà làm cho
đều được nhập Niết-bàn.”
Khi ông phát nguyện như vậy rồi thì đức Thế
Tơn liền mỉm cười, từ nơi trán, giữa hai lơng mày
phóng ra một đạo hào quang năm sắc chiếu khắp
thế giới, hóa hiện đủ các màu sắc, bay quanh Phật
ba vòng rồi lại theo chỗ trên trán Phật mà bay trở
vào.
Khi ấy, A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai là

đấng tôn quý, chẳng bao giờ vơ cớ mà cười. Nay vì
nhân dun gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải
cho chúng con được biết.”
Phật bảo A-nan: “Ơng có nhìn thấy trưởng giả
Mãn Hiền đây cúng dường ta chăng?” A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”
12


THỈNH PHẬT TỪ PHƯƠNG XA

Phật dạy: “Trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa,
người này sẽ tu tập đủ các hạnh Bồ Tát,1 đầy đủ
tâm đại bi, sáu phép ba-la-mật,2 sau cùng sẽ thành
Phật hiệu là Mãn Hiền,3 hóa độ chúng sanh số
lượng nhiều khơng thể tính đếm. Vì nhân dun ấy
mà ta mỉm cười.”
Khi nghe Phật thuyết nhân duyên thành Phật
về sau của ơng trưởng giả Mãn Hiền, trong đại
chúng có người được đắc quả Tu-đà-hồn, có người
đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm,
có người đắc quả A-la-hán.4 Lại có người phát tâm

1

Bồ Tát: quả vị của người tu theo Đại thừa đạt đến trước khi thành
Phật. Theo nghĩa này thì có 10 quả vị, hay 10 địa vị từ thấp đến
cao mà người tu lần lượt trải qua, gọi là Thập địa. Bồ Tát cũng còn
được hiểu theo nghĩa là người đã phát tâm đại thừa và đang tu tập
để đạt đến quả vị Phật.

2
Sáu phép ba-la-mật: Đó là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, trí
tuệ và thiền định. Ba-la-mật là phiên âm tiếng Phạn, Hán dịch là
Đáo bỉ ngạn, hiểu theo nghĩa là đến bờ bên kia. Người đạt đến
cuộc sống giải thoát cũng giống như đã vượt qua được con sông
khổ não, nên gọi là đến được bờ bên kia. Vì sáu phép tu tập này
giúp người tu đạt đến giải thoát nên gọi là sáu phép ba-la-mật.
3
Mãn Hiền: tiếng Phạn là Pūrnabhadra. Pūrna nghĩa là sung mãn,
đầy đủ; bhadra nghĩa là hiền lành, thông minh.
4
Từ Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, cho đến A-la-hán là bốn
thánh quả của người tu tập theo giáo pháp Tứ diệu đế. Tu-đàhoàn, Hán dịch là Nhập lưu, là quả vị đầu tiên, xem như mới
nhập vào dòng thánh. Tư-đà-hàm, Hán dịch là Nhất lai, nghĩa
là còn phải thọ sanh trong luân hồi một lần nữa. A-na-hàm, Hán
dịch là Bất lai, nghĩa là đã dứt sạch nghiệp quả, khơng cịn phải
tái sinh nữa. A-la-hán, Hán dịch là Ứng cúng, nghĩa là bậc đầy đủ
phước đức, trí tuệ, xứng đáng nhận sự cúng dường của chư thiên
và loài người.

13


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUN

tu tập thành Bích-chi Phật,1 lại có người phát tâm
Vơ thượng Bồ-đề.2
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên
này xong thảy đều vui mừng tin nhận.3
2

NGƯỜI CON DÂU KÍNH PHẬT

L

úc ấy, đức Phật ở gần thành Tỳ-xá-ly4 với
chư tỳ-kheo, trong vườn hoa gần bờ sông
Nhĩ-hầu, nơi giảng đường được xây cất có nhiều
1

Bích-chi Phật: cịn gọi là Độc giác Phật hay Duyên giác Phật. Đây
là quả vị của người tu theo giáo pháp Thập nhị nhân duyên. Gọi
là Độc giác Phật, vì các vị này ra đời và tu tập theo lý nhân duyên
mà đạt đến giải thốt, vào thời khơng có Phật. Gọi là Dun giác
Phật là vì các vị đạt đến giải thốt nhờ tu tập pháp nhân duyên.
Cả bốn thánh quả và quả vị Bích-chi Phật đều được xem là những
quả vị của Tiểu thừa.
2
Tâm Vô thượng Bồ-đề, hay Bồ-đề tâm, tức là tâm nguyện muốn
thành Phật, bậc giác ngộ hoàn toàn. Đây không phải là một quả
vị do tu tập chứng đắc, mà là sự phát tâm mạnh mẽ ban đầu,
quyết lịng tu tập cho đến khi được hồn tồn giác ngộ. Vì thế, bất
cứ ai khi đã có đủ đức tin đều có thể phát Bồ-đề tâm.
3
Ơng Mãn Hiền, hay Phú-lâu-na (Pūrna) này có lẽ trùng tên với
ơng Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử (Pūrna Mailtrayaniputtra) ở thành
Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Trong số cả ngàn vị thánh tăng đệ tử
của Phật, có rất nhiều vị trùng tên. Ông Phú-lâu-na Di-đà-lani tử được Phật cho thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Pháp Minh
(Dharmaprabhāsa). Cịn ơng Phú-lâu-na này được Phật thọ ký là
sẽ thành Phật hiệu Pūrnabhadra (Mãn Hiền).
4

Tỳ-xá-ly (Vaicāli), Hán dịch là Quảng Nghiêm, là một thành lớn
trong xứ Ấn Độ thời ấy.

14


NGƯỜI CON DÂU KÍNH PHẬT

tầng. Khi ấy, đức Phật đắp y mang bát, cùng với
chư tỳ-kheo vào thành mà hóa trai,1 đến nhà một
vị trưởng giả tên là Sư Tử.2
Vị trưởng giả này có người con dâu tên là Danh
Xưng.3 Cơ này nhìn thấy dung nhan của Phật oai
nghiêm đẹp đẽ, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi
vẻ đẹp, hào quang rạng chiếu rực rỡ quanh thân,
liền lấy làm vui vẻ, hân hoan vô cùng.
Cô hỏi người cha chồng: “Thưa cha! Có cách nào
để có được dung mạo tốt đẹp, trang nghiêm như
Phật chăng?”
Ông trưởng giả đáp: “Nếu con có thể tu tập đầy
đủ cơng đức, phát tâm Vơ thượng Bồ-đề, thì cũng
sẽ được thân tướng, dung mạo trang nghiêm đẹp đẽ
như đức Thế Tôn vậy.”
Người con dâu nghe rồi liền xin cha một số tiền
lớn để thiết hội thỉnh Phật cúng dường. Cô cúng
dường Phật xong, lại dùng các thứ hoa quý đẹp
trang nghiêm mà tung lên không trung để cúng
dường, xưng tán Phật. Những hoa ấy từ trên không
trung rơi xuống liền tự kết thành một tán hoa rất
lớn mà che trên đỉnh đầu của Phật, tùy khi Phật đi

đứng nơi đâu cũng đều bay theo mà che phía trên
Phật.
1

Hóa trai: tức là đi khất thực, mang bình bát đi đến từng nhà để
tạo điều kiện cho bá tánh cúng dường thức ăn.
2
Tiếng Phạn là Simha.
3
Phiên âm tiếng Phạn là Gia-xơ-ma-tý (Yacomati): nghĩa là có
danh vọng, Hán dịch là Danh Xưng.

15


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUN

Cơ Danh Xưng nhìn thấy phép mầu nhiệm ấy,
lịng vui mừng khơng tả xiết, liền quỳ sụp xuống,
chí thành lễ Phật, phát lời đại nguyện rằng: “Nhờ
công đức cúng dường hôm nay, trong đời vị lai tơi
nguyện sẽ có thể vì những chúng sanh mù lịa mà
cứu giúp cho được sáng mắt, vì những chúng sanh
chẳng quy y Phật mà độ cho quy y; [tôi sẽ làm cho]
những chúng sanh không người cứu hộ sẽ được cứu
hộ, những chúng sanh không được an ổn sẽ được an
ổn, những chúng sanh chưa nhập Niết-bàn sẽ được
nhập Niết-bàn.”
Khi ấy, Phật quán sát thấy cô phát lời nguyện
lớn như vậy rồi liền mỉm cười, từ nơi trán, giữa hai

lơng mày phóng ra một đạo hào quang năm sắc
chiếu khắp thế giới, hóa hiện đủ các màu sắc, bay
quanh Phật ba vòng rồi lại theo chỗ trên trán Phật
mà bay trở vào.
Khi ấy, ngài A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai
là đấng tôn quý, chẳng bao giờ vô cớ mà cười. Nay
vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải
cho chúng con được biết.”
Phật bảo A-nan: “Ơng có nhìn thấy cơ gái tên
Danh Xưng đây cúng dường ta chăng?” A-nan thưa:
“Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”
Phật dạy: “Nay cô gái này đã phát tâm Bồ-đề
rộng lớn, nên trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa sẽ
tu tập đủ các hạnh Bồ Tát, đầy đủ tâm đại bi, sáu
phép ba-la-mật, sau cùng thành Phật hiệu là Bảo
16


ĐỨA CON LƯỜI BIẾNG

Ý,1 hóa độ chúng sanh nhiều vơ số. Vì nhân duyên
ấy mà ta mỉm cười.”
Khi nghe Phật thuyết nhân duyên thành Phật
về sau của cô Danh Xưng, trong đại chúng liền có
người đắc quả Tu-đà-hồn, có người đắc quả Tưđà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc
quả A-la-hán. Lại có người phát tâm tu tập thành
Phật Bích-chi, lại có người phát tâm Vơ thượng Bồđề.
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên
này xong thảy đều vui mừng tin nhận.
3.

ĐỨA CON LƯỜI BIẾNG

L

úc ấy, đức Phật đang ở gần thành Xá-vệ,2
trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc.3 Trong

1

Tiếng Phạn là Ratnamati, phiên âm là Lặc-na Ma-đề, Hán dịch
là Bảo Ý (寶意).
2
Xá-vệ (Śrāvāsti), cũng đọc là Thất-la-phạt, có nghĩa là Văn Giả,
Văn Phật, Phong Đức, Háo Đạo, kinh đô của nước Câu-tát-la
(Kośala). Nơi kinh thành ấy sản sinh nhiều nhân vật danh tiếng,
nhiều vị tu hành có phước đức, đạo hạnh và trí tuệ.
3
Kỳ thọ Cấp Cơ Độc: Cảnh vườn hoa của Thái tử Kỳ Đà. Ngài bán
đất, nhưng cúng dường cây cối trong vườn, nên gọi là Kỳ thọ (cây
của Thái tử Kỳ-đà). Ông trưởng giả Cấp Cô Độc mua đất trong
vườn ấy mà xây cất Tinh xá cúng cho Giáo hội, nên gọi là vườn
Cấp Cô Độc. Theo chữ Hán mà đọc trọn là Kỳ thọ Cấp Cô Độc
viên : tức là cảnh đất trong vườn của ơng Cấp Cơ Độc, cịn cây
cối là của thái tử Kỳ Đà.

17


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUN


thành có một người trưởng giả rất giàu có, duy chỉ
có một đứa con trai đặt tên là Nan-đà,1 cực kỳ lười
nhác. Cậu chỉ thích nằm dài ra ngủ, chẳng muốn đi
đứng hay ngồi dậy khỏi giường. Tuy vậy, cậu thơng
minh, sáng trí lắm, chỉ nằm đó mà nghe đọc các
thứ kinh sách là có thể hiểu thấu nghĩa lý, khơng
gì khơng biết.
Người cha thấy cậu bé thông minh, luận giải
kinh luận đều thông thạo, liền tự nghĩ rằng: “Thằng
bé này thông minh xuất chúng, ta nên đón thầy
ngoại đạo Phú-lan-na,2 và các thầy ngoại đạo khác
đến dạy dỗ cho nó.”
Nghĩ như vậy rồi, ơng liền bày biện các món
ngon vật lạ cúng dường trọng thể, mời thỉnh các
thầy ngoại đạo đến. Khi các thầy ăn uống đã xong,
ơng mới thưa rằng: “Tơi chỉ có một đứa con trai duy
nhất, tánh tình lười nhác hết mức, chỉ muốn nằm
ngủ hoài, chẳng muốn ngồi dậy. Nay nhờ các thầy
dạy dỗ cho, giúp nó được thơng thạo kinh luận, thay
đổi tính nết mà nối được nghiệp nhà.”
Bấy giờ sáu thầy ngoại đạo cùng nhau đến chỗ
cậu bé. Cậu biết các thầy đến nhưng cứ nằm lỳ
chẳng chịu ngồi dậy, nói chi đến chuyện mời các
thầy ngồi. Ơng trưởng giả thấy như vậy thì trong
lịng buồn khổ, âu sầu vô hạn.
Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm đại bi thương
1
2

Tiếng Phạn là Nanda: nghĩa là vui vẻ.

Phú-lan-na: Pūrna, một trong sáu thầy ngoại đạo đương thời với
Phật.

18


ĐỨA CON LƯỜI BIẾNG

xót mà quán sát hết thảy chúng sanh, thường đến
những nơi khổ não mà thuyết pháp độ sinh. Phật
thấy ơng trưởng giả vì thương con mà âu sầu, khổ
não, liền cùng với chư tỳ-kheo đi đến nhà ấy.
Khi đức Phật vừa bước vào nhà thì cậu bé lười
nhác bỗng nhiên vùng dậy, lấy ghế mời Phật ngồi.
Cậu đối trước Phật lễ bái rồi đứng hầu sang một
bên.
Đức Phật liền vì cậu bé mà thuyết pháp, lại quở
trách sự lười nhác của cậu. Cậu bé nghe rồi tự biết
hối cải, sanh lịng tin sâu, kính ngưỡng Phật.
Bấy giờ, đức Phật trao cho cậu bé một cây gậy
quý bằng gỗ chiên-đàn, nói rằng: “Nếu con chịu
phát khởi lịng tinh tấn chuyên cần, dùng gậy này
mà gõ xuống, sẽ phát ra âm thanh hay lạ. Người
nghe được âm thanh ấy có thể nhìn thấy trân bảo,
châu báu ẩn chứa trong lịng đất.”
Cậu bé nghe lời Phật dạy thì liền làm theo.
Cậu lấy gậy mà gõ xuống đất, nghe được những âm
thanh hay lạ, nghe rồi liền nhìn thấy được những
trân bảo, châu báu nằm sâu trong lòng đất. Cậu
thấy được như vậy rồi thì hết sức vui mừng, liền tự

nghĩ rằng: “Ta nghe lời dạy của đức Thế Tôn, chỉ
mới siêng năng dụng công đôi chút mà đã được sự
lợi ích chưa từng có, huống hồ hết lịng siêng năng,
chun cần mà làm việc.”
Nghĩ như vậy rồi, ít lâu sau cậu liền quyết định
sẽ khởi sự lên đường ra biển mà tìm trân bảo, châu
báu. Vị thiếu niên ấy truyền rao khắp thành Xá-vệ
19


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUN

tuyển mộ người theo mình cùng đi ra biển tìm trân
bảo. Chàng tìm được rất nhiều châu báu, lại đưa
tất cả mọi người an toàn trở về nhà.
Khi ấy, chàng liền bày biện đủ các thứ trân bảo
quý giá cùng nhiều món ăn ngon lạ, tinh khiết,
thỉnh Phật và chư tăng đến để cúng dường.
Bấy giờ Phật cùng chư tỳ-kheo liền đến thọ nhận
lễ cúng dường của cậu bé lười nhác ngày trước. Thọ
cúng dường xong, lại vì chàng mà thuyết pháp cho
nghe. Nghe pháp rồi dứt sạch lòng tham lam, sân
hận, liền mang nhiều trân bảo quý giá tung lên hư
không mà cúng dường Phật. Những trân bảo quý
giá ấy liền tụ lại trên không thành một cái tán lớn
mà bay theo che bên trên Phật.
Chàng thiếu niên nhìn thấy sự biến hóa nhiệm
mầu ấy lại càng tin sâu Tam bảo, chí thành lễ Phật
mà phát lời nguyện lớn rằng: “Nhờ công đức cúng
dường hơm nay, trong đời vị lai tơi nguyện sẽ có thể

vì những chúng sanh mù lịa mà cứu giúp cho được
sáng mắt, vì những chúng sanh chẳng quy y Phật
mà độ cho quy y; [tôi sẽ làm cho] những chúng sanh
không người cứu hộ sẽ được cứu hộ, những chúng
sanh không được an ổn sẽ được an ổn, những chúng
sanh chưa nhập Niết-bàn sẽ được nhập Niết-bàn.”
Chàng phát nguyện rồi, đức Phật liền mỉm cười,
từ nơi trán, giữa hai lông mày phóng ra một đạo
hào quang năm sắc, bay quanh Phật ba vòng rồi lại
theo chỗ trên trán Phật mà bay trở vào.
Khi ấy, ngài A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai
20


NGƯỜI KHÁCH THƯƠNG

là đấng tôn quý, chẳng bao giờ vô cớ mà cười. Nay
vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải
cho chúng con được biết.”
Phật hỏi A-nan: “Ơng có nhìn thấy cậu bé lười
nhác ngày trước giờ đây phát tâm cúng dường ta
chăng?” A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”
Phật dạy: “Cậu bé này trải qua ba a-tăng-kỳ
kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu là Tinh Tấn Lực,1 hóa
độ chúng sanh nhiều vơ số. Vì nhân dun ấy mà
ta mỉm cười.”
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên
này xong thảy đều vui mừng tin nhận.
4.
NGƯỜI KHÁCH THƯƠNG


L

úc ấy, đức Phật đang ở gần thành Xá-vệ,
trong vườn Kỳ thọ Cấp Cơ Độc. Trong
thành có một nhà bn lớn cùng với 500 người khác
cùng chở hàng hóa đi bn xa bằng đường biển.
Thuyền ra biển cả bị sóng đánh chìm, ơng may mắn
sống được mà về. Người ấy liền ngày đêm cầu khấn,
cúng vái các vị thần linh để cầu sự che chở. Rồi sắp
xếp ra biển, lại bị chìm thuyền. Đến ba lần như vậy,
cũng khơng có lần nào được an ổn.
1

Tiếng Phạn là Atibalaviryaparākrama, nghĩa là: Rất mực cang
cường, hùng lực, dõng mãnh. Hán dịch là Tinh Tấn Lực (精進力).

21


MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

Khi ấy, người thương chủ nhờ may mắn mà sống
sót mấy lần, trở về được nơi thành Xá-vệ, trong lòng
sanh ra âu sầu áo não, liền suy nghĩ rằng: “Ta nghe
có đức Phật Thế Tơn là bậc sáng suốt, trong cõi trời
người chẳng ai bằng, lịng thường thương xót cứu
hộ hết thảy chúng sanh. Nay ta nên chí thành xưng
danh hiệu ngài, nguyện rằng nếu được đi về bình
an thì sẽ lấy một nửa số châu báu kiếm được mà

cúng dường ngài.”
Nghĩ như vậy rồi, liền sắp đặt thuyền ra khơi
lần nữa. Lần này, ông chí thành niệm danh hiệu
Phật mà cầu được an ổn trở về. Quả nhiên, ơng đi
về bình an vơ sự, mang về được rất nhiều trân bảo,
châu báu.
Về nhà rồi, ông mang những của báu kiếm được
ra ngắm nghía, tâm tham lam nổi lên, khơng thể
dứt lịng mà mang phân nửa số châu báu đi cúng
Phật. Ông liền nghĩ: “Nếu không mang phân nửa
số châu báu này đi cúng Phật thì trái lời đã hứa.
Chi bằng ta mang phân nửa số châu báu này mà
bán cho vợ ta, lấy hai đồng bạc, rồi mang hai đồng
bạc ấy mua hương mang đến tinh xá Kỳ Hoàn mà
đốt lên cúng dường Phật, cũng xem như giữ được lời
hứa trước.”1
Nghĩ rồi làm y như vậy. Người ấy mua hai đồng
bạc hương và đi đến tinh xá Kỳ Hoàn, đốt hương
cúng dường Phật. Khi ấy, Phật dùng thần lực làm
1

Theo cách làm như vậy tức là ông ta đã giữ lời hứa mà cúng hết
phân nửa của cải, nhưng thật ra châu báu vẫn cịn nơi nhà ơng!

22


NGƯỜI KHÁCH THƯƠNG

cho khói hương bay lên hóa thành những đám mây

hương lớn, che phủ khắp vùng tinh xá Kỳ Hồn.
Người thương chủ ấy thấy sự thần biến như vậy,
lịng tự hối trách, suy nghĩ rằng: “Đức Như Lai Thế
Tôn thật có thần biến, hiện phép mầu nhiệm xưa
nay ta chưa từng được thấy. Nhờ sức thần hộ niệm
của ngài mà ta được yên ổn đi về, thâu hoạch nhiều
châu báu. Nay ta lại sanh lịng tham tiếc nhỏ nhen,
khơng muốn mang châu báu đến cúng dường ngài,
thật đáng xấu hổ!”
Nghĩ như vậy rồi, ơng liền quỳ xuống chí thành
thỉnh Phật và chư tăng cùng đến thọ lễ cúng dường
ở nhà ông. Đức Phật nhận lời.
Ngày hôm sau, ông chuẩn bị mọi thứ chu đáo,
lại sai người đến mời thỉnh một lần nữa. Phật và
chư tăng cùng đến nhà ông thọ lễ cúng dường. Xong
lễ, đức Phật lại vì ơng mà thuyết pháp. Ơng nghe
pháp rồi lịng tham lam trừ dứt, liền mang những
trân bảo quý báu ra mà ném lên hư không để cúng
dường Phật. Những trân bảo quý báu ấy bỗng nhiên
tụ lại trên hư không thành một cái lọng báu rất lớn,
bay che bên trên đức Phật.
Người thương chủ thấy sự biến hóa kỳ diệu như
vậy, liền chí thành lễ Phật, phát lời nguyện lớn
rằng: “Nhờ cơng đức cúng dường hôm nay, trong đời
vị lai tôi nguyện sẽ có thể vì những chúng sanh mù
lịa mà cứu giúp cho được sáng mắt, vì những chúng
sanh chẳng quy y Phật mà độ cho quy y; [tôi sẽ
làm cho] những chúng sanh không người cứu hộ sẽ
23



MỘT TRĂM TRUYỆN TÍCH NHÂN DUYÊN

được cứu hộ, những chúng sanh không được an ổn
sẽ được an ổn, những chúng sanh chưa nhập Niếtbàn sẽ được nhập Niết-bàn.”
Ông phát nguyện vừa xong, đức Phật liền mỉm
cười, từ nơi trán, giữa hai lơng mày phóng ra một
đạo hào quang năm sắc, bay quanh Phật ba vòng
rồi lại theo chỗ trên trán Phật mà bay trở vào.
Khi ấy, ngài A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai
là đấng tôn quý, chẳng bao giờ vô cớ mà cười. Nay
vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải
cho chúng con được biết.”
Phật hỏi A-nan: “Ơng có nhìn thấy người
thương chủ đây phát tâm hối hận, tự trách rồi cúng
dường ta chăng?” A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, con
đã thấy.”
Đức Phật dạy: “Người thương chủ này nhờ cơng
đức cúng dường ta, từ nay khơng cịn đọa vào ba nẻo
ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; thường sanh nơi cõi
trời, hưởng nhiều sự khoái lạc. Trải qua ba a-tăngkỳ kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu là Bảo Thạnh,1 hóa
độ chúng sanh nhiều vơ số. Vì nhân dun ấy mà
ta mỉm cười.”
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên
này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

1

Tiếng Phạn là Ratnottama, Hán dịch là Bảo Thạnh (寶盛).


24


×