Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đề cương tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, Bản luận tội vụ án Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.6 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CHUNG
NGUỒN THẨM PHÁN, KIỂM SÁT VIÊN, LUẬT SƯ

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ HỒ SƠ TÌNH HUỐNG
MÔN HỌC: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Mã học phần: HSCB1. Số tín chỉ: 4)
Chuyên đề 02:
Câu hỏi 1: Dự thảo đề cương tranh luận khi luật sư của bị cáo Đỗ Văn Mạnh cho
rằng việc bà Vũ Thị Hà sang đường nhanh, bất ngờ, khuất tầm nhìn, đó là lỗi hồn toàn
thuộc về nạn nhân nên thân chủ Đỗ Văn Mạnh không phạm tội (Hồ sơ ĐTC 22/HS-HV bị
can Đỗ Văn Mạnh - Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ)
Câu hỏi 2: Dự thảo về phần mở đầu, phần kết luận và phần đề nghị xử lý trong luận
tội của Kiểm sát viên (Mẫu số 13/XS) theo hồ sơ LS.HS 07 - Trần Hồng Đức và đồng bọn
- Mua bán trái phép chất ma túy.
Họ và tên: Nguyễn Thành Đức
Ngày, tháng, năm sinh: 17/07/1994
SBD 16 Lớp đào tạo chung nguồn
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, khóa 5.1 tại Hà Nội
Hà Nội, Ngày 26 tháng 09 năm 2021


MỤC LỤC

ĐỀ BÀI CHUYÊN ĐỀ 02.................................................................................................1
BÀI LÀM........................................................................................................................... 2
Câu hỏi 1: Dự thảo đề cương tranh luận khi luật sư của bị cáo Đỗ Văn Mạnh cho
rằng việc bà Vũ Thị Hà sang đường nhanh, bất ngờ, khuất tầm nhìn, đó là lỗi hoàn
toàn thuộc về nạn nhân nên thân chủ Đỗ Văn Mạnh không phạm tội (Hồ sơ ĐTC
22/HS-HV bị can Đỗ Văn Mạnh - Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường


bộ)....................................................................................................................................... 2
Câu hỏi 2: Dự thảo về phần mở đầu, phần kết luận và phần đề nghị xử lý trong luận
tội của Kiểm sát viên (Mẫu số 13/XS) theo hồ sơ LS.HS 07 - Trần Hồng Đức và đồng
bọn - Mua bán trái phép chất ma túy..............................................................................5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................10


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

BL

Bút lục

BLHS

Bộ luật Hình sự năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017

BLTTHS

Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015

LGTĐB

Luật Giao thơng đường bộ năm 2008


HĐXX

Hội đồng xét xử


ĐỀ BÀI CHUYÊN ĐỀ 02
Câu hỏi 1: Dự thảo đề cương tranh luận khi luật sư của bị cáo Đỗ Văn Mạnh cho
rằng việc bà Vũ Thị Hà sang đường nhanh, bất ngờ, khuất tầm nhìn, đó là lỗi hồn toàn
thuộc về nạn nhân nên thân chủ Đỗ Văn Mạnh không phạm tội (Hồ sơ ĐTC 22/HS-HV bị
can Đỗ Văn Mạnh - Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ)
Câu hỏi 2: Dự thảo về phần mở đầu, phần kết luận và phần đề nghị xử lý trong luận
tội của Kiểm sát viên (Mẫu số 13/XS) theo hồ sơ LS.HS 07 - Trần Hồng Đức và đồng bọn
- Mua bán trái phép chất ma túy.

1


BÀI LÀM
Câu hỏi 1: Dự thảo đề cương tranh luận khi luật sư của bị cáo Đỗ Văn Mạnh cho
rằng việc bà Vũ Thị Hà sang đường nhanh, bất ngờ, khuất tầm nhìn, đó là lỗi hồn tồn
thuộc về nạn nhân nên thân chủ Đỗ Văn Mạnh không phạm tội (Hồ sơ ĐTC 22/HS-HV bị
can Đỗ Văn Mạnh - Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ)
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY

Mẫu số 14/ XS (hoặc XP)
Theo QĐ số 505/QĐ-VKSTC
ngày 18 tháng 12 năm 2017

ĐỀ CƯƠNG
TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH

SỰ
Đối với vụ án bị cáo Đỗ Văn Mạnh bị truy tố về tội về tội “Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ” theo Điều 260 Bộ luật Hình sự, Kiểm sát viên dự kiến tranh
luận với các tình huống sau:
Tình huống luật sư của bị cáo Đỗ Văn Mạnh cho rằng việc bà Vũ Thị Hà sang đường
nhanh, bất ngờ, khuất tầm nhìn, đó là lỗi hồn tồn thuộc về nạn nhân nên thân chủ Đỗ
Văn Mạnh không phạm tội:
1. Bị cáo Đỗ Văn Mạnh khơng bị truy tố oan vì các lý do sau:
*Tại Biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông (BL 54,55):
- Đỗ Văn Mạnh đã xuất trình được đăng ký xe motơ BKS: 29F1-222.09 mang tên Đỗ
Văn Mạnh nhưng Mạnh khơng có bằng lái xe mơ tơ. Vì vậy, Mạnh đã vi phạm về điều
kiện của người lái xe tham gia giao thông tại Khoản 2, Điều 58 Luật Giao thơng đường bộ
năm 2008 có quy định: “2. Người lái xe khi điều khiển phương tiện phải mang theo các
giấy tờ sau:a) Đăng ký xe; b) Giấy phép lái xe đối với người điều khiển xe cơ giới quy
định tại Điều 59 của Luật này; c) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường đối với xe cơ giới quy định tại Điều 55 của Luật này;”
- Phần khám nghiệm kỹ thuật an toàn phương tiện: Xe của Đỗ Văn Mạnh khơng có
gương chiếu hậu, có phanh trước, phanh phải sau không hoạt động được do bị hỏng. Xe
của Mạnh không đủ điều kiện tham gia giao thông theo điểm a và e Khoản 2, Điều 53
LGTĐB 2008 có quy định: “2. Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy đúng
kiểu loại được phép tham gia giao thông phải bảo đảm các quy định về chất lượng, an
tồn kỹ thuật và bảo vệ mơi trường quy định tại các điểm a, e, khoản 1 Điều này. a) Có
đủ hệ thống hãm có hiệu lực; e) Có đủ gương chiếu hậu và các trang bị, thiết bị khác bảo
đảm tầm nhìn cho người điều khiển;”

2


- Ngồi ra, xe của Mạnh cịn bị hỏng Cơng tơ mét, mà Công tơ mét là dùng để người
điều khiển phương tiện xem xem mình đang đi vận tốc bao nhiêu. Vì vậy, Cơng tơ mét

của xe Mạnh khơng đo được vận tốc thì dẫn tới nguy hiểm khi tham gia giao thông.
*Tại Phiếu xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu (BL 109), và Biên bản ghi lời khai
(BL 122)
- Khoản 7, Điều 8 LGTĐB quy định về các hành vi bị nghiêm cấm: “Điều khiển
phương tiện giao thơng đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy”. Tại biên bản ghi lời
khai Mạnh nói đã mua ma túy đá vào chiều ngày 06/3/2018. Vì vậy, Đỗ Văn Mạnh khi
tham gia giao thông đã vi phạm Khoản 7, Điều 8 LGTĐB.
- Tại phiếu xét nghiệm chất ma túy, Đỗ Văn Mạnh đã dương tính với AMP
Amphetamin là ma túy tổng hợp được dùng để chống lại cơn buồn ngủ, hiện được rất
nhiều tài xế xe tải, xe đầu kéo sử dụng. Khi phê thuốc, lái xe sẽ bị hưng phấn quá độ, có
xu hướng phóng nhanh, vượt ẩu. Vì vậy, người lái xe mà sử dụng ma túy khi tham ra giao
thông rất dễ gây tai nạn.
*Không làm chủ tốc độ, vượt khi chưa đảm bảo an toàn
Theo lời khai của nhân chứng Vũ Văn Thành tại 02 bản tường trình (BL 88, 89, 90)
và 03 biên bản lời khai (BL 114 - 117; 118 - 120; 121 - 124) thì: Trước khi gây tai nạn,
đang đi cùng chiều với Đỗ Văn Mạnh phía trước có một chiếc xe tải 2,5 tấn đang đi giữa
làn đường thứ 2. Và trong khoản thời gian đó, trên đường đang có rất nhiều xe đang lưu
thơng. Vì muốn vượt chiếc xe tải nên Mạnh đã tăng tốc độ và đi dần về phía giữa làn
đường thứ ba, và lúc đó đã đâm phải bà Hà đang đi qua đường.
Từ lời khai của Thành, có thể thấy Đỗ Văn Mạnh vượt xe tải ẩu, không quan sát, khi
gặp bà Hà chạy qua đường khơng kịp xử lý vì xe phanh khơng ăn nên gây tai nạn chết
người. Tuy nhiên, Bà Hà cũng có lỗi là đi bộ qua đường khơng đúng chỗ, chạy tắt qua đầu
xe ơ tơ tạo tình huống nguy hiểm cho chính bản thân mình.
Vì vậy, Đỗ Văn Mạnh đã vi phạm quy định tại:
- Khoản 1, Điều 12 về tốc độ xe và khoảng cách giữa các xe: “Người lái xe, người
điều khiển xe máy chuyên dùng phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường và
phải giữ một khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình”.
- Điểm a, Khoản 5 Điều 14 dẫn chiếu đến Khoản 2 Điều 14 LGTĐB quy định về
Vượt xe:
“5. Không được vượt xe khi có một trong các trường hợp sau đây: a) Không bảo đảm

các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này;
2. Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, khơng có xe
chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe
khác và đã tránh về bên phải.”

3


*Qua biên bản khám nghiệm tử thi, giấy chứng nhận thương tích, tài liệu hiện trường
có đầy đủ căn cứ kết luận nguyên nhân chết của bà Vũ Thị Hà là dập não, tụ máu dưới
màng cứng 2 bán cầu. (bl 34-37; 41-43;81-82)
2. Kết luận:
Người gây tai nạn giao thông là Đỗ Văn Mạnh đã có lỗi khi tham gia giao thông
không quan sát, vượt ẩu, không làm chủ được tốc độ, dẫn đến gây tai nạn chết người.
Từ những lập luận trên, Viện Kiểm sát khẳng định bị cáo Đỗ Văn Mạnh không bị truy
tố oan. Việc truy tố bị cáo Đỗ Văn Mạnh là hồn tồn có căn cứ, đúng người, đúng tội,
đúng quy định pháp luật.

4


Câu hỏi 2: Dự thảo về phần mở đầu, phần kết luận và phần đề nghị xử lý trong luận
tội của Kiểm sát viên (Mẫu số 13/XS) theo hồ sơ LS.HS 07 - Trần Hồng Đức và đồng bọn
- Mua bán trái phép chất ma túy.
Mẫu số 13/XS
Theo QĐ số 505/QĐ-VKSTC ngày
18 tháng 12 năm 2017

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN 7
BẢN LUẬN TỘI


Vụ án: Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh
mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 251 BLHS.
“Thưa Hội đồng xét xử”,
Căn cứ Điều 321 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Hơm nay, Tịa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đối với các bị cáo Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng,
Lê Minh bị xét xử về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b,
Khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ Điều 321 BLTTHS, Tơi tên là Nguyễn Nguyễn Ngọc Toàn - Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, được phân công thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét
xử tại phiên tồ trình bày quan điểm của Viện kiểm sát về việc xử lý đối với các bị cáo và
giải quyết vụ án như sau:
.......
Như vậy khẳng định cáo trạng số ..../CT-VKS của Viện Kiểm sát nhân dân Quận
7 ngày 22 tháng 08 năm 2018 truy tố bị cáo Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn
Thị Hồng, Lê Minh về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại Khoản
2, Điều 251 Bộ luật Hình sự là hồn tồn đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp
luật, không oan, sai;
- Tuy nhiên khi lượng hình HĐXX cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm
nhẹ mà bị cáo được hưởng, đó là:
Tình tiết tăng nặng:
Bị cáo Trần Hồng Đức có 02 tiền án gồm một tiền án về tổ chức đánh bạc, một tiền
án về đánh bạc là tình tiết tăng nặng (tái phạm) được quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều
52 BLHS; Ngồi ra, Trong q trình điều tra Trần Hồng Đức bán ma túy cho Huỳnh Văn
Chính khoảng 10 lần (phạm tội có tính chất chun nghiệp), bán cho nhóm của Thanh,
Hiệp vào ngày 15/3/2018, bán cho nhóm của Cường, Trinh, bán cho Nguyễn Văn Lành 3
lần, mua ma túy của Minh 3 lần, ngoài ra còn mua của Dũng. Nên Trần Hồng Đức còn
được áp dụng các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b và g Khoản 1, Điều 52 BLHS
5



như phạm tội có tính chất chun nghiệp 1 và phạm tội 02 lần trở lên. Tuy nhiên, vì Trần
Hồng Đức cũng bị truy tố theo điểm b, Khoản 2, Điều 251 BLHS nên khơng tính tình tiết
tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên (các tình tiết đã được Bộ luật Hình sự quy định là dấu
hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì khơng được coi là tình tiết tăng nặng) 2.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra các bị cáo Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng,
Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh quá trình điều tra đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, Điều 51 BLHS.
Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Kết quả điều tra, xét thấy các bị cáo Trần Hồng Đức,
Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh là người khơng có nghề nghiệp ổn định, khơng
có thu nhập, thu nhập từ việc bất chính khơng đáng kể, khơng có khả năng thi hành hình
phạt bổ sung. Đề nghị xem xét miễn.
Về vật chứng thu giữ trong vụ án:
Đối với 0,0500 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định) thu giữ của Trần
Hồng Đức khi bắt quả tang cần thiết phải tiêu hủy;
Đối với 2,1820 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định) thu giữ của
Nguyễn Thị Hồng khi bắt quả tang cần thiết phải tiêu hủy;
Đối với 3,9643 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định), số dụng cụ dùng
để sử dụng ma túy (01 cây kẹp gắp bằng kim loại, 01 cây kéo bằng kim loại, 01 tấm kiến,
01 số bao nilon và ống hút) thu giữ của Đỗ Văn Tùng khi bắt quả tang cần thiết phải tiêu
hủy;
Đối với 05 điện thoại di động (01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA thu giữ của
Đỗ Văn Tùng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL thu giữ của Trần Hồng Đức, 01
điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA thu
giữ của Nguyễn Thị Hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA thu giữ của Lê Minh)
cả 05 chiếc điện thoại và sim trong điện thoại này các bị cáo dùng vào việc trao đổi mua
bán ma túy, cần thiết tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;
Đối với 300.000 đồng là số tiền do Trần Hồng Đức bán cho đối tượng nghiện trong
hẻm 75, phường tân Kiểng, quận 7 tên là Nguyễn Văn Lành (tự là Năm) sinh năm 1967,

HKTT: 964W6 Đoàn Văn Bơ, phường 10, quận 4, cần truy thu.
Đối với 600.000 đồng là số tiền do Nguyễn Thị Hồng có được do thu lợi bất chính
trong việc buôn bán trái phép chất ma túy, cần truy thu.
Đối với 3.500.000 đồng là số tiền do Đỗ Văn Tùng cầm cố xe mà có.
1

Căn cứ Tại Mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự có hướng dẫn về tình tiết “Phạm tội có tính chất chun nghiệp”
như sau: “Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chun nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Cố ý phạm tội từ 5 lần
trở lên về cùng một tội phạm khơng phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội là nghề
sinh sông và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.”
2

Cơng văn số 64/TANDTC-PC ngày 03 tháng 4 năm 2019: “4. Mục I. Về hình sự”

6


Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA NOUVO, BKS: 54Z4 2723. Qua xác
minh, điều tra chiếc xe trên chủ sở hữu chiếc xe là Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt, sinh năm: 1988,
ngụ tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn Phát,
phường Bình Thuận, quận 7 đứng tên đăng ký xe. Anh Kiệt đã bán chiếc xe trên cho
người bạn là Võ Quốc Cường, sinh năm 1985, ngụ tại: 450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14,
quận 4 nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ cũng như giấy tờ mua bán. Trần Hồng
Đức nhờ Võ Quốc Cường dùng chiếc xe trên chờ đi công chuyện, cịn việc Đức đi bán ma
túy Cường hồn tồn khơng biết, Võ Quốc Cường có ý kiến xin lại chiếc xe máy;
Đối với chiếc xe gắn máy BKS: 54Z6 0089, số máy 1512399, số khung: 5055490.
Qua xác minh, điều tra chiến xe này do chị Phan Thị Hoa đứng tên đăng ký. Chị Hoa đã
bán chiếc xe này cho Bà Trương Thị Kim Sa (mẹ bị can Đỗ Văn Tùng), ngụ tại: 92/2 khu

phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7 nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Bà Sa
đưa chiếc xe cho con bà là Đỗ Văn Tùng dùng làm phương tiện chạy xe ơm, cịn Tùng
dùng chiếc xe này làm phương tiện buôn ma túy bà Sa khơng biết, bà Sa có ý kiến xin lại
chiếc xe máy.
Với các căn cứ nêu trên, tôi đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Trần Hồng Đức,
Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh phạm tội mua bán trái phép chất ma túy;
- Áp dụng điểm b, c, Khoản 2, Điều 251 BLHS; điểm b, h, Khoản 1, Điều 52 BLHS
và điểm s Khoản 1, Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Hồng Đức phạt tù từ 14 năm đến
15 năm.
- Áp dụng điểm a, b, c Khoản 2, Điều 251 BLHS và điểm s, Khoản 1, Điều 51 BLHS
xử phạt bị cáo Đỗ Văn Tùng phạt tù từ 09 năm đến 11 năm.
- Áp dụng điểm b, c, Khoản 2, Điều 251 BLHS và điểm s, Khoản 1, Điều 51 BLHS
và bị cáo Hồng thực hiện hành vi phạm tội đang dưới 18 tuổi nên xử phạt bị cáo Nguyễn
Thị Hồng phạt tù từ 07 năm đến 08 năm.
- Áp dụng điểm a, b, c Khoản 2, Điều 251 BLHS và điểm s, Khoản 1, Điều 51 BLHS
xử phạt bị cáo Lê Minh phạt tù từ 09 năm đến 11 năm.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu, tiêu hủy 0,0500 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định) thu giữ
của Trần Hồng Đức;
Tịch thu, tiêu hủy 2,1820 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định) thu giữ
của Nguyễn Thị Hồng;
Tịch thu, tiêu hủy 3,9643 gam Methamphetamine (vật chứng sau giám định) và 01 số
dụng cụ dùng để sử dụng ma túy thu giữ của Đỗ Văn Tùng;
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 05 điện thoại di động (01 điện thoại di động
nhãn hiệu NOKIA thu giữ của Đỗ Văn Tùng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL
thu giữ của Trần Hồng Đức, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 điện thoại
di động nhãn hiệu NOKIA thu giữ của Nguyễn Thị Hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu
7



NOKIA thu giữ của Lê Minh) và sim trong điện thoại này các bị cáo dùng vào việc trao
đổi mua bán ma túy;
Truy thu 300.000 đồng của bị cáo Trần Hồng Đức (số tiền này do Đức thu lợi bất
chính từ việc mua bán ma túy);
Truy thu 600.000 đồng của bị cáo Nguyễn Thị Hồng (số tiền này do Hồng thu lợi bất
chính từ việc mua bán ma túy);
Trả lại 3.500.000 đồng cho Nguyễn Văn Tùng;
Trả lại 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA NOUVO, BKS: 54Z4 2723 cho Võ Quốc
Cường ngụ tại: 450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4 là chủ sở hữu của chiếc xe máy
trên, việc Cường chở Đức đi bán ma túy, Cường không biết, Cường có ý kiến xin lại chiếc
xe máy;
Trả lại 01 xe máy mang BKS: 54Z6 0089, số máy 1512399, số khung: 5055490 cho
Bà Trương Thị Kim Sa ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7 là chủ
sở hữu chiếc xe máy trên, việc Đỗ Văn Tùng sử dụng xe máy làm phương tiện vận chuyển
ma túy đi bán và Sa khơng biết, Bà Sa có ý kiến xin lại chiếc xe máy.
Đối với Nguyễn Văn Lành, Võ Quốc Cường, Huỳnh Văn Chính, Phạm Quốc Hiệp,
Võ Quý Hiếu, Phan Ngọc Thành, Nguyễn Thị Diễm có hành vi mua ma túy về sử dụng,
đề nghị chuyển giao cho công an phường Bình Thuận, và Tân Hưng, quận 7 xử lý hành
chính.
Trên đây là quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về xử lý
vụ án.
Đề nghị HĐXX tiếp tục phiên tòa xét xử./.

KIỂM SÁT VIÊN
(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Ngọc Toàn

Ý KIẾN CỦA LÃNH ĐẠO
(Ký, ghi rõ họ tên)

…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
8


…………………………………………………………………………………………………………
………

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ sơ tình huống: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, Bị can: Đỗ
Văn Mạnh, Mã số: ĐTC 22/HS;
2. Hồ sơ tình huống: Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng, Lê Minh mua
bán trái phép chất ma túy;
3. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
4. Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;
5. Luật Giao thông đường bộ năm 2008;
6. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình
sự;
7. Cơng văn số 64/TANDTC-PC ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Tịa án nhân dân tối
cao về việc thơng báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân
sự và tố tụng hành chính.

10




×