Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bản chất giai cấp của Nhà nước, vận dụng vào quán triệt quan điểm về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.58 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một đòi hỏi tất yếu, khách quan và phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại, bởi Nhà nước pháp quyền là một giá trị
chung của nhân loại trên con đường phát triển tiến bộ. Trong sự nghiệp đổi mới
đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, cùng với việc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp hiện đại, với khoa học kỹ thuật tiên tiến, có cơ cấu kinh tế hợp lý, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”, thì vấn đề xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) được coi là yêu cầu cấp bách
cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, trong các kỳ Đại hội của Đảng từ trước đến
nay, mà gần nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục
nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao năng
lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước” 1, làm nền tảng cho sự ổn
định và phát triển đất nước.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2021, tr.
174.


2
NỘI DUNG
I. NHÀ NƯỚC
A. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC

1. Nguồn gốc Nhà nước
Trong lịch sử xã hội lồi người, xã hội cộng sản ngun thủy là hình thái
kinh tế - xã hội đầu tiên. Đó là một xã hội chưa có giai cấp, chưa có Nhà nước
và pháp luật. Tổ chức đầu tiên của xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy là


thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu
ra. Quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tính và đạo đức, việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những nguyên tắc chung. Trong
thị tộc, bộ lạc khi đó chưa hình thành một thiết chế xã hội đặc biệt nào để cai quản
các công việc chung của xã hội. Khi đề cập đến vấn đề này Ph.Ăngghen cho rằng:
“Khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên nam giới đến tuổi thành niên đều là chiến binh
thì vẫn chưa có một quyền lực cơng cộng tách khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập
với nhân dân”2. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thấp kém, với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động
thấp… Với điều kiện như vậy, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa
vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ những thành quả
lao động chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, khơng
người nào có tài sản riêng, khơng có người giàu kẻ nghèo và khơng có sự chiếm
đoạt tài sản lẫn nhau. Do vậy, xã hội lúc này chưa phân chia thành giai cấp và
khơng có đấu tranh giai cấp, nên thời kỳ này chưa có Nhà nước.
Trải qua q trình lao động lực lượng sản xuất dần dần được phát triển,
với công cụ lao động được cải tiến, con người được phát triển cả về thể lực và trí
lực, và ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và tích lũy nhiều kinh
nghiệm hơn trong lao động, năng suất lao động ngày càng cao… Điều đó, đã tạo
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.159.


3
tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản ngun thủy và địi hỏi sự
phân cơng lao động tự nhiên phải được thay thế bằng sự phân công lao động xã
hội. Với sự thay đổi đó, của cải làm ra ngày càng nhiều, sự dư thừa tương đối của
cải xã hội và khát vọng muốn chiếm đoạt nó của những người đứng đầu thị tộc,
bộ lạc đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và từ đó xã hội phân
chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp khơng thể điều hịa
được xuất hiện. Từ đó, dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn

nhau mà cịn tiêu diệt ln cả xã hội. Vì vậy, để ngăn chặn thảm họa đó khơng
xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt ra đời. Đó là Nhà nước - một thiết chế có
tiền thân của mình từ những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị
tộc, bộ lạc. Phân tích nguồn gốc Nhà nước, C. Mác và Ph.Ăngghen cho rằng,
nhân tố quyết định hàng đầu đối với bước chuyển biến từ chế độ tự quản công xã
sang tổ chức xã hội bằng Nhà nước và pháp luật, chính là sự phát triển của bản
thân phân công lao động và sở hữu tư nhân. Khi nói đến nguyên nhân trực tiếp
xuất hiện của Nhà nước V.I.Lênin đã nhận định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể
điều hịa được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”3.
Như vậy, nguyên nhân trực tiếp để xuất hiện Nhà nước là do mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được, còn nguyên nhân sâu xa để xuất hiện Nhà
nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định nào
đó. Trình độ đó địi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mang tính chất chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Theo Ph.Ăngghen, sự phát triển của sản xuất vật
chất dẫn tới phân hóa xã hội nguyên thủy và sự dư thừa của cải vật chất. Lượng
của cải dư thừa này bị chiếm đoạt bởi một tầng lớp người dẫn tới xuất hiện sở
hữu tư nhân và phân chia xã hội thị tộc thành những giai cấp. Để bảo vệ giai
3 V.I. Lênin (1976), toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ Matxcơva, tr.9.


4
cấp nắm quyền lực kinh tế trong tay, đàn áp và bóc lột giai cấp lao động khơng
có tư liệu sản xuất, Nhà nước đã hình thành. Tuy nhiên, Nhà nước là một phạm
trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát
triển xã hội và sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó khơng cịn.
Sự ra đời của Nhà nước là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, là
công cụ của giai cấp thống trị dùng để trấn áp đối với giai cấp đối địch. Từ đó, tư

tưởng về một Nhà nước pháp quyền dần dần được hình thành, nhằm chống lại sự
độc quyền, độc đoán của thế lực cầm quyền, đồng thời cũng thiết lập và phát triển
nền dân chủ. Trong thời kỳ đầu chỉ là những tư tưởng, những khái niệm, những
yếu tố có tính chất đơn biệt trong tổ chức quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, thời
gian về sau những tư tưởng, những khía cạnh, những yếu tố pháp quyền đã được
cơng nhận, bổ sung và phát triển thành tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại.
Khi đề cập đến Nhà nước kiểu mới, trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản” năm 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, để hồn thành sứ mệnh
lịch sử của mình giai cấp vơ sản trước hết phải tổ chức thành Nhà nước riêng, đó
là Nhà nước vơ sản và giai cấp vơ sản phải trở thành giai cấp thống trị của Nhà
nước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để,
trong đó tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người;
Nhà nước kiểu mới phải giải phóng con người đảm bảo sự phát triển tự do tối đa
và phát triển tồn diện con người. Để đạt được điều đó phải “biến Nhà nước từ cơ
quan đứng trên xã hội, thành cơ quan phục tùng xã hội”.
2. Bản chất Nhà nước
Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn
áp các giai cấp đối địch, do đó Nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị. Trên cơ sở đó, giai cấp thống trị sử dụng Nhà nước để tổ
chức và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình. Thơng qua Nhà nước, ý
chí và hệ tư tưởng của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống
nhất và hợp pháp hóa thành ý chí Nhà nước. Nếu khơng có Nhà nước, một tổ


5
chức bạo lực chuyên được dùng để trấn áp thì giai cấp thống trị khơng thể duy
trì được ách áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị. Điều đó cho thấy, sự
ra đời của Nhà nước là một tất yếu khách quan để làm “dịu” sự xung đột giai cấp,
đồng thời làm cho sự xung đột ấy diễn ra trong vịng “trật tự” nhằm duy trì chế độ
kinh tế, trong đó, giai cấp này được bóc lột giai cấp khác. Nhờ có Nhà nước, giai

cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị, và do đó có thêm
những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Vì vậy, về bản chất
“Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác”4. Nhà nước chính là bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với tồn xã hội, là cơng
cụ chun chính của một giai cấp. Do đó, Nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp
đối kháng cũng chỉ là cơng cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng
chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác. Ph.Ănghen
khẳng định về bản chất Nhà nước: “Chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hịa dân chủ
cũng hồn tồn giống như trong chế độ qn chủ” 5. Khơng có và khơng thể có
Nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc Nhà nước chung của nhiều giai cấp.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của hai giai cấp đối kháng trong trường hợp đạt
tới thế cân bằng thì Nhà nước sẽ giữ được thế độc lập nhất định nào đó và cũng
có trường hợp Nhà nước đi thỏa hiệp tạm thời về lợi ích của một số giai cấp
nhằm tập trung sức mạnh để chống lại giai cấp khác. Những trường hợp trên là
có tính chất ngoại lệ và tạm thời.
Như vậy, xét về bản chất, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị trong xã hội có giai cấp, thực hiện chuyên chính giai cấp và các chức
năng quản lý đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và duy trì trật tự
xã hội trước sự phản kháng của các giai cấp khác. C.Mác và Ph.Ăngghen cho
4 V.I. Lênin (1976), toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva, tr.290-291.
5 V.I. Lênin (1976), toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva, tr.291.


6
rằng: “Nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để
thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó tồn bộ xã hội cơng dân
của một thời đại biểu hiện một cách tập trung”6.
Kế thừa và phát triển tư tưởng pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân

loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra quan điểm về Nhà nước kiểu mới. Theo
đó, Nhà nước kiểu mới, ý chí của nhân dân nâng lên thành pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Nhà nước kiểu mới có một nền dân chủ triệt
để, dân chủ là do nhân dân tự quy định, bước chuyển biến từ xã hội thần dân
sang xã hội công dân, từ nhân dân của Nhà nước thành Nhà nước của nhân dân.
Nhà nước phải coi cơng dân là chủ nhân của mình. Nhà nước là cơng cụ thì phải
phục vụ cho cơng dân của mình. Nhà nước kiểu mới tất yếu phải được xây dựng
trên cơ sở pháp luật của giai cấp vô sản. Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về Nhà nước kiểu mới trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước và chủ nghĩa đế quốc đang hoành
hành, VI.Lênin đã đưa ra những quan niệm về bản chất Nhà nước chun chính
vơ sản. Theo ơng, Nhà nước chun chính vơ sản là Nhà nước kiểu mới, Nhà
nước dân chủ kiểu mới (dân chủ với những người vơ sản, nói chung là những
người khơng có của) và chun chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản). Chun
chính vơ sản là chính quyền Nhà nước nhằm bảo vệ và củng cố thành quả cách
mạng, do đó chun chính vơ sản tất yếu phải thực hiện chức năng trấn áp. Tuy
nhiên, theo quan điểm của VI.Lênin chun chính vơ sản khơng phải chỉ là bạo
lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực, mà điều cơ bản
của chun chính vơ sản phải là tính tổ chức kỷ luật của giai cấp vô sản trong
cương vị của người làm chủ xã hội và ở vai trò tổ chức, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước, chúng ta
nhận thấy sự ra đời của Nhà nước: là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị; là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác;
6 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.90.


7
làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Từ thực tiễn đó, kế thừa các tư
tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử, vấn đề xây dựng Nhà nước kiểu
mới đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra. Trong đó, những

nhân tố về Nhà nước pháp quyền vô sản được thể hiện: là Nhà nước mà quyền
lực của nó là thống nhất, thuộc về nhân dân lao động; được tổ chức hoạt động và
quản lý xã hội theo pháp luật như là ý chí của nhân dân lao động được luật hóa;
có cơ chế kiểm tra và giám sát quyền lực nhằm tôn trọng và đảm bảo quyền
công dân; Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Nhà nước được xây dựng trên
cơ sở chế độ “dân chủ triệt để”, “dân chủ đến cùng”, pháp chế nghiêm minh theo
hướng giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước
từ năm 1986. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng ta là xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, việc
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ ra được những đặc trưng riêng có của nhà
nước pháp quyền ở nước ta là điều rất cần thiết không chỉ về mặt lý luận nhận
thức mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc cho việc xây dựng nhà nước pháp
quyền trên thực tế.
Năm 1994, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” chính thức được sử dụng
trong văn kiện của Đảng. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) lần
đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và nêu
khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Trong Văn kiện
hội nghị đã nêu nhiệm vụ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” với nội dung như sau: “Tiếp tục xây
dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng


8
pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN” 7. Đó là, những quan
điểm cơ bản về các nội dung chủ yếu của phạm trù Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã được xác lập, đặt cơ sở lý luận cho việc
triển khai các quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà
nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, Đảng ta đã phát triển hệ
thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân. Mặt khác, khi phân tích ngun nhân yếu kém trong xây
dựng Nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của
chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm”8.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta tiếp tục chủ
trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và xác định bản chất của nhà
nước. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ trương tăng
cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân
chủ - là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước pháp quyền XHCN. Như vậy, Đại
hội IX của Đảng đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền là vấn đề có
tính quy luật trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điểm nổi bật
là quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã được thể chế
hóa tại điều 2, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng ta khẳng định: “Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần xây dựng cơ chế vận hành của
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.224.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997, tr.40.


9

Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”9.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng ta tiếp tục nêu
rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”10.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta tiếp tục đúc kết
quan điểm nhất quán của Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn phát triển
mới. Báo cáo chính trị trình Đại hội XII xác định: “Xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp
và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội.”11.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn
mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước”.
Qua 35 năm đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng như: Nhận thức
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội,
2006, tr.45.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội,
2011, tr.85-86.
11 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, 2016, tr.39-40.



10
của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển. Chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ
hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai trị của pháp luật trong tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến
nhất định. Các nghị quyết của Đảng đã từng bước làm rõ những phương hướng
cơ bản mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực.
Tuy nhiên, một số nội dung về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,
việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước còn chuyển biến chậm. Việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước còn nhiều điểm chưa rõ. Hệ thống pháp luật
thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền, còn chồng chéo; tính cơng khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.
Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi cơng vụ cịn nhiều yếu kém.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt u cầu đề ra; tham
nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân cịn chậm. Những thực trạng trên đặt ra
nhiệm vụ đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới hiện nay.
III. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ
HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM TRONG
TÌNH HÌNH HIỆN NAY
1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam



11
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta là tất yếu khách quan là nguyên tắc và là điều kiện
quyết định để Nhà nước giữ vững tính chất XHCN, bản chất của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Đây là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ q trình xây dựng và
hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, mọi thắng lợi của cách
mạng đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Với vai trò là đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách
nhiệm về những quyết định của mình trước nhân dân, dân tộc. Vai trò cầm quyền
của Đảng đã được nhân dân thừa nhận và được hiến định trong Hiến pháp các
năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm
2013 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định địa vị pháp lý của Đảng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”12.
Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân ta phải tổ chức ra Nhà nước. Nhà
nước là công cụ quyền lực của nhân dân để quản lý xã hội, vì lợi ích của nhân
dân. Nhưng trong điều kiện nước ta, nhất là tình hình phức tạp như hiện nay,
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN nếu không do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì Nhà nước khơng thể là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam khơng lãnh
đạo thì sẽ có lực lượng đối lập với Đảng lãnh đạo; lúc đó Nhà nước tất yếu sẽ
biến thành công cụ của một thiểu số thống trị, nơ dịch và bóc lột nhân dân. Bài
học kinh nghiệm lớn nhất đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền
12 Hiến pháp nước Cộng hịa XHCN Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.



12
cách mạng nước ta hơn 75 năm qua và cũng là bài học xương máu rút ra từ sự
sụp đổ chế độ XHCN theo mơ hình Xơviết ở Liên Xơ và Đơng Âu là giữ vững
vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng thì
Nhà nước mới giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở ba điểm cơ bản: Nội dung
lãnh đạo; phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, tác phong công tác lãnh đạo.
Nội dung lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với Nhà nước là Đảng đề ra
đường lối, chủ trương đúng đắn để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng
thành chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách, pháp
luật; tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức
đảng, đảng viên trong cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN không chỉ phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào
phương thức lãnh đạo của Đảng tác động vào Nhà nước, thông qua Nhà nước để
hiện thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu cao nhất của
Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới, nhằm làm cho mục
tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng thời kỳ nói riêng
được thực hiện có hiệu quả cao.
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững vai trị
lãnh đạo trong việc xây dựng và hồn thiện Nhà nước; đồng thời, mọi hoạt động

của Nhà nước luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều này được khẳng


13
định xuyên suốt qua các kỳ đại hội của Đảng và trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng ta xứng đáng là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; “Mục đích của Đảng là khơng ngừng củng
cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế; xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
xã hội công bằng, văn minh”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, địi hỏi Đảng
phải tiếp tục: “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà
nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo
thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,
pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ phẩm chất và năng
lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ
thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải
cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải
gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”.
Để bảo đảm nguyên tắc này được tiếp tục duy trì trong thực tiễn xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, nhất là trong bối cảnh tình hình
mới, khi các thế lực thù địch ngày càng đẩy mạnh các hoạt động chống phá, đòi
hỏi phải có sự kiên định giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Vì vậy, Đảng cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, không ngừng đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đặc biệt là phân định rõ hơn
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ. Đối
với Nhà nước, mọi hoạt động xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN đều do Đảng lãnh đạo, lấy đường lối, chủ trương của Đảng làm nền tảng,
tiêu chuẩn và mục đích hoạt động. Mọi biểu hiện tách rời hoặc hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền XHCN ở nước ta đều phải kiên quyết ngăn chặn, đấu tranh loại bỏ.


14
2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh tư tưởng, lý
luận, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ quan điểm của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện và là yếu tố quyết định thắng lợi của
cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận. Sứ mệnh và trách nhiệm chính trị - pháp lý của
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN đã được hiến
định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị trong xây dựng
và hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN khơng chỉ là sự tuân thủ cơ sở chính
trị - pháp lý mà Hiến pháp đã quy định, mà còn là cơ sở của những định hướng
chính trị trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận về nhà nước; tăng cường sức
mạnh tiến công, tạo được ưu thế áp đảo trước những tư tưởng, luận điệu chống
phá Nhà nước ta của các thế lực thù địch, chống đối.
Để chủ động tiến cơng tồn diện, thống nhất và đồng bộ làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trên mặt trận tư tưởng, lý luận, cần quán triệt sâu sắc và thực
hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư Trung ương Đảng về đấu tranh phòng, chống “diễn biến hịa bình”
của các thế lực thù địch, khắc phục nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Mọi hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, đấu tranh tư tưởng,

lý luận về bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, phê phán, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch chống phá Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đều


15
phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của các cấp ủy đảng;
sự tham mưu, hướng dẫn và quản lý của các cơ quan tuyên giáo từ trung ương
đến cơ sở; sự quản lý nhà nước của người đứng đầu các cấp, các ngành, địa
phương và cơ sở, nhất là đối với cơ quan báo chí và tuyên truyền.
Trong các nghị quyết lãnh đạo thường kỳ, cấp ủy đảng cần đánh giá
nghiêm túc kết quả đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung trong thời gian qua và
bổ sung điều chỉnh các chủ trương, giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian
tới, trước hết và tập trung đối với nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN.
Cần tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế, quy định
về trách nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng, tham gia nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn của cấp ủy, cán bộ chủ trì và của mọi cán bộ, đảng viên ở các
cơ quan tuyên giáo, các học viện, nhà trường, cơ quan báo chí và tuyên truyền
trong cả nước.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chế độ cơng
tác tư tưởng, Quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức
năng, các lực lượng trong tiến hành công tác tư tưởng, lý luận; thường xuyên
tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo
diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời
những nảy sinh, vướng mắc trong tư tưởng, nhận thức và hành vi của quần
chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên về vấn đề nhà nước.


16


KẾT LUẬN
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo
quan điểm của Đảng là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, chưa có
trong tiền lệ của cách mạng XHCN trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy,
quá trình triển khai và tổ chức thực hiện trong thực tiễn không thể không tránh
khỏi những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc sống, địi hỏi phải có sự nhận
thức lý luận khoa học, cách mạng, phát huy cao độ thái độ, trách nhiệm và hành
động cách mạng đúng đắn, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần hết
sức phòng ngừa những tư tưởng chủ quan, nóng vội, áp dụng một cách máy móc
các mơ hình nhà nước pháp quyền của các nước khác vào Việt Nam; kiên quyết
đấu tranh với những tư tưởng bảo thủ và trì trệ, những quan điểm sai trái, thù
địch phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Sự thống nhất trong nhận thức và hành động về xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta hiện nay là cơ sở tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng chính quyền nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm
của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là trách nhiệm chính trị cao cả, là
nhiệm vụ vẻ vang của mỗi cán bộ, đảng viên, toàn thể nhân dân và của cả hệ
thống chính trị nước ta hiện nay.


17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, lý luận và vận
dụng (dành cho đào tạo cán bộ chính trị cấp trung đoàn), Nxb Quân đội nhân

dân, năm 2016.
2. V.I. Lênin (1976), toàn tập, tập 33, 39 Nxb Tiến bộ Matxcơva.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), toàn tập, tập 4, 21, Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG,
Hà Nội, 2021.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, Nxb CTQG,
Hà Nội, 1993.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCH Trung
ương khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997.
7. Bộ Chính trị: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24- 5-2005 về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020.
8. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Hiến pháp năm 2013 của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013 - 1992 - 1980 - 1959 - 1946), Nxb.
Lao động, Hà Nội, 2013.
9. Nguyễn Duy Quý - Nguyễn Tất Viễn: Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.



×