Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN TỘC LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.68 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


TIỂU LUẬN MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN TỘC. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY.
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN THỊ NHƯ HOA
LỚP DTQT
NHĨM 1

Tp Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 07 năm 2019



DANH SÁCH NHÓM
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Lâm Gia Hưng

1752254

2


Nguyễn Phúc Minh

1752348

3

Trần Đăng Khoa

1752297

4

Nguyễn Minh Tân

1752484

5

Nguyễn Thị Nhã Uyên

1752616

6

Võ Thị Quỳnh Mai

1752337


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Như Hoa giảng viên bộ mơn Lý luận chính trị - khoa Khoa học Ứng dụng trường Đại học
Bách Khoa đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em được mở mang tri thức về
Tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng hết sức quan trọng, đóng vai trị quyết định
đối với vận mệnh nước nhà. Qua đó chúng em có thể nhận thức một cách đầy
đủ, toàn diện và sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp và vai trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tồn thể dân tộc Việt Nam. Cảm ơn cơ đã hướng
dẫn tận tình để nhóm chúng em hồn thành tiểu luận này. Hy vọng thơng qua
những nỗ lực tìm hiểu của tất cả thành viên, nhóm chúng em đã làm rõ được giá
trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và thời đại. Ngồi ra, nhóm cũng
muốn liên hệ đến việc học tập mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh Việt Nam
nói chung và sinh viên Bách Khoa nói riêng. Trong q trình tìm hiểu và phân
tích, nhóm chúng em khơng tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, chúng em mong
muốn nhận được những góp ý chân thành từ cơ để hồn thiện hơn nữa những
kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................... 3
PHẦN 2: NỘI DUNG ........................................................................................................ 4
I. VẤN ĐỀ DÂN TỘC THUỘC ĐỊA....................................................................................... 4
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa ............................................................... 4
2. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa ........................ 6
3. Chủ nghĩa yêu nước chân chính – một động lực lớn của đất nước .................... 9
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP ................................... 11
1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ............. 11
2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội ........................................................................................................ 13

3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp ..................................... 14
4. Giữ vững độc lập dân tộc mình, đồng thời tơn trọng độc lập của các dân tộc
khác ............................................................................................................................ 15
III. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA SINH VIÊN TRONG CƠNG CUỘC BẢO
VỆ VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC HIỆN NAY .......................................................................... 15

1. Vai trò của thanh niên trong lịch sử ................................................................... 16
2. Sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ................................... 17
a. Xây dựng ý thức, nhận thức trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc ...................... 18
b. Sinh viên trong công cuộc xây dựng Tổ quốc ................................................. 20
c. Sinh viên Bách Khoa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ............ 21
PHẦN 3: TỔNG KẾT ..................................................................................................... 23
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 24

2


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thực chất là vần đề đấu tranh để
giải phóng các dân tộc thuộc địa. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt
chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự do độc lập của đất nước, Hồ Chí
Minh cho rằng: dối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập
của tổ quốc, tự do của nhân dân. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới,
Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải khơng ai có thể chối cãi
được: “Tât cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”1. Đây là một tư tưởng vĩ đại,
chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà cịn mang tính nhân
văn sâu sắc.
Hiện nay, thế giới đã thay đổi nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội vẫn đang diễn ra gay gắt. Ở nước ta, các thế lực thù địch vẫn

chưa muốn khép lại quá khứ, vẫn đang kích động hận thù, theo đuổi những mưu
toan thâm độc mới. Để đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, đưa đất nước tiến
lên, chúng ta phải ra sức phát triển chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, kết
hợp bồi dưỡng lý tưởng XHCN, tạo ra nguồn nội lực mới để xây dựng và bảo vệ
Tổ qc.
Phân tích làm rõ những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về đề tài này
nhằm trang bị cho chúng ta kiến thức về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc. Đồng thời qua đó giúp sinh viên hệ thống lại vấn đề một cách logic, thu
nhặt, xử lí thông tinh, vận dụng các kiến thức cơ bản vào việc học

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 1, tr. 555.

3


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Vấn đề dân tộc thuộc địa
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ
tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác: “dân tộc là sản phẩm của lịch sử”. C.
Mác và Ăng-ghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một
cách khoa học. Lê-nin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống
lí luận tồn diện và sâu sắc. Kế thừa những tinh hoa của các bậc tiền bối, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách tinh tế và có chọn lọc vấn đề dân tộc.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời đại,
Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa. Hồ Chí Minh đã vạch ra thực chất
vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ

ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngồi, giành độc lập tự do cho dân tộc,
giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân
tộc độc lập.
Người thể hiên quan điểm cá nhân của mình, vạch trần tội ác của chủ nghĩa
tư bản thực dân qua nhiều tác phẩm: tâm địa thực dân, bình đẳng, vực thẳm thuộc
địa, cơng cuộc khai hóa giết người ,…. Từ các tác phẩm trên Người đã tố cáo
chủ nghĩa thực dân, vạch trần tội ác đội lốt nhân từ (“khai hóa văn minh”) của
chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ
nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó
bằng những châm ngơn lý tưởng: Bắc ái, Bình đẳng,….”. “Nếu lối hành hình
theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là
một hành động vô nhân đạo, thì tơi khơng cịn biết gọi việc những người Âu
nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì nữa” 2.

2

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 1, tr. 75 và 321

4


Trong những bài có tiêu đề Đơng Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh
mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đơng Dương
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu
ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn khơng thể điều hịa được. Sự áp bức, thống trị dân
tộc càng nặng nề, thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng
về nội dung và phong phú về hình thức. Nghiên cứu tình hình Đơng Dương, Hồ
Chí Minh nhận thấy: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu
một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời

cơ đến”3. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên
án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước bỏ tất cả quyền con người và
quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V. I.
Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh
tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V. I. Lênin
bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh bàn
nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong nhiều tác phẩm, nhất
là tác phẩm Đường kách mệnh, Người phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng
vô sản, cách mạng tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc, xác định tính chất
và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc. Từ đó ta thấy được
khả năng tư duy sáng suốt và sự tiếp thu có chọn lọc phù hợp với bối cảnh thời
đại của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì
phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt
của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với một
hệ tư tưởng và một giai cấp nhất địn.

3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 1, tr. 28.

5


Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí
Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh
thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi

lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. “Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. “Tư sản dân
quyền cách mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc, hồn thành nhiệm
vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc (chưa tiến hành triệt để cuộc cách mạng
ruộng đất). “Thổ địa cách mạng” không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, mà là một giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng
đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bước đạt
mục tiêu cuối cùng4.
Con đường đó phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là
nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở các nước
phương Tây.
2. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh
nói:

4

Một số ý kiến cho rằng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định cách mạng Việt Nam phát

triển qua hai giai đoạn, cần được nghiên cứu thêm. Sau này, Đại hội lần thứ II của Đảng xác định ba giai
đoạn chiến lược: 1- Hồn thành giải phóng dân tộc, 2- phát triển dân chủ nhân dân, 3- Tiến tới chủ nghĩa
xã hội. Xem thêm Luận cương cách mạng Việt Nam của Trường Chinh và Chính cương Đảng Lao động
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 12,
tr. 435.

6



"Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu"5. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu
nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; và
thông qua Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải ln ln được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”. Từ quyền con người ấy, người đã khái quát nên chân
lý về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”.
Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ
nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế
giới, Hồ Chí Minh thấy rõ một dân tộc khơng có quyền bình đẳng chủ yếu là do
dân tộc đó mất độc lập. Vì vậy theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền
bình đẳng thực sự phải tự đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc
lập

thật

sự,

độc

lập

hồn

tồn


cho

dân

tộc

mình.

Nền độc lập hồn tồn, độc lập thật sự của một dân tộc theo Tư Tưởng Hồ Chí
Minh dung cơ bản sau đây:
- Một là “Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá
và bất khả xâm phạm của dân tộc nên phải gắn liền với sự thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia”.
- Hai là “Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự,
ngoại giao”.

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr. 44.
5

7


- Ba là “Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết
định”, Người khẳng định: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân
tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can
thiệp nào từ bên ngoài.
- Bốn là Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh
phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn

liền với hạnh phúc, cơm no, áo ấm của nhân dân.
Tóm lại, "Khơng có gì q hơn độc lập tự do" khơng chỉ là lý tưởng mà cịn
là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do
của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp
bức trên thế giới.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các
nước. Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay
mặt những người Việt Nam yêu nước, Người gửi tới Hội nghị Vécxây (Pháp)
bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt
Nam. Bản Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai
nội dung cơ bản:
- Một là, địi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các tịa án đặc biệt
dùng làm cơng cụ khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân
(tức những người yêu nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay
thế bằng chế độ ra các đạo luật.
- Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do cư
trú...

8


Bản u sách đó khơng được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn ái Quốc kết
luận: Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên
ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, vào tháng 2 năm 1930 trong Bản cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng cốt lõi của độc lập
tự do cho dân tộc là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến. Tháng 5-1941,

Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng,
viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy"6. Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra
báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu
đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh
đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ:
"Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập!"
Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Người thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tun ngơn độc lập, long trọng khẳng định trước tồn thế giới: "Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”7
3. Chủ nghĩa yêu nước chân chính – một động lực lớn của đất nước
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, lòng yêu nước của người dân đất Việt đã thực
sự là một mạch ngầm đầy năng lượng, luôn chảy xuyên suốt trong lịch sử dân
tộc Việt Nam thể hiện qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Có thể
dẫn chứng rất nhiều ví dụ cụ thể về lịng u nước. Sách Đại Việt Sử ký Toàn
thư chép: Vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hồi Nhân Vương Kiện đều cịn

6

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr. 198.

7

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 4.

9



trẻ tuổi, khơng cho dự bàn. Quốc Toản trong lịng hổ thẹn, phẫn kích, tay cầm
quả cam, bóp nát lúc nào khơng biết. Sau đó Quốc Toản lui về, huy động hơn
nghìn gia nơ và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ
"Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua) và xin ra trận giết
giặc. Để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu khơng chỉ có
cơng lao to lớn của những người lính bộ đội Cụ Hồ vào sinh ra tử mà cịn có
đóng góp của lớp lớp bà con nông dân, âm thầm tham gia dân công hỏa tuyến,
vượt mưa bom, bão đạn tải lương thực, vũ khí, trang thiết bị vào mặt trận. Hoặc
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với các đoàn quân xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước là đội quân tóc dài của miền Nam khiến địch phải kinh hồn bạt
vía, là những vùng quê của hậu phương miền Bắc miệt mài cơng việc ruộng
đồng, thắt lưng buộc bụng đóng góp cho chiến trường. Tóm lại, hàng chục triệu
người Việt Nam bình dị, với những hành động, cách thức thể hiện khác nhau,
tùy theo điều kiện, hồn cảnh và cơng việc của mình đã chuyển hóa lịng u
nước thành những giá trị cụ thể, tạo nên sức mạnh cộng hưởng của dân tộc trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với từng giai đoạn và thời điểm lịch sử.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề thì
phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động,
mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội đều phải chịu nỗi nhục của người
dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do. Cùng với sự lên án chủ nghĩa
thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò của tiềm năng dân tộc trong sự nghiệp tự giải phóng. Hồ Chí Minh
thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa.
Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Một đất nước không thể mạnh lên nếu chúng ta không thuận theo xu thế của
thời đại. Vào những thời điểm đầy thách thức, mỗi người dân cần thể hiện lòng
yêu nước của mình bằng những cơng việc, hành động cụ thể nhằm góp phần xây
10



dựng quốc gia hưng thịnh. Muốn vậy phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc để hơn 95 triệu người Việt Nam chung sức đồng lòng, giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định, tận dụng thời cơ phát triển kinh tế đất nước, đồng
thời tỉnh táo, linh hoạt nhưng kiên quyết gìn giữ tồn vẹn lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc trên cơ sở những bằng chứng lịch sử, pháp lý, phù hợp với luật pháp
quốc tế. Chúng ta cũng không cho phép bất cứ cá nhân, thế lực nào lợi dụng để
hành động đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, lợi ích của đất nước, phá hoại
những thành quả cách mạng đã được các thế hệ cha ông dày công vun đắp bằng
cả mồ hơi và xương máu.
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân
ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm nghìn cay đắng, kiên quyết đánh cho tan
bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân
chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần vị quốc
của bọn đế quốc phản động”8. 25 Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp
trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh
giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước mà những người Cộng sản phải nắm
lấy và phát huy.
II. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản.

8


Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 172.

11


Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin: vấn đề giai cấp quyết định vấn đề dân
tộc, nhiệm vụ dân tộc là một bộ phận của nhiệm vụ giai cấp. Mâu thuẫn xung
đột giai cấp là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xung đột dân tộc. Do vậy, việc
giải phóng giai cấp là cơ sở để giải phóng dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc thì
là điều kiện để giải quyết vấn đề giai cấp. Trong mỗi giai đoạn lịch sử giải phóng
vấn đề dân tộc bao giờ cũng thuộc về một giai cấp tiêu biểu, điển hình, giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ. Mac nói: “Giai cấp cơng nhân cần
thiết phải đấu tranh giành chính quyền và tự mình trở thành giai cấp dân tộc”.
Lênin đã phát triển thêm học thuyết của Mac bằng một luận điểm: phong trào
đấu tranh giai cấp ở các nước chính quốc chỉ có thể giành được thắng lợi nếu
như nó biết liên minh với phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa.
Quan điểm của Hồ Chí Minh: Giai cấp công nhân sẽ là giai cấp đại diện cho
dân tộc để giải quyết vấn đề dân tộc. Nhiệm vụ của dân tộc do giai cấp công
nhân lãnh đạo, dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân. Hồ Chí Minh cho
rằng, vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Giải phóng dân tộc là điều kiện
tiền đề để giải phóng giai cấp. Nhìn vào hai quan điểm trên ta có thể nhận thấy
rất rõ rằng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu có tính sáng tạo những luận điểm của chủ
nghĩa Mac, người đã vận dụng một cách đúng đắn nhất vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam và các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
mang bản chất của giai cấp cơng nhân. Quan điểm này hồn toàn tuân thủ những
quan điểm của Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vơ sản, nhưng Hồ
Chí Minh cịn có một cách thể hiện khác về vấn đề “đảng của ai”. Bản chất giai
cấp của Đảng là bản chất giai cấp công nhân nhưng quan niệm Đảng khơng
những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà cịn là Đảng của nhân dân lao động

và của toàn dân tộc có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp cơng nhân, thậm
chí cả giai cấp nơng dân là hồn tồn khơng đủ, mà theo Người, chỉ có phát động
12


cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vơ địch. Vì vậy,
trong q trình rèn luyện Đảng Người ln ln chú trọng tính thống nhất giữa
hai yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn
từ giai cấp cơng nhân mà cịn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác
trong xã hội.
2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc
lâp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc
đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách
mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thơi. Bởi có độc lập, có tự
do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân
dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong
những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã
hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xố bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả
mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói:
“Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành.”

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giai cấp và giải phóng con người. Chỉ
có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của
13


dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới
thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc
với tự do, hạnh phúc của con người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt
lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt thời gian qua và mãi mãi về sau.
3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của
giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn
địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở
giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên
hết. Tháng 5 năm 1941, Người cùng với trung ương Đảng khẳng định: “Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không địi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp cơng nhân
địi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu
hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công

nhân, chứ không phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như một số người từng cố
chứng minh.

14


4. Giữ vững độc lập dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu tranh cho
độc lập dân tộc của Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả
các dân tộc bị áp bức.
Đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí
Minh là tơn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc
gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản
Tun ngơn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, nhưng Hồ Chí Minh khơng qn nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ các cuộc
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia,
đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi
của cách mạng mỗi nước mà đóng góp chung vào cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mạng tính khoa học và cách mạng
sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
III. Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc hiện nay

Bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ
chiến lược của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trong mỗi giai đoạn cách
mạng, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc có những yêu cầu mới. Hiện nay, cũng như trong
15


những năm tới hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới, tuy
nhiên còn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc, khó lường. Do đó, bảo vệ tổ quốc là
nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Để bảo vệ vững
chắc tổ quốc đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố: kinh tế,
chính trị, qn sự, văn hóa, khoa học cơng nghệ, ngoại giao…; kết hợp sức mạnh
trong nước và sức mạnh quốc tế; sức mạnh của con người kết hợp với vũ khí
trang bị… trong đó yếu tố con người giữ vai trị quyết định đặc biệt sinh viên là
lực lượng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên,
vẫn cịn khơng ít sinh viên chưa ý thức đầy đủ về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, thậm
chí mơ hồ trước âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù; một bộ phận sinh viên
khác phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về đạo đức lối sống, chạy theo lối
sống vật chất tầm thường, buông thả, vô nguyên tắc, thờ ơ, lãnh đạm với các vấn
đề chính trị xã hội. Những hạn chế, yếu kém này ảnh hưởng đến xây dựng tiềm
lực để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục, nâng cao ý thức
bảo vệ tổ quốc là điều hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
1. Vai trò của thanh niên trong lịch sử
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thanh niên là lực lượng hưởng
ứng mạnh mẽ các phong trào yêu nước như phong trào đòi ân xá cho cụ Phan
Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh… hay trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khi nhắc tới thanh niên Việt Nam không thể không
nhắc tới những tấm gương anh hùng tuổi trẻ tiêu biểu như: Lý Tự Trọng, Bế Văn
Đàn, Phan Đình Giót, Tơ Vĩnh Diện, Nguyễn Viết Xn, Nguyễn Văn Trỗi,
Đặng Thùy Trâm,…
Khi truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

đã chọn đối tượng thanh niên để xây dựng tổ chức cách mạng đầu tiên cho dân
tộc là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và xuất bản tờ báo Thanh Niên.
Năm 1926-1927, Người trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo nhiều thanh
niên Việt Nam yêu nước, rồi đưa trở về nước xây dựng phát triển phong trào
16


cách mạng, trong số đó nhiều người sau này đã trở thành những cán bộ lãnh đạo
xuất sắc của Đảng ta. Từ ngày 20-26/3/1931, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 2, Trung ương Đảng đã dành một phần quan trọng trong
chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định
có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử
ngay các ủy viên của Đảng phụ trách cơng tác Đồn. Trong bản Di chúc thiêng
liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, khi đề cập đến đoàn viên
thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Đồn viên thanh niên ta nói chung là
tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ” 9.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã luôn xác định đồn viên thanh niên là lực
lượng xung kích của cách mạng và đề ra nhiều chủ trương giáo dục, bồi dưỡng,
tổ chức đoàn viên thanh niên thành lực lượng tin cậy, kế tục sự nghiệp cách
mạng của Đảng và của dân tộc.
2. Sinh viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay, thanh niên tiếp tục là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước; hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm
vụ mà đất nước và nhân dân giao phó. Những việc làm và hoạt động của thanh
niên được thể hiện rõ nhất ở các phong trào hành động cách mạng, các chương
trình hành động, tiêu biểu, như: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”.
Thanh niên hiện nay, trong đó, khơng ít bạn trẻ có trình độ học vấn cao luôn sẵn
sàng gia nhập Quân đội, thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, góp phần
hồn thành nhiệm vụ chính trị; giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng,

thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia ở những nơi khó khăn, gian khổ;
xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh của từng địa phương, đơn vị. Các hoạt
động xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, “Đền ơn đáp nghĩa”, giữ

9

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004, tr.36.

17


gìn an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội tiếp tục mở rộng về quy mơ, nội
dung, hình thức, ngày càng đi vào chiều sâu.
Tuy nhiên, vẫn còn khơng ít sinh viên chưa ý thức đầy đủ về nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc, thậm chí mơ hồ trước âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù; một
bộ phận sinh viên khác phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về đạo đức lối
sống, chạy theo lối sống vật chất tầm thường, buông thả, vô nguyên tắc, thờ ơ,
lãnh đạm với các vấn đề chính trị xã hội. Những hạn chế, yếu kém này ảnh hưởng
đến xây dựng tiềm lực để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục,
nâng cao ý thức bảo vệ tổ quốc là điều hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
a. Xây dựng ý thức, nhận thức trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc
Ý thức bảo vệ tổ quốc là một loại hình của ý thức xã hội, được hình thành,
phát triển và ngày càng hồn thiện gắn liền với quá trình hình thành, xây dựng,
phát triển của hiện thực đất nước. Ý thức bảo vệ tổ quốc phản ánh nội dung, yêu
cầu của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trên cả hai phương diện tự nhiên lịch sử và
chính trị xã hội.
Do đó, có thể hiểu ý thức bảo vệ tổ quốc của sinh viên là sự giác ngộ về nghĩa
vụ và trách nhiệm của sinh viên đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc được biểu hiện
bằng hành vi thực tế sẵn sàng chống lại những lực cản đối với nền độc lập dân
tộc và công cuộc phát triển đất nước hiện nay theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, mọi sự khởi đầu và phát triển đều từ sự hiểu biết của con người.
Có hiểu biết về những vấn đề liên quan tới sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay
mới có cơ sở để hình thành, củng cố phát triển niềm tin và ý chí quyết tâm thơng
qua các hành động và việc làm cụ thể đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc của mỗi
con người.
Sinh viên cần có sự hiểu biết về những vấn đề có liên quan tới sự nghiệp bảo
vệ tổ quốc bao gồm: hiểu biết về đất nước và con người, các dân tộc và tôn giáo
ở Việt Nam; hiểu biết về lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc; hiểu
18


biết về Đảng cộng sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân
và về chế độ xã hội chủ nghĩa mà ta đang xây dựng; hiểu biết về bản chất âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù trong và ngoài nước đối với nền độc lập dân tộc và
công cuộc xây dựng đất nước; hiểu biết về chủ trương, chiến lược, những yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc hiện nay; hiểu biết về phương pháp và phương tiện
đấu tranh bảo vệ tổ quốc…
Cùng với đó niềm tin về sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của sinh viên là niềm tin
của những con người đang học tập, tu dưỡng rèn luyện trong các trường đại học.
Đó là hệ thống những tri thức, nhận thức, quan điểm của sinh viên về bảo vệ tổ
quốc dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, thơng qua các bộ mơn chính trị xã hội được các trường
Đại học, Cao đẳng được đưa vào giảng dạy.
Thái độ, tình cảm của niềm tin là thành tố quan trọng của ý thức bảo vệ tổ
quốc, là nguồn lực của nhận thức và hành vi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc. Thái độ tình cảm đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trước hết được
biểu hiện ở tình yêu tổ quốc. Tình yêu đất nước là một trong những tình cảm sâu
sắc nhất của sinh viên đối với tổ quốc, là động cơ chủ đạo trong việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Nó là động lực mạnh mẽ trong sức mạnh dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta.

Thái độ, tình cảm đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc được biểu hiện ở niềm
tin sâu sắc vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường phát triển của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta đang đi. Có niềm tin như
vậy sinh viên mới có động lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc mà trước hết là học tập và rèn luyện tốt khi đang còn
ngồi trên ghế nhà trường.
Tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại của kẻ thù trong
và ngoài nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng là biểu hiện của
thái độ đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Tinh thần cảnh giác giúp cho mỗi con
19


người Việt Nam nói chung có độ nhạy cảm cao trong việc sẵn sàng đánh trả
những âm mưu, thủ đoạn phá hoại nền độc lập của dân tộc và công cuộc xây
dựng đất nước. Vì vậy, tinh thần cảnh giác là một yếu tố cơ bản và rất quan trọng
trong ý thức bảo vệ tổ quốc của mỗi sinh viên.
b. Sinh viên trong công cuộc xây dựng Tổ quốc
Thanh niên ngày nay được thừa hưởng nhiều thành quả từ công cuộc đổi mới,
xây dựng đất nước, họ có nhiều cơ hội học tập, phát triển, giao lưu với bạn bè
quốc tế. Đó cũng chính là lý do để chúng ta hy vọng đất nước có thể đáp ứng
được với cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Cũng như thanh niên thế giới,
thanh niên Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ, thách thức, vì thế, họ cần
chủ động trang bị những nhận thức, kiến thức, kỹ năng cần thiết để trực tiếp
tham gia đóng góp vào sự phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
Những việc làm và hoạt động của thanh niên được thể hiện rõ nhất ở các
phong trào hành động Cách mạng, các chương trình hành động, tiêu biểu, như:
“Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”; Cuộc vận động “Nghĩa tình
biên giới hải đảo”, với các hoạt động như: “Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê
hương”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Góp đá xây Trường Sa”… đã
để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng thế hệ trẻ và nhân dân cả nước; góp phần

làm thay đổi thái độ và nhận thức chính trị của thanh niên.
Thanh niên hiện nay, trong đó, khơng ít bạn trẻ có trình độ học vấn cao ln sẵn
sàng gia nhập Quân đội, thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Đây là điều rất đáng
phấn khởi và là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, phong trào “Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc”, “Sáng tạo trẻ”, “Thanh niên chung tay xây dựng Nông thôn mới”… đã
cổ vũ đồn viên thanh niên phát huy sáng kiến, tích cực nghiên cứu khoa học,
tăng năng suất lao động với nhiều mơ hình, cách làm mới, hiệu quả. Qua đó, góp
20


phần hồn thành nhiệm vụ chính trị; giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng
đồng, thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia ở những nơi khó khăn, gian
khổ; xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh của từng địa phương, đơn vị.
c. Sinh viên Bách Khoa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trường Đại học Bách Khoa Tp.HCM là một địa chỉ đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao thuộc lĩnh vực Kỹ thuật – Cơng nghệ đáp ứng u cầu Cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế.
Mỗi sinh viên luôn đam mê, sáng tạo trong học tập để thực hiện tốt nguyên
tắc và phương pháp giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra: Học đi đôi với
hành, lý thuyết gắn liền với thực tế, thực hành dân chủ trong học tập... Vận dụng
nguyên lý học đi đôi với hành, mỗi sinh viên đã luôn cố gắng trong lĩnh hội tri
thức, kinh nghiệm đồng thời tạo mơi trường học tập hịa đồng, vui vẻ, biết vận
dụng những tri thức lý luận, kinh nghiệm thực tiễn để giải quyết các công việc
trong thực tế đời sống.
Tuy nhiên, hiện nay phần lớn sinh viên của trường vẫn chưa quan tâm nhiều
đến vấn đề chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyên nhân một phần là do Đại
học Bách Khoa là một trường kỹ thuật, cho nên ý thức của sinh viên trong việc

học tập các môn chính trị và tư tưởng chưa cao. Một phần nữa là do các mơn
chính trị thường nặng về lý thuyết, ít thực hành, khó áp dụng vào thực tế nên dễ
gây ra sự nhàm chán.
Biết được thực trạng sinh viên như vậy nhà trường đã đưa ra nhiều giải pháp
nhắm nâng cao tinh thần học tập, tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh trong suy nghĩ
của từng sinh viên nhà trường đã đưa ra một số giải pháp như là: Thứ nhất, các
giảng viên thường xuyên đưa các câu chuyện thực tế vào bài giảng nhắm giúp
sinh viên có cái nhìn trực quan và dễ dàng liên hệ với thực tế. Thứ hai, lịch học
được phân chia thành nhiều buổi nhằm giảm áp lực lý thuyết trong từng buổi
học. Ngoài ra nhà trường cịn kết hợp giữa hình thức thi trắc nghiệm và tự luận
nhằm giúp sinh viên nắm vững kiến thức, tránh nhàm chán trong việc ôn bài.
21


Bên cạnh đó để ln xứng đáng với 16 chữ vàng mà Trung ương Đồn TNCS
Hồ Chí Minh đã trao tặng:
“Tuổi trẻ Bách Khoa: Giỏi chun mơn – Vững chính trị - Sáng tâm hồn – Khỏe
thể chất”
Sinh viên Bách Khoa luôn ra sức trau dồi kiến thức kinh nghiệm, tích cực
tham gia các hoạt động để trau dồi chuyên mơn. Các sân chơi học thuật có thể
kể đến như là hoạt động “Môi trường xanh” của Khoa Môi trường và tài nguyên,
“Cơn lốc hóa học” của Khoa Kỹ thuật hóa học, The manager to be của Khoa
Quản lý cơng nghiệp, …Các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu khoa học như “BK
Innovation”, “Hội nghị Khoa học công nghệ OISP”, “Cuộc thi ý tưởng sáng tạo
Sinh viên Bách khoa”,… hay “Ngày hội sinh viên khỏe”, “Hội thao sinh viên”
nhằm rèn luyện sức khỏe cho sinh viên,….
Sinh viên Bách Khoa cũng cống hiến hết mình cho các hoạt động xung kích,
tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng như “Chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh”
xây dựng tuyến đường nông thôn cho người dân góp phần vào phong trào
“Thanh niên chung tay xây dựng Nơng thơn mới”, “Xn tình nguyện” mang

đến một mùa Tết trọn vẹn cho những người có hồn cảnh khó khăn, “Tiếp sức
mùa thi”, “Tuần lễ hiến máu tình nguyện”, …
Với những nỗ lực không ngừng như vậy, sinh viên Bách Khoa đã có được
những thành tích nổi bật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như Huân
chương lao động hạng 3 cho phong trào tình nguyện góp phần xây dựng Chủ
nghĩa xã hội; Bằng khen Ủy ban nhân Thành phố cho Tập thể lao động xuất sắc
năm 2004, 2005, 2006, 2008, 2009, 2010, 2011; Bằng khen bộ trưởng Bộ Y tế,
Bằng khen Hội chữ thập đỏ Việt Nam cho đơn vị có thành tích xuất sắc trong
công tác Hiến máu nhân đạo năm 2002; Bằng khen Trung ương Hội sinh viên
Việt Nam cho đơn vị hoàn thành xuất sắc công tác Hội và phong trào sinh viên
từ năm học 2000 - 2011 đến năm học 2010 – 2011; Bằng khen Ủy ban nhân dân
các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh, Trung Ương Hội sinh
22


viên Việt Nam cho đơn vị có thành tích xuất sắc trong chiến dịch tình nguyện
Mùa hè xanh từ năm 2001 đến năm 2011; Bằng khen Thủ tướng chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam vì đã có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong CDTN Mùa hè
xanh (giai đoạn 2013 – 2018) góp phần tích cực phong trào thi đua “Cả nước
chung tay xây dựng nông thôn mới”.
PHẦN 3: TỔNG KẾT
Nghiên cứu vấn đề giai cấp và dân tộc giúp chúng ta hiểu rõ về nguồn gốc,
quá trình tồn tại và xu hướng phát triển của cộng đồng các dân tộc trên thế giới,
đồng thời tìm hiểu bản chất căn nguyên của sự biến đổi và phát triển thơng qua
việc tìm hiểu về quan hệ giai cấp nội tại trong mỗi quốc gia, dân tộc. Qua đó ta
nhận thấy mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng
tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được
kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn

của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh
đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng
trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm
lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền,
bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới,
làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách,
vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

23


×