Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.12 KB, 19 trang )

`
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

————

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: VAI TRỊ CỦA ĐƯỜNG MỊN HỒ CHÍ MINH
TRÊN BIỂN TRONG SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ

HÀ NỘI – 2019


VAI TRỊ ĐƯỜNG MỊN HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN TRONG SỰ
NGHIỆP KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỦA VIỆT NAM

I.

MỞ ĐẦU:
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài:

Có biết bao kỳ tích đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
hào hùng của dân tộc Việt Nam. Mỗi kỳ tích là cả chuỗi những sự kiện mang
dáng dấp một câu chuyện huyền thoại, vượt khỏi sự hình dung thơng thường,
nhưng đó là một thực tế - thực tế hết sức sinh động. Con đường chi viện chiến


lược trên biển mang tên Hồ Chí Minh là một trong những kỳ tích như thế.
Gần 60 năm trước đây, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ
chuyển thế chiến lược, từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng, khi con
đường chi viện trên bộ chưa thể vươn tới các chiến trường xa hậu phương
miền Bắc, sâu trong vùng địch chiếm đóng, thì những chuyến tàu nhỏ bé, "tàu
khơng số", bí mật đạp sóng Biển Đơng, vượt qua sự ngăn chặn, kiểm sốt
ngặt nghèo của qn thù, tiếp tế vũ khí, bổ sung lực lượng cho đồng bào,
chiến sĩ miền Nam đánh mạnh, thắng to. Cũng từ đây, đánh dấu sự ra đời của
một lực lượng vận tải quân sự "đặc biệt" - Đoàn 759 – tiền thân Lữ Đoàn 125
Quân chủng Hải quân ngày nay, với con đường chi viện trên biển, mà đích
đến là những bến bãi, kho tàng được bố trí dọc theo bờ biển miền Nam. Con
đường biển cùng với con đường chạy dọc theo dãy Trường Sơn hùng vĩ, trong
suốt những năm tháng chiến tranh, ghi dấu biết bao chiến công oanh liệt của
quân và dân ta. Hành trình nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến
lớn miền Nam không dừng lại ở sự vận chuyển thông thường, mà vượt lên
thành biểu tượng của ý chí, quyết tâm, tài thao lược, trí thơng minh, sức sáng
tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Giờ đây, với điểm đứng của hiện tại, chúng ta có điều kiện để tìm tịi, suy
ngẫm về những trang sử đấu tranh hào hùng của dân tộc, về kỳ tích của con
đường Hồ Chí Minh trên biển trong những tháng năm chống Mỹ, cứu nước.
Với những tìm tịi, suy ngẫm về quá khứ cho phép chúng ta thấy rõ hơn tầm
vóc, ý nghĩa của một thế trận đọ sức, đọ trí đầy cam go của quân và dân ta với
quân thù; đồng thời, nhìn nhận sâu sắc hơn về vai trị to lớn của đường Hồ
Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ.


1.2.

Lời cảm ơn và giới thiệu đề tài:


Với lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, đóng góp của các thế hệ cha
anh trong sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nhóm 2 xin
chọn “Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ” làm đề tài thảo luận của mình.
Nhóm xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên bộ môn – cô Nguyễn
Thị Ngọc Diệp đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình nhóm trong q trình hồn
thiện đề tài!
II.

NỘI DUNG:
2.1. Đặc điểm của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển:
2.1.1. Sơ lược về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển:

Sau hiệp định Giơneve (1954), thực hiện âm mưu xâm lược thực dân mới ở
miền Nam Việt Nam, Mỹ đã hất cảng Pháp dựng lên chính quyền Việt Nam
Cộng hịa, tiến hành chính sách “tố Cộng, diệt Cộng”, lê máy chém khắp miền
Nam. Đứng trước tình hình đó, để tăng cường hơn nữa khả năng chi viện kịp
thời cho chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước; bên cạnh tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ đã
được mở vào năm 1959, Bộ Chính trị quyết định mở thêm tuyến vận tải thứ
hai bằng đường biển. Sau quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và chuẩn bị về
mọi mặt (từ 1959 đến 1961), ngày 23-10-1961, Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương quyết định thành lập Đoàn Vận tải biển 759, tiền thân của Lữ
đoàn 125 Hải quân (với tên gọi “Đồn tàu khơng số”) đặt dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Quốc phịng. Sự ra đời của Đồn 759 cùng với việc khai thông
tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện có ý nghĩa to lớn. Từ
đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức
mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền

Nam.
Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức
trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của
địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng
các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí. Mặc dù hoạt động trong một điều kiện
vô cùng gian khổ và thiếu thốn, nhưng với sự sáng tạo tài tình, mưu trí, các
chiến sĩ đã vận dụng nhiều cách thức đi biển sáng tạo, linh hoạt, kết hợp các
yếu tố vừa cơng khai vừa bí mật để có thể vận chuyển hàng hóa một cách an
tồn mà vơ cùng hiệu quả nhằm chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trong suốt 14 năm liên tục (1961-1975), “Đồn tàu Khơng số” đã tạo nên
một huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển: vận hành “1.789 chuyến tàu
không số, vận chuyển 150.000 tấn vũ khí trang bị và 80 nghìn lượt cán bộ,
vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 400 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20


cơn bão, chiến đấu 300 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập
kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu, xuồng địch”, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975,
thực hiện chỉ thị “thần tốc”, “đại thần tốc” của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thần tốc vận chuyển “130
lượt với 143 chuyến tàu, chở 8.741 tấn vũ khí hạng nặng gồm 50 xe tăng và
đại pháo; đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 65.721 hải lý để kịp tham gia chiến
đấu”, hiệp đồng tác chiến với cánh quân đường bộ. Những chiến công của
tuyến đường huyền thoại trên biển chính là những kỳ tích lịch sử, được làm
nên bởi trí tuệ, lịng u nước, sức mạnh của ý chí “Khơng có gì q hơn độc
lập tự do” và khát vọng hịa bình, khát vọng về một ngày mai tươi sáng.
2.1.2.

Các sự kiện chính:


- Sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển chưa thành công, Đoàn
759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc
vào Nam. Thuyền gồm 6 người do đồng chí Bơng Văn Dĩa là Bí thư chi bộ
phụ trách, đồng chí Hai Tranh là Phó Bí thư chi bộ. Đêm 10/4/1962, thuyền
rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng Nam, ngày 14/4/1962 khi thuyền
đến vùng biển Nha Trang thì gặp tàu Mỹ, chúng nghi ngờ và cho tàu chạy
vòng quanh, quần đảo từ 8 giờ sáng đến 14 giờ chiều, các chiến sĩ trên thuyền
phải bỏ hết hải đồ, la bàn xuống biển, đóng vai dân chài ra khơi đánh cá bị gió
đẩy xa bờ, địch khơng đeo bám nữa, thuyền tiếp tục hành trình về hướng
Nam. Đến 10 giờ đêm ngày 18/4/1962, thuyền cập bến Vàm Lũng (Cà Mau).
Sau thời gian nghiên cứu, khảo sát bến, thuyền Bạc Liêu quay trở ra miền
Bắc; chuyến đi trinh sát, mở đường đã thành công. Trung tuần tháng 8/1962,
Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược
trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn mới. Để đảm bảo
bí mật, những chiếc tàu của Đoàn phải cải trang thành tàu đánh cá, trà trộn
vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân, tên gọi “Đồn tàu khơng số” từ đây
ra đời.
- Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương
và Bộ Quốc Phòng giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở
đường Vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ - một chiến
trường có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Tính đến năm 1965, hàng chục
bến bãi tiếp nhận vũ khí đã được bí mật xây dựng ở một số tỉnh ven biển như:
Vàm Lũng, Bồ Đề, Bến Cũ, Kiến Vàng, Cái Bầu ( Cà Mau, Bạc Liêu), Hố
Lồng Đèn ( Rạch Giá), Ba Động, Khâu Lầu, La Ghi, Láng Nước, Rạch cờ, Hố
Tàu ( Trà Vinh)... Chính hệ thống bến bãi kể trên đã góp phần tạo nên thành
cơng của tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển.
- Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu
vỏ sắt tổ chức đưa 88 chuyến tàu tới đích (khơng tính các chuyến trinh sát, mở



đường) vận chuyển được gần 5000 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu
vào chiến trường (Cà Mau, Bạc Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh
12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rơ 4 chuyến, Bình Định 1 chuyến), đạt
93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới đích đã là
thành cơng). Thành cơng của những chuyến vận chuyển vũ khí đã góp phần
làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái
Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài...
- Sự kiện tàu C143 bị bắt ở Vũng Rô: Ngày 1/2/1965 tàu C143 của thuyền
trưởng Lê Văn Thêm chở 63 tấn vũ khí cùng 17 người từ Hải Phòng vào khu
V. Mặc dù tàu đã được ngụy trang như một tàu khai thác hải sản, nhưng cuối
cùng tàu bị máy bay địch phát hiện, địch lập tức huy động cả máy bay, tàu
chiến và pháo binh, bộ binh tập trung tấn công Vũng Rô. Mặc dù kiên cường
đánh trả, nhằm bảo vệ đến cùng số vũ khí đã được đưa vào từ miền Bắc.
Song, trước thế địch quá mạnh, quân ta chủ trương phá vòng vây rút lui và
tiếp tục hủy số vũ khí cịn lại, nhưng vì số hàng tồn của những chuyến tàu
trước chuyển vào còn quá nhiều, nên không hủy hết. Ở hang Vàng, bọn địch
quyết chiếm nơi này, liền bị ta cho nổ tung kho vũ khí, khiến địch chết rất
nhiều. Sau đó, chúng tổ chức mị vũ khí của ta ở con tàu chìm, tháo gỡ một số
bộ phận của tàu và mang về Sài Gịn mở triển lãm có cả Phó Thủ tướng ngụy
đến dự, để rêu rao về chiến công thu hồi vũ khí do miền Bắc tiếp tế bằng
đường biển. Từ đây, con đường vận chuyển chiến lược trên biển vốn được xây
dựng kỳ cơng và bí mật, đã bị lộ.
- Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết
sức hào hùng của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với
tàu C143 ở Vũng Rơ (Phú n), bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên
biển của ta khơng cịn nữa. Công việc tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển
vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận chuyển từ phương thức trực
tiếp sang phương thức gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này, trong
một năm (từ 1-11-1968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào

cảng sông Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào
Nam theo đường bộ. Cùng với nhiệm vụ đưa hàng vào cảng sông Gianh,
Quân chủng Hải quân cịn chọn một số tàu và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp
tục vận chuyển vào Nam theo đường Hồ Chí Minh trên biển. Ngoài ra, trong
giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đồn 125 cịn tham gia chiến dịch vận tải VT5 Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực
lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương
thực, xăng dầu… từ Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho
tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559).
- Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc
toàn bộ lực lượng và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển


vũ khí và vật chất các loại vào các chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu,
vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và vật chất khác, cùng hàng ngàn lượt cán bộ
chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội
đặc cơng chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao
Thu, các đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc.
Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh
trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải
quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường miền Nam, tạo nên
hệ thống mạch máu giao thơng chủ đạo và hồn chỉnh chi viện kịp thời, hiệu
quả cho miền Nam đánh thắng quân thù, góp phần khơng nhỏ vào chiến thắng
lịch sử 1975, thống nhất đất nước.
Vai trị của Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
2.2.1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc
phòng – nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển thắng lợi
của Đường Hồ Chí Minh trên biển.


2.2.

Đường Hồ Chí Minh trên biển – một sáng tạo chiến lược của đảng trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Từ đầu cho đến kết thúc chiến tranh,
trong từng thời điểm, giai đoạn cụ thể, Đảng ta luôn chỉ đạo sát sao, cụ thể và
có những quyết sách chính xác với Đường Hồ Chí Minh trên biển. Trong q
trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ công
tác chi viện chiến trường thơng qua Bộ chính trị, Quận ủy Trung ương.
Thực tế cho thấy, ngay sau Hội nghị Trung ương 15 quyết định đường lối
cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến cơng, Bộ Chính
trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở tuyến đường Trường Sơn chi viện miền
Nam. Ngày 5-5-1959, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy T.Ư) quyết định thành
lập Phòng Nghiên cứu công tác chi viện quân sự miền nam, trực thuộc Bộ
Tổng tham mưu, do Thượng tá Võ Bẩm làm Trưởng phịng, có nhiệm vụ: mở
một con đường đặc biệt trên dãy Trường Sơn từ bắc vào nam để chuyển nhân
lực, vật lực từ miền Bắc phục vụ cách mạng miền nam cũng như cách mạng
Lào và Cam-pu-chia. Đến ngày 19-5-1959, Bộ Chính trị T.Ư Đảng quyết định
thành lập Đồn 559, có nhiệm vụ mở đường giao liên và vận tải trên bộ, đưa
người, vũ khí cùng những mặt hàng thiết yếu từ hậu phương lớn miền Bắc
vào chiến trường. Sau một thời gian nghiên cứu chuẩn bị, ngày 23-10-1961,
Bộ Quốc phịng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đồn 759 vận tải quân sự
đường biển. Được sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên, sự ủng hộ, giúp đỡ hết
lịng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân một số địa phương, Đồn 759
nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát
nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với


các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ xây dựng các bến bãi tiếp nhận

và tổ chức lực lượng vận chuyển vũ khí. Sáng ngày 19-10-1962, chiếc tàu vỏ
gỗ đầu tiên chở hơn 30 tấn vũ khí mang mật danh Phương Đông I đã cập bến
Vãm Lũng an tồn. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đánh dấu tuyến chi
viện chiến lược – Đường Hồ Chí Minh trên biển chính thức được khai thơng.
Tầm nhìn xa của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị
trí và vai trị của cơng tác chi viện cho chiến trường đã tạo bước phát triển
vững chắc, mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên biển
đã ghi dấu ấn quan trọng, thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách
mạng trên chiến trường, góp phần vào thắng lợi của những trận đánh gây
tiếng vang lớn như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã, Ba Gia,
Vạn Tường... Đặc biệt trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975,
thực hiện chỉ lệnh "thần tốc, đại thần tốc" của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp, đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển nhanh nhiều vũ
khí hạng nặng và hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời
hiệp chi viện chiến trường.
Sự nối kết, chuyển tải sức mạnh của hậu phương đối với tiền tuyến đã được
thực hiện hiệu quả thơng qua đường mịn Hồ Chí Minh trên biển, nhất là trong
điều kiện tuyến đường Trường Sơn chưa thể vươn tới những chiến trường, địa
bàn xa hậu phương, sâu trong vùng địch tạm chiếm. Kết quả của sự phát triển
thực lực kháng chiến ở miền Nam sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi”
(năm 1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở
nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của cuộc kháng chiến, chủ động,
tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, vững
chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp thiết
thực trong quá trình ấy.
Như vậy, quyết định đúng đắn, sáng tạo, táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, mở con đường vận tải quân sự chiến lược chi viện miền Nam trên
hướng biển, đã thể hiện rõ nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; đáp ứng khát vọng cháy bỏng và quyết tâm sắt đá giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Tuyến vận tải quân sự chiến lược này đã góp phần phát huy sức mạnh của
miền Bắc XHCN - nhân tố quyết định nhất, kết hợp với sức mạnh tại chỗ của
cách mạng miền Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn dân tộc,
đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Là nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong
cuộc đấu trí, đấu lực chống lại các âm mưu - thủ đoạn của kẻ thù;
là nơi tỏa sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lịng quả cảm, trí
thơng minh và sự quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của dân tộc
Việt Nam anh hùng:

2.2.2.


-

Nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam:

Đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hành trang – vũ khí sắc bén
của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào
sự nghiệp cách mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế
hệ trẻ người Việt Nam được hun đúc, bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được hấp thu, truyền thụ qua mơi trường
giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua hình tượng của con người Việt Nam giàu lịng
u nước, có ý thức sâu sắc về giá trị của độc lập, tự do, luôn sẵn sàng hi sinh,
phấn đấu sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất non sơng gấm vóc.
Với ý nghĩa đó, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã thể hiện một bản
lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí,
dũng cảm hiếm có để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mỗi một
chuyến tàu khởi hành là một cuộc đấu trí, đấu lực vô cùng căng thẳng, quyết
liệt giữa các lực lượng hải quân Nhân dân Việt Nam với lực lượng hải quân

Mỹ và hải quân Việt Nam Cộng hòa dưới sự chỉ dắt của rất nhiều chuyên gia
quân sự Mỹ “sừng sỏ”. Nếu khơng có bản lĩnh chính trị vững vàng thì khơng
thể thực hiện được nhiệm vụ gian khó đặt ra, nhất là trong buổi đầu hình
thành lực lượng vận tải quân sự đường biển còn nhiều vấn đề như: soi đường,
thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi… Trên những chuyến
tàu “Không số", nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị viên, thuyền
phó đã thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu tiếp tục giữ vững
hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Có thể kể
đến: đồng chí Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm, Đinh Đạt,
Phạm Vạn, Lê Quốc Thành, Nguyễn Hữu Phước, Trần Ngọc Ẩn…
Các đồng chí ấy đã nêu những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trình độ hàng hải vững vàng, điều khiển những con tàu vượt
qua các bãi đá ngầm, sóng gió hiểm nguy và nhất là sự phong tỏa ngăn chặn,
đánh phá ác liệt của quân thù; đưa nhiều chuyến tàu chở vũ khí cập bến an
tồn. Cũng trong số đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ cùng với những con tàu ra đi
không trở lại. Khi gặp địch bao vây bốn phía, cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã
dũng cảm chiến đấu và để giữ bí mật cho con đường, họ hy sinh cả thân mình
nơi biển cả mênh mông. Nêu tấm gương nghĩa liệt ấy là các đồng chí Đặng
Văn Thanh, Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu, Hồ Đức Thắng…
Ngồi ra cịn phải kể đến sự tham gia của nhân dân ở các tỉnh thành lưu
vực sông đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng cán bộ cách mạng tạo nên những
bến bãi ngụy trang ngay trong lòng địch, đóng vai trị tiếp nhận và vận chuyển
vũ khí đến địa điểm tập kết một cách an toàn, tránh được đáng kể sự nghi ngờ
của địch.
Thời đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con người
Việt Nam đã viết nên những trang sử hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh.
Thành cơng của cơng cuộc chi viện chiến trường bằng Đường Hồ Chí Minh


trên biển nói riêng và thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu

nước nói chung thực sự là biểu trưng sinh động cho giá trị, phẩm chất và hào
khí bất khuất của con người Việt Nam. Đây chính là nhân tố trung tâm, quyết
định tạo nên sức mạnh phi thường để nhân dân Việt Nam đương đầu và đánh
thắng qn xâm lược Mỹ.
-

Bên cạnh đó, Đường Hồ Chí Minh trên biển còn là sự kết nối chặt chẽ
giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) chỉ rõ: miền
Bắc có vai trị quyết định nhất đối với tồn bộ sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trị quyết định trực tiếp trong
việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai…; xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ nhận thức đúng đắn và xác định rõ vị trí, vai trị của từng miền trong
cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, Đảng ta đã hình thành chủ trương,
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp để xây dựng, củng cố hậu phương chiến
lược; gắn mọi hoạt động của hậu phương lớn miền Bắc với hoạt động của tiền
tuyến lớn miền Nam; làm tròn nghĩa vụ của hậu phương - căn cứ địa cách
mạng của cả nước.
Có thể khẳng định rằng, suốt chiều dài của cuộc kháng chiến, ý thức sâu
sắc vị trí, vai trị của mình, qn và dân ở hậu phương cũng như tiền tuyến,
Bắc cũng như Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa
xây dựng và chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng "chống Mỹ, cứu
nước", bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Con
đường Hồ Chí Minh trên biển trong những năm tháng ấy đã góp phần xứng
đáng vào quá trình kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn với tiền tuyến lớn.
Khơng chỉ có vậy, sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và
thắng lợi của cơng tác chi viện chiến trường chính là nguồn cổ vũ, động viên,

khích lệ tinh thần đồng bào, chiến sĩ miền Nam vượt qua bao khó khăn, thử
thách khốc liệt của chiến tranh, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với những
cán bộ, chiến sĩ trên những con “tàu không số” của bộ đội Hải
quân và nhân dân các tỉnh duyên hải nơi tuyến đường đi qua; góp
phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”,
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

2.2.3.

Việc mở đường Hồ Chí minh trên biển là một chủ trương kiên quyết, táo
bạo của Trung ương Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quyết định
sáng suốt này là kết quả của sự kết hợp “ Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” và đã
đem lại những đóng góp lớn: hàng ngàn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh
của Trung ương chi viện cho chiến trường miền Nam đã tới được nhiều địa


phương ở các tỉnh duyên hải miền Trung để tiếp sức cho cuộc kháng chiến, là
nguồn vổ vũ động viên to lớn đối với nhân dân miền Nam nói riêng và đồng
bào cả nước nói chung để thực hiện khát vọng “Bắc Nam sum họp một nhà”.
- Để quá trình vận chuyển hàng hóa, vũ khí, trang thiết bị trên đường biển
Bắc - Nam được diễn ra thành công, suôn sẻ không thể không kể đến những
thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Đồn tàu “Khơng số”. Họ là những người ln
ln trung thành với Đảng, hết lịng với nhân dân. Họ ln sẵn sàng chiến
đấu, hi sinh để hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Bác Hồ và Quân
đội giao phó. Đối đầu với kẻ thù được trang bị đầy đủ các loại vũ khí, thiết bị
hiện đại, tối tân nhưng khơng vì thế mà các chiến sĩ của Đồn tàu “Khơng số”
trở nên nhỏ bé sợ sệt mà càng nổi bật với ý chí quật cường, khơng ngại gian
khổ, tinh thần hăng hái, mưu trí, sáng tạo. Lúc đầu những thủy thủ lái Đồn

tàu “Khơng số” trên tuyến vận tải quân sự hầu hết là những người Nam tập
kết ra Bắc, có một số đã quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, có
kinh nghiệm điều khiển tàu. Say này, do yêu cầu nhiệm vụ và quy mô vận
chuyển phát triển hơn nên thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kỹ
thuật của đoàn vận tải là Đảng viên, Đoàn viên vừa có tri thức, sức khỏe, khả
năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng và sự quyết tâm cao. Họ là
những cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, rèn luyện, trưởng thành trong các đơn
vị, cơ quan, nhà trường ở miền Bắc. Họ đã trở thành nguồn nhân lực quan
trọng đảm đương nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Thành cơng của những chuyến tàu “Khơng số" vận chuyển chi viện miền
Nam không chỉ là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến chiến đấu trong giai
đoạn hết sức gay go, ác liệt của cuộc chiến mà còn là chỗ dựa tinh thần mang
tới niềm tin cho tất cả đồng bào về một tương lai tươi sáng hơn.
Là hậu phương vững chắc chi viện kịp thời sức người, sức của
cho chiến trường miền Nam, góp cơng góp sức cùng qn dân cả
nước làm nên thắng lợi của chiến dịch mùa xuân năm 1975 giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước.

2.2.4.

Một là, đường Hồ Chí Minh viện chiến lược, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào miền Nam 111 tấn vũ khí,
cập các bến đã chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt,
gian nan, đấu trí và đấu lực căng thẳng với địch cũng như đối mặt với sóng
gió biển khơi, các chiến sĩ hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế
vũ khí cho miền Nam trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, góp phần rất
quan trọng trong việc tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang
giải phóng. Cơng việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn
tuy số lượng chưa nhiều nhưng đã góp phần quan trọng giúp nhân dân các

tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo được thế


mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng vùng giải
phóng.
Qua con đường vận tải biển, hậu phương lớn miền Bắc đã tiếp tế kịp thời
vũ khí, đạn dược cho chiến trường miền Nam. Thành cơng của những chuyến
vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, xây dựng và
phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, góp phần làm nên những
chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là,
Vạn Tường, Đồng Xoài,... Trên con đường vận chuyển này, nhiều trận chiến
đấu ác liệt đã diễn ra nhưng cán bộ, chiến sĩ Hải qn làm nhiệm vụ vận tải
biển khơng sờn lịng, nản chí, họ đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế cho
miền Nam, góp phần tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang
giải phóng đánh bại “chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Có thể thấy, hiệu quả vận chuyển của tuyến chi viện chiến lược biển đã tạo
nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên tất cả các vùng chiến lược,
các địa bàn chiến lược ở miền Nam tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến
thắng của quân ta. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện
tại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta,
thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Tuyến chi viện chiến lược trên biển bảo đảm thời gian nhanh hơn, kịp thời
hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Vận chuyển bằng đường bộ
phải qua nhiều cung, chặng, nhiều lực lượng, phương tiện... vì vậy mất nhiều
thời gian, thậm chí là nhiều tháng mới đến nơi. Vận chuyển bằng đường biển
tuy gian nan, vất vả và nguy hiểm vì phải độc lập đối phó với địch và sóng gió
trên biển nhưng nếu vượt qua được tất cả thì thời gian vận chuyển chỉ khoảng
5 – 6 ngày là vào đến chiến trường Tây Nam Bộ.
Tuyến chi viện chiến lược trên biển còn vận chuyển những loại hàng “đặc
biệt”. Đó là những ngoại tệ mạnh, máy móc, thiết bị y tế quý hiếm, hóa chất

đặc biệt và đặc biệt hơn cả là đã đưa đón an tồn tuyệt đối hàng trăm cán bộ
cao cấp của Đảng, Nhà Nước, quân dội và các chuyên gia đầu ngành tăng
cường cho chiến trường như Lê Đức Anh, Hoàng Thế Thiện, Võ Văn Kiệt,
Nguyễn Thế Bơn...
Có thể thấy, Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến chi viện chiến lược,
chủ yếu chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đây cũng là
tuyến chủ yếu vận chuyển, cơ động lực lượng giải phóng và bảo vệ chủ quyền
biển đảo của Tổ quốc. Bên cạnh đó, sự phối hợp của quân và dân cả nước
cungc đã góp phần làm nên thắng lợi. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước là thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, là thành quả
của tổng hợp nhiều nhân tố quan trọng trong đó sự lãnh đạo tài tình, đúng
đắn, sáng suốt của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quan trọng
và quyết định nhất. Đó cịn là thắng lợi của tình đồn kết dân tộc, sự phối hợp
chặt chẽ giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Viêt Nam, trở thành


truyền thống quý báu của lực lượng vũ trang cách mạng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, sáng
tạo của đường lối chiến tranh nhân dân; trở thành biểu tượng tự
hào của cả dân tộc Việt Nam, hiện thân của ý chí khát vọng độc
lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; là trí tuệ, ý chí quyết chiến,
quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

2.2.5.

- Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền thoại có thật, một
kỳ tích của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó khơng
chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến

trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh
nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Độc đáo bởi, Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược
của Quân uỷ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng với Đường Hồ Chí
Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến
vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng
chiến lược của chiến trường miền Nam, tạo nên hệ thống mạch máu giao
thơng chủ đạo và hồn chỉnh chi viện kịp thời, hiệu quả cho miền Nam đánh
thắng quân thù.
Thêm vào đó, nó ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí,
phương tiện hiện đại, tối tân, chúng ta chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé,
thô sơ, nhưng với tầm nhìn, bản lĩnh và tài thao lược của Đảng, ý chí và khát
vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa
vào khả năng cách mạng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng
bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn ác
liệt nhất.
Hơn nữa Đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của tồn
dân tộc, với quyết tâm sắt đá khơng gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh
và biết thắng Mỹ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Quân chủng Hải quân
đã nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị
phương tiện, huấn luyện chu đáo, kể cả các lực lượng hiệp đồng tác chiến; và
chỉ huy thống nhất, quyết đốn, linh hoạt, liên tục, bí mật; triệt để tận dụng
thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm chủ
tình huống.
Và độc đáo cũng bởi vì đây là con đường và phương pháp vận chuyển độc
nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh thế giới. Nó làm cho đối phương kinh
ngạc, bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mơ, sự dũng



cảm và tính sáng tạo vơ song của con đường, những con tàu và những con
người tham gia tuyến đường.
Sự sáng tạo còn được thể hiện ở việc mở đường vận tải trên biển đúng thời
cơ; sử dụng tàu giả dạng vận tải, tàu đánh cá; kết hợp hoạt động bí mật và
cơng khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến đi (kể cả ở nước ngoài) và cập
nhiều bến đến; dẫn tàu đi trên nhiều tuyến đường khác nhau, có giai đoạn đi
vịng ra biển xa, vùng biển quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường
ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn; địch bám đuôi, ta đi thẳng
ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta
đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ và
con đường.
Những chiến công của các lực lượng tuyến chi viện chiến lược trên biển là
minh chứng cụ thể của sự chỉ đạo sát sao và tài thao lược của Đảng. Để từng
bước hình thành, phát triển tuyến đường chiến lược trên biển, chi viện ngày
càng nhiều sức người, sức của cho các chiến trường đánh thắng quân xâm
lược, Đảng ta đã phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp với
sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp vơ cùng to lớn.
- Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh trọng đại
của mình, tạc vào lịch sử hiện đại Việt Nam như một biểu tượng ngời sáng về
ý chí độc lập, tự do và thống nhất non sơng của tồn dân tộc Việt Nam.
“Đường mòn là một sản phẩm kỳ diệu của tài năng, sự kiên nhẫn và sự hy
sinh không bờ bến của con người”; “là hiện thân của những giấc mơ, những
khát vọng của cả một dân tộc” nên khơng một sức mạnh nào có thể chặn cắt,
có thể hủy diệt được.
Độc lập, tự do, thống nhất đất nước, từ ngàn xưa đã là khát vọng tiềm tàng
và cháy bỏng trong các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Qua hơn nghìn năm
Bắc thuộc, qua 20 năm đơ hộ của nhà Minh và 80 năm đô hộ của thực dân
Pháp. Đó cũng là động lực để quy tụ lịng người, đồn kết mn dân, tạo ra và
nhân lên sức mạnh đánh bại ngoại xâm, phục hưng đất nước. Đường lối kháng

chiến đúng đắn do Đảng ta vạch ra đã đáp ứng được khát vọng cháy bỏng của
những người Việt Nam yêu nước. Về phương diện đó có thể nói rằng, Ðường
Hồ Chí Minh trên biển - con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với
tiền tuyến lớn miền Nam là một biểu tượng ngời sáng của ý chí và quyết tâm
sắt đá giải phóng miền Nam, thu non sơng về một mối của tồn dân tộc Việt
Nam.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn
lao đối với toàn quân, toàn dân ta, đặc biệt là đối với bộ đội hải quân và nhân
dân các tỉnh duyên hải nơi tuyến đường đi qua.
- Đường Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, là biểu tượng nổi bật của trí tuệ và sức mạnh Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta thể hiện sâu sắc
trong việc xác định nhiệm vụ chiến lược cho cuộc cách mạng. Đồng thời giải
quyết hai nhiệm vụ chiến lược nhằm một mục tiêu chung là giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất Tổ quốc.
Ý chí, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được thể hiện trong việc giữ vững tính
nguyên tắc, linh hoạt trong việc xác định phương pháp đấu tranh và xác định
lực lượng cách mạng. Thể hiện ở tầm nhìn xa trơng rộng của Đảng, Bác Hồ,
qn và dân ta với ý thức sâu sắc xây dựng, củng cố liên minh chiến đấu đã
tạo nên thế lực vững chắc, tình đồn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân 3 nước
Đông Dương cùng nhau chống Mỹ xâm lược.
Ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam cịn là một q
trình sáng tạo khơng ngừng, chớp lấy thời cơ, biến những điều kiện, hoàn
cảnh thực tế của đất nước thành thế, thời và lực của ta mạnh hơn kẻ thù để
chiến thắng. Ý chí đó là khả năng huy động đến mức cao nhất cả về sức lực,
trí tuệ, tình cảm, ý chí của một dân tộc u chuộng hồ bình, sẵn sàng hy sinh
để giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc trước một kẻ thù có sức mạnh

quân sự lớn hơn gấp nhiều lần.
Thời gian sẽ qua đi, nhưng huyền thoại về đường Hồ Chí Minh
trên biển mãi mãi sáng ngời trong trang sử oanh liệt của dân tộc
như một thiên anh hùng ca bất tử, tô thắm thêm truyền thống đánh
giặc, giữ nước của dân tộc, của Quân đội và Quân chủng Hải
quân nhân dân Việt Nam anh hùng; tiếp thêm sức mạnh cho mọi
thế hệ phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2.2.6.

Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên bộ, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã
hoàn thành trọn vẹn và xuất sắc nhiệm vụ chi viện chiến lược cho chiến
trường miền Nam; đảm bảo cho “dịng máu chảy về tim”; góp phần quan
trọng vào thắng lợi giải phóng miền Nam – thống nhất đất đước, được coi là
một trong những kỳ tích độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Ẩn sau những chiến công ấy là sự hy sinh quên mình, quả cảm của các cán
bộ, chiến sĩ đã nằm lại giữa mênh mông sóng nước, đảm bảo bí mật về con
đường chi viện chiến lược Bắc – Nam. Đánh giá về sự vĩ đại của con đường,
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khẳng định: “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng
những chiến công anh hùng và hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường
vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính u trên biển Đơng, của các con tàu
“khơng số”, của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho cách
mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại sẽ mãi
mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta... Tổ quốc và nhân dân
ta đời đời ghi nhớ công lao của những người đã làm nên kỳ tích đường Hồ
Chí Minh trên biển”.


Giá trị lịch sử và giá trị thực tại của đường mịn Hồ Chí Minh

trên biển ngày nay:
2.3.1. Giá trị lịch sử:

2.3.

Chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị của Đường mịn Hồ Chí Minh trên
biển trong lịch sử đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ nó cho chúng ta
thấy được tầm quan trọng của tuyến đường trong quá trình đấu tranh của nhân
dân ta. Cụ thể:
- Ở giai đoạn 1 (1962-1965): Đường Hồ Chí Minh trên biển làm nhiệm vụ
chi viện cho chiến trường và góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc
biêt” của Mỹ:
Tổ chức 166 chuyến tài vào 19 bến của 9 tỉnh (trong đó có 6 tỉnh đi
trinh sát).
 Vận chuyển vũ khí hàng hố (5712 tấn).
 Đơn đón hàng ngàn lượt người.


- Ở giai đoạn 2 (1965-1972): Đường Hồ Chí Minh trên biển vượt qua thử
thách ác liệt, khắc phục khó khăn và tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến
trường giai đoạn này, góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” và
“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ:
 Tổ chức 411 chuyến tàu
 Vận chuyển vũ khí, hàng hố (50 ngàn tấn).
 Đưa đón 2042 lượt người.
- Đặc biệt, đoàn 371 đã dùng thuyền gỗ vận chuyện hợp pháp ven biển từ
Nam ra Bắc và từ Bắc vào Nam 37 chuyến, vận chuyển 620 tấn vũ khí, hàng
hoá vào quân khu IX.
Từ tháng 11/1968 đến tháng 6/1969, Đoàn tổ chức 598 chuyến tàu vận
chuyển gián tiếp 34774 tấn vũ khí, hàng hố cho chiến trường.

Đường Hồ Chí Minh trên biển lại tiếp tục tham gia chiến dịch Hồ Chí
Minh, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước (1973-1975). Cụ
thể: vận chuyển tham gia chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975.
143 chiếc tàu ra khơi, chuyên chở 8721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và pháo,
vận chuyển 18741 cán bộ, chiến sĩ đi thi đấu, hành trình 65721 hải lý.
 Đánh chìm 1 tàu PCF, đánh hỏng nặng 3 tàu khác, gọi hàng 1 tàu, bắt
sống 42 tù binh.
 Tham gia giải phóng quần đảo Trường Sa, gồm Sơng Tử Tây, Nam Yết,
Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa.
 Tham gia giải phóng Cù Lao Thu.







Tham gia giải phóng một số đảo ở vùng biển Tây Nam: Phú Quốc, Thổ
Chu, Pô-lô-vai.
Chở hơn 1000 chiến sỹ cách mạng ở nhà tù Côn Đảo trở về.
Tham gia tiếp quản một số qn cảng.

Những đóng góp trên khơng thể nào khơng kể đến hoạt động của những
đồn tàu không số ngày đêm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nước ta trong giai đoạn này.
Qua những thành tựu nêu trên để chúng ta thấy rằng đường Hồ Chí Minh
trên biển đã đi vào huyền thoại chống Mỹ cứu nước của nước ta, của dân tộc
ta. Nó mang một giá trị to lớn, cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước có thể thành cơng, thất bại hay chiến thắng là nhờ vào chính con đường

này. Đồng thời, Đường Hồ Chí Minh trên biển cũng để lại những giá trị cao
đẹp như:
 Khẳng định được sự lãnh đạo tài tình của ban chấp hành Trung Ương
Đảng.
 Là nơi hội tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện sức
mạnh của dân tộc Việt Nam- Nơi toả sáng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng.
 Thể hiện được sự sáng tạo độc đáo và đặc sắc của đường lối đấu tranh
của nhân dân ta. Nghệ thuật quân sự của Việt Nam nói chung cũng như
nghệ thuật quân sự Hải quân nói riêng trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ và tay sai.
 Là chiến trường của cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt của các lực lượng
tham gia vận tải và đảm bảo trên tuyến đường.
Cho đến ngày nay, giá trị của đường Hồ Chí Minh trên biển vẫn ln
trường tồn vĩnh cửu – là bài ca thiên hùng ca bất tử, thể hiện truyền thống
đánh giắc giữ nước của dân tộc ta trên mọi mặt trận.
Có thể hình dung của đấu tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trong
giai đoạn từ 1962 đến 1975 nếu khơng có con đường đấu tranh trên biển,
khơng có những con tàu “Không số” hoạt động ngày đêm đối mặt với tử thần
thì sẽ khơng có chiến thắng trong lịch sử. Sự ra đời của Đường Hồ Chí Minh
trên biển cùng với những chiến công của lực lượng hải quân trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng minh cho tầm quan trọng của biển, đảo
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3.2.

Giá trị thực tiễn:

Đoàn 125 Hải quân với tên gọi “Đồn tàu khơng số” là lực lượng trực tiếp
vận chuyển trên con đường biển mang tên Bác đã 2 lần được Đảng, Nhà nước
tuyên dương danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”, xây

đắp nên truyền thống vẻ vang “Mưu trí dung cảm, khắc phục khó khăn, vận
tải đường biển, chi viện chiến trường, quyết chiến quyết thắng”. Ngày 23/10


hằng năm trở thành ngày truyền thống mở “Đường Hồ Chí Minh trên biển” và
thành lập Lữ đồn 125 Hải quân.
Những bài học kinh nghiệm của Đường Hồ Chí Minh trên biển đến nay vân
còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Quân chủng Hải
quân đảm đương sự mệnh là lực lượng nòng cốt và trực tiếp trong quản lý,
bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, các lực lượng vận tải quân sự đường biển
của Hải quân đã phát huy truyền thống của “Đồn tàu khơng số” vượt qua khó
khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, đạp ứng u cầu vận chuyển trong giai
đoạn mới, ln hồn thành nhiệm vụ vận chuyển, góp phần xây dựng, bảo vệ
biển, đảo vững mạnh. Bên cạnh đó, các tàu Hải quân còn thực hiện tốt nhiệm
vụ phong chống bão, lụt, cứu hộ, cứu nạn trên biển, giúp đỡ ngư dân, góp
phân giữ vững truyền thống tốt đpẹ của quân chủng Hải quân anh hùng, sáng
ngời phẩm chất “ Bộ đội Cụ Hồ”- người chiến sĩ Hải quân trong long nhân
dân.
Lịch sử Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sư là minh chứng sống động về
tầm quan trọng của chiến lược biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Trong điều kiện hiện nay, khi các nước trên thế giới đang bước vào
cuộc chạy đua vươn ra biển, nghiên cứu thăm dò, khai thác các nguồn lợi từ
biển để làm giàu thì trách nhiệm của lực lượng vũ trang, mà trực tiếp là lực
lượng Hải quân ngày càng nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn. Dưới ánh sáng
của Nghị quyết Trung ương 4 về “ Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”,
nhất là những chủ trương nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, gắn với
quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế, những chiến công và bài học kinh
nghiệm về hoạt động của Đường Hị Chí Minh trên biển sẽ tiếp tục được nhân

lên gấp bội.
Đối với quân chủng Hải quan, bên cạnh vai trò là lực lượng nòng cốt bảo
vệ chủ quyền biển đảo thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, Hải quân nhân
dân Việt Nam đã phát huy những lợi thế của biển, đã kết hợp giữa an ninh
quốc phòng với phát triển kinh tế. Trong những năm qua, Quân chủng Hải
Quân là đơn vị đi đầu phát triển một số lĩnh vực của kinh tế biển, triệt để tận
dụng mọi khả năng (nhất là con người, cơ sở vật chất, phương tiện hiện có),
trong điều kiện cho phép, đẩy mạnh các hoạt động lao động sản xuất, kinh
doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề có thế mạnh, như: Dịch vụ cảng
biển, vận tải biển, xây các cơng trình biển.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào lịch sử, những bến tàu trên tuyến
đường này như bến tàu không số K15 Đồ Sơn ( Hải Phịng), bến tàu khơng số
Lộc An (Bà Rĩa-Vũng Tàu), bến tàu không số Vũng Rô ( Phú Yên ), bến Vàm
Lũng (Cà Mau) trở thành những khu di tích lịch sử thu hút nhiều du khách và
một số nơi đã được Bộ Văn hoá, thể thao và Du lịch cơng nhận là Di tích lịch


sử Quốc Gia. Tại Đồ Sơn ( Hải Phịng) có khu di tích cảng quân sự bí mật
K15 đánh dấu cột mốc Hải lý đầu tiên của đường Hồ Chí Minh trên biển, với
tượng đài “Bến tàu không số” ở thung lũng Xanh dưới chân đồi Nghinh
Phong. Tại Cà Mau, tượng đài chiến thắng Đường Hồ Chí Minh trên biển đã
được xây dựng tại Vàm Lũng, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển. Ngồi ra, khu
vực đài cịn có nhà trưng bày truyền thống lịch sử để du khách tìm hiểu về
con đường huyền thoại này.
III.

KẾT LUẬN:

Sự ra đời của đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với những chiến cơng của
lực lượng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một lần nữa

chứng minh về tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới
hiện nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta diễn
ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn và sâu
sắc, vừa thuận lợi, vừa có những thách thức mới. Xu thế tồn cầu hóa đang
tác động sâu sắc tới tồn thể nhân loại, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan
trước mỗi quốc gia. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực
Đơng Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều
nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng phức tạp.
Do đó, nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục làm nòng cốt cùng
với toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh
thổ, giữ vững mơi trường hồ bình ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và
quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực
lượng nòng cốt làm nên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước
đây cũng như hiện nay.
Đặc biệt giữa tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp ở nhiều
quốc gia trong khu vực và trên thế giới như hiện nay thì cần sự phối hợp mật
thiết giữa lực lượng Cảnh sát biển với Hải quân Việt Nam và các lực lượng
liên quan để chung tay kiểm soát và khống chế sự lây lan nhanh chóng của
dịch bệnh trong vùng biên giới lãnh thổ, đảm bảo an toàn xã hội và góp phần
đẩy lùi những tác động tiêu cực lên các hoạt động khác của đời sống xã hội.
Đồng thời rà soát nghiêm các trường hợp vi phạm đến việc mua bán trái phép
các đồ dùng trang thiết bị y tế không rõ nguồn gốc từ các quốc gia khác vào
Việt Nam.
IV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

/>Tổng kết công tác vận tải phục vụ chiến trường Trị Thiên và Nam Lào giai
đoạn từ 1965-1973, Tư liệu lưu Văn phòng Tổng cục Hậu cần.

Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng: Chống Mỹ phong tỏa vùng sơng biển Hải
Phịng, Nxb. Hải Phịng, 1988.


/>Kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển (Nhà xuất bản Hồng Đức)
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Đường Hồ Chí Minh - một sáng tạo chiến
lược của Đảng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Nxb. Quân đội nhân dân



×