Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Boi duong thuong xuyen tieu hoc 20172018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.75 KB, 23 trang )

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CÁ NHÂN
Năm học 2017 - 2018
Họ tên:
Ngày sinh:
Ngày vào ngành:
Trình độ chun mơn:
Chun ngành:
MODULE TH 15: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC Ở TIỂU HỌC
I. Mục tiêu:
- Hiểu được bản chất của phương pháp dạy học tích cực.
- Nắm được vai trị và nội dung cơ bản của một số phương pháp dạy học tích cực.
- Thực hiện được phương pháp dạy học tích cực trong một số bài giảng.
- Khẳng định sự cần thiết và có ý thức tự giác, sáng tạo áp dụng PP tích cực.
II. Nợi dung:
1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
a. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
b. Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. tính tích
cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ
đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo
nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm
mống của sáng tạo. Tính tích học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các
câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình
trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ;
chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào
vấn đề đang học; kiên trì hồn thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó


khăn…
c. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để
chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học.


"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động,
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người
học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ khơng phải là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp
tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trị, sự phối
hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành cơng.
d. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm cịn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy
học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người
học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trị của
học sinh trong qúa trình dạy học.
Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ
động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hồn thiện nhân cách, khơng ai
làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học,
khơng có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trị của người học thì đương nhiên
phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm
trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm
giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu,
nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan
đến phương pháp dạy và học.
2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.

a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy",
đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do
giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ
khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách này
thì giáo viên khơng chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương
trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương
trình hành động của cộng đồng.
b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không
chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học Trong các
phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được
phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, khơi dậy nội
lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều
tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường


độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi
công tác độc lập.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là mơi trường giao tiếp thầy - trị,
trị - trị, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung
học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ,
khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Trong nhà
trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. . Học
tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn,
lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.

Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ khơng thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của
mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương
trợ.
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh khơng chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực,
giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách
học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham
gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất
cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thơng minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên khơng cịn đóng vai trị
đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học
tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. .
Giáo viên phải có trình độ chun mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có
thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự
kiến của giáo viên.
3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học
a). Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì
phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực
đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt
ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, khơng chỉ có ý nghĩa ở tầm phương
pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề

thường như sau


* Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
- Tạo tình huống có vấn đề;
- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
- Phát hiện vấn đề cần giải quyết
* Giải quyết vấn đề đặt ra
- Đề xuất cách giải quyết;
- Lập kế hoạch giải quyết;
- Thực hiện kế hoạch giải quyết.
* Kết luận:
- Thảo luận kết quả và đánh giá;
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
- Phát biểu kết luận;
- Đề xuất vấn đề mới.
* Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. . Giáo
viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thơng tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện
và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực
hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc
cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng,
hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
b) Phương pháp hoạt động nhóm:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu

của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn
định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những
nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân cơng mỗi người một
phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, khơng thể ỷ lại
vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau
tìm hiêu vấn đề nêu ra trong khơng khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của
mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm
việc của nhóm trước tồn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành
viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
* Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành:


- Làm việc chung cả lớp:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm
- Làm việc theo nhóm:
- Phân cơng trong nhóm
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm
- Cử đại diện hoặc phân cơng trình bày kết quả làm việc theo nhóm
- Tổng kết trước lớp:
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả
- Thảo luận chung
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra
những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu
ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành q trình học hỏi lẫn nhau chứ
khơng phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.

Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy
phương pháp này cịn gọi là phương pháp cùng tham gia.
c. Phương pháp vấn đáp
* Vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời,
hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội
được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các
loại phương pháp vấn đáp:
* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Vấn đáp tái hiện khơng được xem là
phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa
các kiến thức vừa mới học.
* Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện
nghe - nhìn.
* Vấn đáp tìm tịi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để
hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng
đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể
cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trị với trị, nhằm giải quyết một vấn đề
xác định.
d. Phương pháp đóng vai


Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào
đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong mơi
trường an tồn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.

- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
*Cách

tiến hành có thể như sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời
gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy?
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử?
- Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù
hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
- Những

điều cần lưu ý khi sử dụng:
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
e. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề
cho buổi thảo luận.
*Cách tiến hành :
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.

- Phân loại ý kiến. - Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.


MODULE 24: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Ở TIỂU HỌC
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Kiểm tra
Là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin
về biểu hiện kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ
kiện làm cơ sở cho việc đánh giá.
1.1. Kiểm tra định tính
Là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập và rèn luyện của học sinh
bằng cách quan sát và ghi nhận xét dựa theo các tiêu chí giáo dục đã định.
1.2. Kiểm tra định lượng
Là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh bằng số như điểm
số hoặc số lần thực hiện của những hoạt động nào đó.
Cách và phương tiện ghi nhận kết quả học tập của học sinh bằng điểm hay số lần
thực hiện theo những quy tắc đã tính trong kiểm tra là mang tính chất định lượng. Điểm số
vẫn chỉ là những kí hiệu gián tiếp phản ánh trình độ học lực của mỗi học sinh mang ý
nghĩa định tính. Bản thân điểm số khơng có ý nghĩa về mặt định lượng. Ví dụ: Khơng thể
nói trình độ của học sinh đạt điểm 8 là cao gấp đôi học sinh đạt điểm 4 (thang điểm 10).
2. Đánh giá kết quả học tập
Là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc
phán đốn về trình độ và phẩm chất của người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc
dạy học dựa trên cơ sở những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá
trình kiểm tra.
Đánh giá kết quả học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học lực và hạnh kiểm
thơng qua q trình học tập các mơn học cũng như các hoạt động khác trong phạm vi của
nhà trường.
3. Đo lường
Chỉ việc ghi nhận và mô tả kết quả làm bài kiểm tra của mỗi học sinh bằng một số

đo, dựa trên những quy tắc đã định.
4. Lượng giá
Là đưa ra những thơng tin ước lượng trình độ kiến thức, kĩ năng của người học bằng
cách dựa vào các số đo đã có.
- Lượng giá theo chuẩn: So sánh tương đối kết quả đo lường được với chuẩn chung của
một tập hợp học sinh.
- Lượng giá theo tiêu chí: Là đối chiếu kết quả đo lường được với những tiêu chí đã đề ra.
5. Trắc nghiệm
Là cơng cụ hoặc quy trình có tính hệ thống được dùng để đo lường các hành vi học
tập (ví dụ như tóm ý, giải thích, tính tốn)
II. Chức năng của đánh giá kết quả học tập ở tiểu học
1. Chức năng quản lí
Thể hiện qua hai phương diện đó là: (1) Xếp loại hoặc tuyển chọn người học; (2)
duy trì và phát triển chuẩn chất lượng.
2. Chức năng kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy và học


Đối với giáo viên và nhà trường, đánh giá nhằm kiểm sốt các hoạt động ngay trong
q trình dạy và học, sau đó ra quyết định điều chỉnh, cải tiến dạy học là cơ chế đảm bảo
cho việc phát triển chất lượng dạy học.
Đối với học sinh, thông tin kiểm tra đánh giá nhận được (điểm số, nhận xét) từ giáo
viên và tự đánh giá của bản thân giúp người học kiểm sốt, điều chỉnh việc học của mình.
3. Chức năng giáo dục và phát triển người học
Động viên: Quá trình đánh giá kết quả học tập được thực hiện một cách hiệu quả sẽ
có tác dụng phát triển động cơ học tập (lòng mong muốn học tập cho sự phát triển của bản
thân) cho học sinh.
=> Hoạt động kiểm tra phải thực hiện thường xuyên và thông tin làm căn cứ cho đánh giá
phải đa dạng, cụ thể và khách quan.
Đánh giá góp phần phát triển tồn diện để chuẩn bị cho người học vào đời: Muốn
việc đánh giá có thể góp phần phát triển tồn diện cho người học cần phải thực hiện một

cách hệ thống và nhất quán những vấn đề sau:
=> Đánh giá phải xác định được khối lượng học tập hợp lí cho học sinh để khơng đẩy các
em vào thế học thuộc lịng, học đối phó, học chỉ để có điểm, chỉ để biết chứ không để hiểu
và áp dụng.
=> Kết quả học tập cần được đánh giá một cách hiệu quả, đáng tin cậy để có tác dụng
hướng dẫn và khuyến khích các phương pháp học tập tích cực, ủng hộ các thói quen học
tập có giá trị.
=> Phương pháp, cơng cụ kiểm tra đánh giá cần đa dạng (trắc nghiệm, tự luận, học nhóm,
trị chơi, bài tập giải quyết vấn đề, làm đề án...) để kích thích người học tự bổ sung, phát
triển những kiến thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống cũng như cho nghề nghiệp về sau.
Ngoài các kĩ năng học tập, đánh giá cũng góp phần phát triển cho người học những kĩ
năng và phẩm chất xã hội như: kĩ năng giao tiếp, làm việc hợp tác, ý thức cộng đồng, lòng
tự trọng...Đây là những nhân tố quan trọng đối với con người trong xã hội hiện nay, giúp
cho học sinh biết cách sống, cách làm việc với những người xung quanh.
III. Ý nghĩa của đánh giá kết quả học tập ở tiểu học.
1. Đối với học sinh
Việc kiểm tra và đánh giá được tiến hành thường xuyên, có hệ thống sẽ giúp học
sinh:
Có hiểu biết kịp thời những thông tin "liên hệ ngược" bên trong. Điều chỉnh hoạt động học
tập của chính mình. Điều trình bày trên được thể hiện ở ba mặt sau:
- Về mặt giáo dưỡng
Việc kiểm tra, đánh giá giúp các em học sinh thấy được:

Tiếp thu bài học ở mức độ nào?

Cần phải bổ khuyết những gì?

Có cơ hội nắm chắc những u cầu của từng phần trong chương trình học tập.
- Về mặt phát triển
Thông qua việc kiểm tra, đánh giá, học sinh có điều kiện để tiến hành các hoạt động trí tuệ

như:

Ghi nhớ

Tái hiện

Chính xác hóa


Khái qt hóa

Hệ thống hóa

Hồn thiện những kĩ năng, kĩ xão vận dụng tri thức đã học

Phát triển năng lực chú ý

Phát triển năng lực tư duy sáng tạo.
Như vậy, nếu việc kiểm tra và đánh giá được tiến hành tốt nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh phát triển năng lực tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học giải
quyết những tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục
Kiểm tra, đánh giá nếu được tổ chức tốt sẽ mang ý nghĩa giáo dục đáng kể. Việc
kiểm tra, đánh giá tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh:
Hình thành nhu cầu, thói quen tự kiểm tra, đánh giá, nâng cao tinh thần trách nhiệm
trong học tập và ý chí vươn tới những kết quả học tập ngày càng cao, đề phòng và khắc
phục tư tưởng sai trái như "trung bình chủ nghĩa", tư tưởng đối phó với thi cử; nâng cao ý
thức kỷ luật tự giác, khơng có thái độ và hành động sai trái với thi cử. Củng cố được tính
kiên định, lịng tự tin vào sức lực khả năng của mình, đề phịng và khắc phục được tính ỷ
lại, tính tự kiêu, tự mãn, chủ quan; phát huy được tính độc lập sáng tạo, tránh được chủ

nghĩa hình thức, máy móc trong kiểm tra.
Nâng cao ý thức tập thể, tạo được dư luận lành mạnh, đấu tranh với những tư tưởng
sai trái trong kiểm tra, đánh giá, tăng cường được mối quan hệ thầy trị...
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định: Việc kiểm tra, đánh giá học sinh có các tác
dụng đối với học sinh như sau:
Giúp học sinh phát hiện và điều chỉnh thực trạng hoạt động học tập.
Củng cố và phát triển trí tuệ cho các em. Giáo dục cho học sinh một số phẩm chất
đạo đức nhất định.
2. Đối với giáo viên
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ giúp cho người giáo viên những "thơng tin
ngược ngồi", từ đó có sự điều chỉnh hoạt động dạy cho phù hợp. Cụ thể như sau:
- Kiểm tra, đánh giá, kết hợp theo dõi thường xuyên các em tạo điều kiện cho người
giáo viên:
Nắm được cụ thể và tương đối chính xác trình độ năng lực của từng học sinh trong
lớp do mình giảng dạy hoặc giáo dục, từ đó có những biện pháp giúp đỡ thích hợp, trước
là đối với học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém, qua đó mà năng cao chất lượng học tập
chung của cả lớp.
- Kiểm tra, đánh giá được tiến hành tốt sẽ giúp giáo viên nắm được:
Trình độ chung của cả lớp hoặc khối lớp Những học sinh có tiến bộ rõ rệt hoặc sa
sút đột ngột. Qua đó, động viên hoặc giúp đỡ kịp thời các em này.
- Kiểm tra, đánh giá tạo cơ hội cho thầy giáo xem xét có hiệu quả những việc làm
sau:
Cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà người giáo viên đang
tiến hành. Hồn thiện việc dạy học của mình bằng con đường nghiên cứu khoa học giáo
dục.
3. Đối với cán bộ quản lý giáo dục



Kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ cung cấp cho cán bộ quản lý giáo dục các cấp những

thông tin cần thiết về thực trạng dạy- học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo
kịp thời, uốn nắn những sai lệch nếu có; khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến hay đảm
bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Qua phần trình bày trên, có thể khẳng định: Kiểm tra,
đánh giá học sinh có ý nghĩa về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất vẫn là đối với chính
bản thân từng em học sinh.


MODULE 22: SỬ DỤNG PHẦN MỀM GIÁO DỤC ĐỂ DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
I.Vai trò của phần mềm giáo dục trong giáo dục tiểu học
Phần mềm dạy học là một phương tiện dạy học quan trọng, ở cấp độ cao hơn so với
các phương tiện dạy học trực quan khác, tạo điều kiện để thực hiện những đổi mới căn bản
về nội dung, phương pháp dạy học nhằm hình thành ở học sinh các năng lực làm việc, học
tập và thích ứng được với mơi trường xã hội hiện đại.
Trong thời đại xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, việc dạy học
không chỉ hạn chế trong các giờ học tại nhà trường mà có thể học tập dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của GV hoặc tự học tập tại nhà qua hệ thống Internet.
Việc sử dụng các Phần mềm dạy học không chỉ giúp GV thực hiện tốt hơn chương
trình đại trà mà cịn cho phép thực thi cách thức dạy học mới có khả năng đáp ứng yêu cầu
tự tìm kiếm kiến thức, rèn luyện kĩ năng của bất kì người học nào, vào bất cứ lúc nào, theo
nội dung tuỳ chọn ở mức độ phù hợp với khả năng, ý muốn phù hợp với khả năng và điều
kiện của từng cá nhân.
Phần mềm dạy học có thể hiển thị thơng tin dưới dạng văn bản, ký hiệu, đồ thị, bản
đồ, hình vẽ, ảnh chụp, phim đèn chiếu, phim hoạt hình, đoạn phim,.... Với các hình thức
hoạt động đơn giản như bấm phím, di chuyển và kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh
theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú khi thấy yêu cầu của mình đề ra được thực hiện liền
ngay tức thời, điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự
học. Những hình ảnh đẹp, rõ ràng, nhiều màu sắc sinh động, kèm theo các đoạn văn bản,
giọng nói nhạc đệm... tác động đồng thời hoặc kế tiếp nhau lên các giác quan giúp cho HS
tự thao tác tay làm, mắt thấy, tai nghe, trí óc suy nghĩ... trong khi học và luyện tập, nhờ đó
dễ dàng hiểu rõ, nắm vững kiến thức và đạt được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. Phần mềm

dạy học cũng cho phép giáo viên lựa chọn các tài liệu trực quan cần cho từng phần của bài
học và sử dụng chúng rất thuận tiện trong giảng dạy.
Với những Phần mềm dạy học "mở" GV có thể tự mình xây dựng, thiết kế những
bài giảng, bài tập... để làm tư liệu giảng dạy. Các tài liệu trong PM có thể sao chép ra đĩa
mềm hay in ra giấy một cách dễ dàng, ít tốn kém, tiết kiệm được nhiều thời gian và công
sức chuẩn bị để tạo điều kiện cần thiết cho các hoạt động tự học của HS.
Phần mềm dạy học có thể giúp HS tự tìm kiếm tri thức mới, tự ơn tập, luyện tập theo nội
dung tuỳ chọn, theo các mức độ nông sâu, tuỳ thuộc vào năng lực của bản thân.
Như vậy, việc sử dụng Phần mềm dạy học làm phương tiện dạy học các môn học,
giúp cho việc học tập của HS như là một công cụ hỗ trợ cho việc dạy và học nhằm góp
phần rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giao tiếp, độc lập giải quyết các vấn đề,
kỹ năng tìm kiếm và xử lý thơng tin nhằm góp phần củng cố tư tưởng học suốt đời cho tất
cả mọi người. Phát triển rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong nhiều môn học, mọi trường
học, mọi cấp học và mọi ngành học thông qua các loại Phần mềm dạy học khác nhau
(Phần mềm dạy học, tự học, PM kiểm tra đánh giá...) dẫn đến việc xây dựng nội dung và


phương pháp đào tạo thích hợp, phát triển việc kiểm tra đánh giá trong một môi trường
giàu thông tin.
II. Các u cầu sư phạm về các mặt: Hình thức, nợi dung, phương pháp của một
phần mềm dạy học ở tiểu học:
Nhu cầu sử dụng các phần mềm dạy học trong trường tiểu học ngày càng lớn, hiện
nay có nhiều phần mềm dạy học nhưng điểm lại, ta thấy giáo viên và các bậc phụ huynh
không quan tâm sử dụng chúng để giúp trẻ em học. Điều đó chứng tỏ các phần mềm trên
phần nào chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sư phạm mặc dầu kỹ thuật để thể hiện khá cao.
Các yêu cầu sư phạm đối với phần mềm dạy học bậc tiểu học:
1. Phần mềm dạy học phải phù hợp với chương trình và sách giáo khoa bậc tiểu học.
Một phần mềm dạy học tốt phải gắn với chương trình cụ thể, chương trình được quy
định bởi hội đồng giáo dục quốc gia.
Để được sử dụng thường xuyên và có hiệu quả, cần có đủ phần mềm ứng với tất cả

các lớp học, ứng dụng với chương, mục tri thức có trong chương trình. Hệ phần mềm có
cấu trúc tương ứng với cấu trúc của chương trình tiểu học.
Đảm bảo các yêu cầu tương từng chương mục như trọng tâm, mức độ lý thuyết,
mức độ rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
Đảm bảo hình thức trình bày tương ứng với việc trình bày trong SGK và sách hướng
dẫn giáo viên hiẹen có. Các đối tượng hiện trên màn hình khơng q khác biệt với các đối
tượng trình bày trên SGK, mà chỉ nên có tác dụng bổ sung, làm đa dạng hố các kiến thức
trong chương trình.
2. Đảm bảo phù hợp đặc điểm lứa tuổi học sinh trong từng độ tuổi.
Với học sinh tiểu học, cần xây dựng các trị chơi, thơng qua các trị chơi mà hình
thành kiến thức mới hoặc rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thích hợp. Việc sáng tạo các trị chơi
địi hỏi cơng phu, tuy vậy nó góp phần tạo ra một hệ phần mềm hấp dẫn và có ích với học
sinh tiểu học. Các trị chơi có thể gắn bó với nhau bằng những nhân vật nào đó, nội dung
trị chơi có kèm những điều kiện mà khi thảo mãn điều kiện đó trẻ phải có tri thức hoặc kỹ
năng cần thiết nào đó. Tận dụng các khả năng thể hiện hình ảnh, mầu sắc và âm nhạc để
ngây húng thú cho trẻ.
Do khả năng phân tích vầ tập trung chú ý của trẻ có hạn nên cần trình bày màn hình
gọn, tập trung vào các thông tin trọng tâm. Không nên có nhiều thơng báo trong một thời
điểm trên màn hình (chỉ nên 1 đến 2 thơng báo chính).
Một thơng tin khơng được kéo dài ra hai trang màn hình.
Các u cầu cần hỏi phải rõ ràng.
3. Về tổ chức giao diện
Để học sinh và (cả giáo viên) có thể hiểu và sử dụng dễ dàng, cần tạo giao diện thân
thiện với trẻ, với lớp trẻ 1, 2 thì sử dụng chủ yếu là các hình tượng, với lớp 3, lớp 4, lớp 5
có sử thêm các dịng menu thơng báo bằng chữ.
Có sự giúp đỡ cách sử ndụng một cách thường xuyên. Các dòng hướng dẫn này cần
gắn gọn với cỡ chữ to và lên kèm theo hình ảnh mơ tả lại quá trình sử dụng như một mẫu.
Việc tạo ra các tiểu xảo kỹ thuật như nhấp nháy, chữ đậm, âm thanh phải sử dụng
đúng chỗ: tập trung chú ý vào thông tin định truyền đạt cho trẻ.
4. Phần mềm phải phù hợp đặc điểm lao động dạy của người thầy và lao động học tập

của học sinh.


Một đặc điểm của giáo viên tiểu học là không thích các cơng việc q phức tạp, phải
đầu tư nhiều công sức cho mỗi bài học trên lớp. Như vậy phần mềm dạy học không đựoc
quá cồng kềnh, mà phải được tổ chức theo các đơn vị môđun gọn, tương đối độc lập, mỗi
môđun tương ứng với một đơn vị kiến thức trong chương trình và có đầy đủ các hướng
dẫn trợ giúp dễ hiểu trong đó. Mơđun này bao gồm từ việc ôn luyện kiến thức mới đến các
bài tập rèn luyện kỹ năng và cách đánh giá đã được sắp xếp sẵn theo một trình tự nhất
định. Việc lựa chọn các đơn vị cụ thể đó phải thật dễ dàng, không tốn thời gian.
Phần mềm cho phép người sử dụng được quay lại hoặc tiến lên phía trước hoặc bỏ
qua một bài tập, thốt khỏi chương trình vào thời điểm bất kỳ.
Chẳng hạn khi lớp học đến phần “Đo khối lượng và hệ đơn vị đo khối lượng” mơn
tốn thì có sẵn một hệ bài tập mẫu để cho học sinh làm bài tập theo trình tự và cách dữ liệu
đã chọn. Phụ huynh và giáo viên có thể chọn luôn hệ bài tập mẫu này mà không phải gia
cơng gì thêm.
Tuy vậy phầm mềm khơng chỉ đóng kín cứng nhắc, nó có thể cho phép giáo viên và
phụ huynh học sinh sáng tạo hệ bài tập mang dấu ấn cá nhân, sáng tạo ra các đối tượng
mới với các số liệu mới để ra bài tập cho học sinh, có điều kiện phát triển, đa dạng hố
phần mềm bằng những sản phẩm của riêng mình.
5. Liên kết với các phần mềm dạy học các môn khác nhau tạo ra bài học
Đặc điểm của tiểu học là trong một thời gian gắn có thể học được nhiều mơn học
chứ khơng học riêng một mơn. Chính vì vậy phần mềm dạy học phải có khả năng kết hợp
với các phần mềm học ;các mơn khác nhau như tốn, tiêng Việt, ngoại ngữ , khoa học tự
nhiên và xã hội, lịch sử, địa lý, nhạc... Thày hoặc phụ huynh học sinh có thể lựa chọn theo
menu và phần mềm sẽ tự sắp xếp các đơn vị kiến thức đó theo thứ tự đã chọn. Khi vào
máy học sinh sẽ phải làm tất cả các bài tập do phụ huynh hoặc thày giáo quy định. Kết quả
và đánh giá chi tiết sẽ được lưu lại.
6. Định hướng phát huy tích cực của học sinh.
Để học sinh phát huy được vai trò chủ thể, là người sáng tạo trong quá trình học tập.

Phần mềm dạy học phải thiết kế được vi thế giới, học sinh tác động lên các đối tượng và
thông qua đó thu nhận được tri thức tốn cần thiết.
Phần mềm, với các chỉ dẫn có tính sư phạm của mình sẽ tạo điều kiện phát triển trí
tuệ học sinh liên tục. Muốn vậy, phải tạo ra tình huống có vấn đề, học sinh muốn giải
quyết được nó phải có những quyết định sáng tạo. Học sinh pải cảm giác được rằng mình
là người điều khiển máy tính: lựa chọn các câu hỏi, tìm kiếm thơng tin chỉ dẫn, tìm tòi và
khám phá các đối tượng, làm chủ tiến độ làm việc với máy.
Để tạo ra sự phát triển phù hợp với mỗi học sinh, phải có mức độ, yêu cầu khác
nhau ứng với nhiều loại trình độ của trẻ em, nhờ có các phần mềm dạy học, nguyên tắc
phân hố trong giáo dục mới hồn tồn triệt để.
Phải có phương án phân tích các kiểu trả lời của trẻ, cho phép trẻ có thể sửa bài giải
của mình, thơng báo kịp thời các lỗi cho trẻ và có lời giải mẫu.
7. Tính tới các hình thức dạy học phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học
khác.
Quá trình sử dụng phần mềm dạy học diễn ra trong bối cảnh dạy và học trên lớp và
ở nhà. Cần xem xét các khả năng sử dụng phần mềm với các hình thức dạy học đồng loạt


trên lớp, hình thức dạy học theo nhóm, hình thức dạy học theo cấp và hình thức học tập cá
nhân.
ở trên lớp cần chú trọng các hình thức hoạt động theo nhóm, làm việc theo cấp và cá nhân.
ở nhà cần quan tâm tới làm bài tập cá nhân.
Khi xây dựng phần mềm dạy học phải xem xét tới việc sử dụng các phương tiện dạy học
khác trong mơí quan hệ thống nhất như video, catset,phim nhựa ... Có như vậy, máy tính
mới trở thành một yếu tố máu thịt trong q trình dạy và học.
8. Về ngơn ngữ dùng trong giao tiếp.
Ngôn ngữ sử dụng phải là tiếng mẹ đẻ, có như vậy các phần mềm mới có cơ hội để
các nhà trường và phụ huynh học sinh chấp nhận sử dụng rộng rãi.
9. Yêu cầu về đánh giá
Phần mềm phải đảm bảo đánh giá theo quá trình, phải đánh giá được tức thời các sai

lầm để có các phương thức điều chỉnh hành động của học sinh.
Các đánh giá cần chi tiết hơn là đánh giá trong một bài kiểm tra viết thông thường:
không chỉ cho điểm hoặc xác định đúng sai mà cần phân tích những chỗ còn yếu trong
kiến thức và kĩ năng của học sinh.
Cần lưu giữ được các kết quả đánh giá này trong suốt quá trình các năm học ở nhà
trường tiểu học. Trong trường hợp hàng năm thay đổi thày dạy, người thày năm học sau có
thể dựa vào đánh giá qua phần mềm ở các năm học trước mà có một phương án giúp đỡ
học sinh một cách phù hợp và có hiệu quả nhất.
III. Thực hành mợt số phần mềm dạy học ở tiểu học
1.Thiết kế phần mềm dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học
Phần mềm dạy học thuộc lớp các phần mềm ứng dụng, là phần mềm được sử dụng hỗ
trợ cho quá trình dạy học. [1]
a.Phần mềm dạy học dùng cho môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học được chúng tôi
thiết kế dựa trên 6 nguyên tắc chính sau đây:
- Quán triệt mục đích dạy học theo chương trình hiện hành
Ví dụ chúng tôi xây dựng phần mềm dạy học chủ đề Con người và Sức khỏe đáp
ứng mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ của chủ đề này theo chương trình của Bộ
giáo dục và Đào tạo ban hành cho môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học. Từ việc qn triệt
mục đích dạy học, chúng tơi xác định được nội dung dạy học, phương pháp dạy học phù
hợp cho từng bài học thể hiện cụ thể ở kịch bản giáo án có trong phần mềm dạy học.
Ngồi ra, chúng tơi chú ý việc phát triển kĩ năng quan sát, nhận xét, đặt câu hỏi, diễn đạt
những hiểu biết của mình cho học sinh. Phần mềm phải hỗ trợ trong việc tạo ra các tình
huống, thiết kế được mơi trường sao cho học sinh có thể tác động lên đối tượng và cùng
với những chỉ dẫn sư phạm để giúp học sinh lĩnh hội các kiến thức về chủ đề này.
- Đảm bảo chính xác nội dung dạy học
Nội dung phần mềm dạy học được thiết kế tương ứng với cấu trúc của chương trình
và sách giáo khoa của mơn Tự nhiên và Xã hội. Hình thức trình bày tương thích với nội
dung của sách giáo khoa, ngồi ra có tác dụng bổ sung, làm đa dạng hố các kiến thức của
chủ đề. Kiến thức có thể được soạn thảo dưới dạng các mơ-đun, có các mức kiến thức phù
hợp với những trình độ khác nhau và giáo viên có thể linh động tổ chức các hoạt động

nhận thức, cắt hoặc thay thế các tình huống một cách hợp lí. Kể cả thiết kế ý tưởng cho
việc xử lí tình huống khi mất điện mà vẫn đảm bảo được mục tiêu của bài học.


- Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi
Lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi “học mà chơi, chơi mà học”. Phần mềm dạy học phải tạo
được hứng thú học tập của học sinh thơng qua những hình ảnh đẹp, những bài hát, chuyện
kể, trò chơi nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Những hình ảnh, đoạn phim hay bố cục của
một trang trình chiếu phải làm thầy và trị thích thú khi học tập. Phần mềm dạy học cho
phép thiết kế nhiều hình ảnh mơ phỏng, trình chiếu nhưng phải đảm bảo nguyên tắc trực
quan. Màu sắc của nền hình tuân thủ nguyên tắc tương phản. Hình ảnh, đoạn phim phải rõ,
đẹp, có độ phân giải tốt. Âm thanh không bị lẫn tạp âm. Cỡ chữ khi chiếu trên màn hình
tivi (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
khoảng 30-50 người xem thì cỡ chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên.
-Phát huy tốt các giác quan của người học
Phần mềm dạy học có khả năng tích hợp đa phương tiện (văn bản, âm thanh, hình
ảnh, hoạt hình,...) nên cần phải tận dụng những ưu điểm này để phát huy tối đa các giác
quan của học sinh trong quá trình học tập như sử dụng mắt để quan sát các hình ảnh, đoạn
phim. Sử dụng tai để lắng nghe một đoạn nhạc. Sử dụng tay để điều khiển bàn phím hay
con chuột của máy tính; Hoặc sử dụng phối hợp nhiều giác quan.
- Hiệu quả trong việc tạo vật đại diện, vật thay thế cho đối tượng nhận thức
Trong môn Tự nhiên và Xã hội, vật thật (cơ thể người, động vật, thực vật,..) là đối
tượng của hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh có thể quan sát cá nhân hoặc theo
nhóm và thảo luận để trả lời câu hỏi mà giáo viên nêu ra. Khi xây dựng phần mềm, chúng
tơi chú ý đến hình ảnh sử dụng là vật đại diện, vật thay thế cho cho đối tượng hoạt động
nhận thức mà học sinh không thể tiếp xúc trực tiếp với chúng được. Nghĩa là để tìm hiểu
một sự vật, một hiện tượng hay một quá trình, học sinh lại nhận thức một vật khác, vật
thay thế nó, và qua vật thay thế này học sinh nắm được chính đối tượng cần phải lĩnh hội.
Ví dụ trong bài Hoạt động tiêu hóa thuộc chủ đề Con người và sức khỏe ở lớp 2, học sinh
không thể quan sát hoạt động tiêu hóa thức ăn diễn ra trong cơ quan tiêu hóa của con

người. Thơng qua hình ảnh động được mô phỏng bằng phần mềm Macromedia Plash MX
về q trình tiêu hóa thức ăn trong cơ thể người, học sinh có thể hiểu được kiến thức mà
bài học yêu cầu, ví dụ ở miệng, thức ăn được răng nghiền nhỏ, lưỡi nhào trộn và nước bọt
tẩm ướt. Ở dạ dày, thức ăn được tiếp tục nhào trộn, một phần thức ăn biến đổi thành chất
bổ dưỡng...
- Thuận tiện khi tương tác giữa người và máy
Phần mềm dạy học được thiết kế phải phát huy tối đa khả năng tương tác giữa học
sinh với các thành tố liên quan như kết quả kiểm tra đánh giá, nội dung học tập, giáo viên
và bạn học. Những liên kết giữa các mục phải nhanh chóng, dễ tìm kiếm, sử dụng, chỉnh
sửa, bổ sung và sao chép đơn giản, dễ dàng cho người sử dụng. Ngoài ra, phần mềm phải
lựa chọn nội dung và cách trình bày sao cho giáo viên có thể tổ chức dạy học dưới nhiều
hình thức và phương pháp khác nhau. Sự tương tác thể hiện trong các bài tập trắc nghiệm
có đáp án
b.Hướng dẫn thiết kế trên Violet
Bước 1. Nghiên cứu mục tiêu dạy học của từng bài học, nội dung của cách bức tranh sách
giáo khoa, lựa chọn những bức tranh cần khai thác kiến thức và bổ sung câu hỏi gợi mở,
câu hỏi trắc nghiệm củng cố cho mỗi hoạt động.


Bước 2. Scan hình ảnh sách giáo khoa, tìm kiếm hình ảnh trên internet, chuyển hình ảnh
vào máy vi tính
Bước 3. Thiết kế nội dung trình bày trên Violet
-Các chủ đề là tên cơ quan, còn các mục là những nội dung liên quan đến các bài học trong
chương trình.
-Trong sách giáo khoa là các hình tĩnh, chúng ta cũng sử dụng những hình đó để dạy học
kiến thức cho học sinh.
-Bổ sung các hình ảnh động. có thể tạo Video cho các hình ảnh bằng 2 cách:
Cách 1: làm trên phần mềm Flash, có hình ảnh, chữ và âm thanh
Cách 2: làm trên phần mềm Powerpoint có hiệu ứng thời gian xuất hiện các hình
ảnh, chữ và âm nhạc. Sau đó sử dụng phần mềm chuyển power sang flash.

Với những giáo viên chưa “rành” về Flash thì nên làm theo cách 2, đơn giản và nhanh
chóng hơn
- Nhập Video vào mục phù hợp
b. Cách sử dụng phần mềm trong dạy học
T
Sản phẩm,
Giai đoạn
Hoạt động dạy
Hoạt động học
T
Tri thức
Định hướng Hướng dẫn bằng lời
hoạt động
hoặc bằng kênh hình - Tiếp thu
1
hay kênh chữ.
Tổ chức dạy học cá
- Tiến hành độc
Lời giải
Tự học
nhân bằng phiếu học
lập
của cá nhân
2
tập, câu hỏi,…
- Thảo luận nhóm
Điều khiển, trọng tài,
- Đóng vai
Lời giải của tập
Học với bạn

cố vấn.
- Chơi trị chơi
thể. (nhóm, tổ, lớp)
3
- Thực hành
- Tự kiểm tra,
Phân tích,
- Trình bày quan
Học với
Kiến thức
Tổng hợp,
điểm
giáo viên
bài học
Kết luận.
- Tự điều chỉnh,
4
Giải đáp thắc mắc
Kiểm tra,
- Hoạt động sáng
Vận dụng
Đánh giá
Kỹ năng sống
tạo
5
Liên hệ thực tế
c. Kết luận
Việc sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần mềm dạy học chủ đề Con người và
Sức khỏe trong môn Tự nhiên và Xã hội tạo môi trường tương tác hiệu quả giữa học sinh
và các thành tố liên quan. Hệ thống tri thức về Tự nhiên và Xã hội cần cung cấp cho người

học là vô tận. Do hạn chế về thời lượng, người dạy không thể truyền đạt hết kiến thức cho
học sinh trong khi lên lớp; vì vậy, hãy cho các em có nhiều cơ hội tiếp cận với máy vi tính,
các phần mềm dạy học để học sinh được làm quen với công nghệ dạy học, với mạng thơng
tin rộng lớn bên ngồi lớp học, qua đó, trẻ em có thêm một “kênh” quan trọng để khám


phá và lĩnh hội kho tàng tri thức hữu ích của nhân loại và thế giới khách quan. Điều này
theo chúng tơi là một nhân tố tích cực để cải thiện, nâng cao chất lượng dạy học tiểu học
hiện nay.


MODULE 17: SỬ DỤNG THIẾT BỊ DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí, vai trị của cơng tác thiết bị dạy học trong nhà trường tiểu học
Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay các quốc gia
trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo với nhiều
mơ hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mơ, nâng cao tính tích cực trong dạy học
và học một cách toàn diện, dạy làm sao để giúp người học hướng tới việc học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ
các thành tố liên quan, trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
Nói chung, trong q trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ công việc của giáo
viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện
thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong cơng tác
giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn,
tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với mơn học. Do đặc điểm của quá trình nhận
thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác:
nghe-thấy-làm được (những gì nghe được khơng bằng những gì nhìn thấy và những gì
nhìn thấy thì khơng bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa những phương tiện vào q
trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ
đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ
xảo của các em.

Tính chất của phương tiện dạy học biểu thị nội dung thơng tin học, hình thức thông tin và
phương pháp cho thông tin chứa đựng trong phương tiện và phải dưới sự tác động của giáo
viên hoặc học sinh tính chất đó mới đựơc bộc lộ ra. Như vậy đã có mối liên hệ chặt chẽ
giữa tính chất và chức năng của phương tiện dạy học.
Phương tiện dạy học bao gồm các chức năng sau:
* Truyền thụ tri thức
* Hình thành kỹ năng
* Phát triển hứng thú học tập
* Tổ chức điều khiển quá trình dạy học.
Do đó, khi dạy các mơn học, đặc biệt là các môn học tự nhiên, cần chú ý đến hai vấn đề
chủ yếu sau:
* Học sinh tri giác trực tiếp các đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện dưới
dạng học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu ở trong các giờ học hay khi đi tham
quan.
* Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tri giác không phải bản thân đối tượng
nghiên cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ phản ảnh một bộ phận nào đó
của đối tượng.
Trên cơ sở phân tích trên ta thấy rằng phương tiện dạy học có ý nghĩa to lớn đối với q
trình dạy học
- Giúp học sinh dể hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.
* Phương tiện dạy học tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên cứu dạng bề ngồi của
đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
* Phương tiện dạy học giúp cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, đơn giản hóa những
máy móc và thiết bị quá phức tạp.


* Phương tiện dạy học giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập
bộ môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.
* Phương tiện dạy học còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả
năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ

tin cây,...), giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái
đơn giản, tính chính xác của thơng tin chứa trong phương tiện.
- Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp giáo viên điều
khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của
học sinh được thuận lợi và có hiệu suất cao.
Có rất nhiều loại phương tiện dạy học với các hình thức và chức năng khác nhau, trong đó
có: phương tiện tạo hình ảnh (bảng đen, bảng trắng, tranh ảnh, bảng biểu,...), những
phương tiện khuếch đại hình ảnh (máy chiếu), phương tiện thu/phát khuếch đại âm thanh
(máy quay, máy ghi âm,....)
Để đánh giá chất lượng của các loại phương tiện dạy học, ta thường dựa vào các chỉ tiêu
chính: tính khoa học sư phạm, tính nhân trắc học, tính thẩm mỹ, tính khoa học kỹ thuật và
tính kinh tế.
* Tính khoa học sư phạm
Tính khoa học sư phạm là một chỉ tiêu chính về chất lương phương tiện dạy học.
Chỉ tiêu này đặc trưng cho sự liên hệ giữa mục tiêu đào tạo và giáo dục, nội dung phương
pháp dạy học với cấu tạo và nội dung của phương tiện. Tính khoa học sư phạm thể hiện ở
chỗ:
- Phương tiện dạy học phải bảo đảm cho học sinh tiếp thu được kiến thức, kỹ năng
kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng với yêu cầu của chương trình học, giúp cho giáo viên
truyền đạt một cách thuận lợi các kiến thức phức tạp, kỹ xảo tay nghề... làm cho họ phát
triển khả năng nhận thức và tư duy logic.
- Nội dung và cấu tạo của phương tiện dạy học phải bảo đảm các đặc trưng của việc
dạy lý thuyết và thực hành cũng như các nguyên lý sư phạm cơ bản.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng
dạy, thúc đẩy khả năng tiếp thu năng động của học sinh.
- Các phương tiện dạy học hợp thành một bộ phải có mối liên hệ chặt chẽ về nội
dung, bố cục và hình thức, trong đó mỗi cái phải có vai trị và chỗ đứng riêng.
Phương tiện dạy học phải thúc đẩy việc sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại và các
hình thái tổ chức dạy học tiên tiến.
* Tính nhân trắc học

Thể hiện ở sự phù hợp của các phương tiện dạy học với tiêu chuẩn tâm sinh lý của giáo
viên và học sinh, gây được sự hứng thú cho học sinh và thích ứng với cơng việc sư phạm
của thầy và trị. Cụ thể là:
- Phương tiện dạy học dùng để biểu diễn trước học sinh phải được nhìn rõ ở khoảng
cách 8m. Các phương tiện dạy học dùng cho cá nhân học sinh không được chiếm nhiều
chỗ trên bàn học.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
- Màu sắc phải sáng sủa, hài hòa và giống với màu sắc của vật thật (nếu là mơ hình,
tranh vẽ).
- Bảo đảm các u cầu về độ an tồn và khơng gây độc hại cho thầy và trò.


* Tính thẩm mỹ
Các phương tiện dạy học phải phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức môi trường sư phạm:
- Phương tiện dạy học phải bảo đảm tỉ lệ cân xứng, hài hịa về đường nét và hình khối
giống như các cơng trình nghệ thuật.
- Phương tiện dạy học phải làm cho thầy trị thích thú khi sử dụng, kích thích tình u
nghề, làm cho học sinh nâng cao cảm thụ chân, thiện, mỹ.
* Tính khoa học kỹ thuật
Các phương tiện dạy học phải có cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển, chắc chắn, có khối
lượng và kích thước phù hợp, công nghệ chế tạo hợp lý và phải áp dụng những thành tựu
của khoa học kỹ thuật mới.
- Phương tiện dạy học phải được bảo đảm về tuổi thọ và độ vững chắc.
- Phương tiện dạy học phải được áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất nếu
có thể.
- Phương tiện dạy học phải có kết cấu thuận lợi cho việc chuyên chở và bảo quản.
* Tính kinh tế
Tính kinh tế là một chỉ tiêu quan trong khi lập luận chứng chế tạo mới hay đưa vào
sử dụng các thiết bị dạy học mẫu.
- Nội dung và đặc tính kết cấu của phương tiện dạy học phải được tính tốn để với

một số lượng ít, chi phí nhỏ vẫn bảo đảm hiệu quả cao nhất.
- Phương tiện dạy học phải có tuổi thọ cao và chi phí bảo quản thấp.
Hiệu quả dạy học chính là sự tăng chất lượng, khối lượng kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của
học sinh, phù hợp với yêu cầu của chương trình, ít tiêu hao sức lực của giáo viên và học
sinh. để phát huy hiệu quả các phương tiện dạy học cần phải đảm bảo các điều kiện trình
bày dưới đây:
- Mơi trường sư phạm của nhà trường. Môi trường sư phạm của nhà trường bao gồm cả
môi trường vật chất và tinh thần (nề nếp học tập, tinh thần làm việc, quan hệ thầy trò...).
ở đây chúng ta chỉ đề cập đến mơi trường vật chất, nói khác hơn, đó là cơ sở vật chất
của nhà trường bao gồm: không gian, ánh sáng, âm thanh, nhiệt độ, độ ẩm, sự lưu thơng
của khơng khí, hình thức và nội dung bố trí các đồ vật, nơi làm việc của học sinh và giáo
việc (lớp học, phòng thực hành, xưởng...)
- Bảo đảm các nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học có tác
dụng làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh thu
nhận được kiến thức về đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không sử dụng
phương tiện dạy học một cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện dạy học
không những không tăng lên mà cịn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn, căng thẳng...
Do đó các nhà sư phạm đã nêu lên các nguyên tắc đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường
độ. Như vậy, không phải bao giờ và bất cứ đâu phương tiện dạy học cũng có tác dụng
tích cực đến hoạt động nhận thức của học sinh. Nhiều khi, nếu được sử dụng không
đúng với những yêu cầu sư phạm cụ thể, phương tiện dạy học lại có tác dụng theo chiều
tiêu cực, làm cho học sinh hoang mang, hiệu quả tiếp thu kém... để phát huy hết hiệu
quả và nâng cao vai trò của phương tiện dạy học khi sử dụng phương tiện, người giáo
viên phải nắm vững ưu nhược điểm và các khả năng cũng như yêu cầu của phương tiện
để việc sử dụng phương tiện dạy học phải đạt đựơc mụch đích dạy học và phải góp phần
nâng cao hiệu quả của q trình dạy học.




×