Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn cho trẻ 5 6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn làm quen với toán. Tại trường mầm non Bình Minh, buôn tuôr A, xã Dray Sáp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.78 KB, 85 trang )

UBND HUYỆN ……..
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

MỤC LỤC

TÊN ĐỀ TÀI 1:
SKKN: Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5 6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn làm quen với tốn . Tại
trường mầm non Bình Minh, bn tr A, xã Đray Sap,huyện Krông
Ana, tỉnh Đăk Lăk
TÊN ĐỀ TÀI 2:
SKKN: Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh
TÊN ĐỀ TÀI 3:
SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên tự làm đồ dùng, đồ chơi từ
nguyên vật liệu sẵn có của địa phương, phục vụ cho cơng tác dạy và
học tại trường MN Bình Minh.
TÊN ĐỀ TÀI 4:
SKKN: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại trường Mầm
non Bình Minh

1

Băng ADrênh, tháng 03 năm 2018


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Trẻ em, những mầm non tương lai của đất nước, đất nước có giàu mạnh,
phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt
ngay từ khi trẻ còn ở độ tuổi mầm non. Người giáo viên mầm non là người trang
bị cho trẻ những kiến thức ban đầu thông qua các hoạt động và qua các môn học


như: Khám phá khoa học, làm quen với tạo hình, làm quen văn học, làm quen
chữ cái, giáo dục thể chất, giáo dục âm nhạc, làm quen với tốn. Thơng qua các
mơn học trẻ được học bằng chơi, chơi bằng trải nghiệm. Từ đó dần hình thành
lên nhân cách của trẻ và được tiếp cận với những kiến thức từ đơn giản đến phức
tạp, từ dễ đến khó. Thơng qua các mơn học giúp cho trẻ phát triển một cách toàn
diện về mọi mặt như : Đức, trí, thể, mỹ, lao động. Giúp trẻ có một hành trang
vững vàng, một tâm thế tự tin để bước vào lớp một.
Nhận thức về tốn học có liên quan mật thiết với q trình phát triển tồn
diện của trẻ, thơng qua tốn học sớm hình thành khả năng tìm tịi, quan sát,
khám phá, so sánh, phân tích, tổng hợp các sự vật hiện tượng khách quan. Trên
cơ sở đó bổ sung thêm vốn ngơn ngữ và góp phần tích cực vào việc phát triển trí
tuệ và thể chất cho trẻ.
Việc dạy cho trẻ nắm chắc các kiến thức trong hoạt động làm quen với
tốn, khơng những giúp học bộ mơn tốn sau này dễ dàng hơn mà cịn giúp cho
trẻ tiếp thu kiến thức của các môn học khác một cách nhanh nhạy và chính xác
hơn.
Để dạy trẻ nắm bắt kiến thức được một cách có hệ thống và chính xác, địi
hỏi người giáo viên phải có sự thay đổi mới trong phương pháp dạy theo hướng
tích cực “ Lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực của trẻ”. Trẻ tự mình
khám phá, nhận xét, phán đốn về những vấn đề có liên quan đến mơn học.
Tại các trường mầm non hiện nay, hoạt động làm quen với toán cho trẻ 56 tuổi mặc dù đã được chú trọng nhưng ở một số trường nằm ở vùng khó khăn,
2


đặc biệt là dạy con em đồng bào dân tộc thiểu số chưa đạt được kết quả cao.
Thực tiễn ở trường mầm non Bình Minh tơi đang cơng tác, hoạt động làm quen
với toán cho trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số. Một số hoạt động làm quen với
toán còn rất tẻ nhạt, giáo viên còn lúng túng trong việc vận dụng đồ dùng đồ
chơi trực quan để dạy cho trẻ, một số hoạt động trẻ chưa có hứng thú học tập.
Từ thực tế trên tôi thấy cần phải có một số biện pháp để giúp trẻ học tốt mơn

làm quen với tốn, nhằm nâng cao chất lượng mơn học, trẻ hứng thú, vận dụng
linh hoạt trong hình thức đổi mới một cách khoa học. Chính vì vậy tơi đã mạnh
dạn chọn đề tài “Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn
cho trẻ 5 -6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt mơn làm quen với tốn. Tại
trường mầm non Bình Minh, buôn tuôr A, xã Dray Sáp, huyện Krông Ana, tỉnh
Đăk Lăk”
2.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a.Mục tiêu của đề tài
Giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt: Thể chất, trí tuệ, ngơn ngữ, tình
cảm xã hội, thẩm mĩ, hình thành những biểu tượng tốn học sơ đẳng cho trẻ 5 -6
tuổi một cách chính xác, khoa học và bền vững, phát huy cao nhất được tính tích
cực của trẻ.
b. Nhiệm vụ của đề tài:
Nghiên cứu nhằm tìm ra một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen
với tốn và giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong cơng tác chăm
sóc giáo dục cho trẻ Mầm non ở độ tuổi 5- 6 tuổi, sau khi vận dụng đề tài sẽ góp
phần giúp trẻ học tốt mơn làm quen với tốn và đạt kết quả tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi người
dân tộc thiểu số học tốt môn làm quen với toán.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3


Trẻ 5 – 6 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường mầm non Bình Minh,
bn tr A, xã Đray sáp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu tâm lý học và gáo dục học để hiểu đặc điểm tâm lý trẻ.
b. Phương pháp thực nghiệm

Phương pháp quan sát
Phương pháp đàm thoại (trao đổi với gia đình trẻ)
c. Phương pháp thống kê giáo dục
II.PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Tốn học là một mơn khoa học cần có độ chính xác cao. Do trẻ ở tuổi
mầm non chưa có một biểu tượng khoa học nào. Nên nhiệm vụ của giáo viên là
phải hình thành cho trẻ các biểu tượng toán học, cung cấp những kỹ năng cơ bản
nhất để trẻ có thể vận dụng vào trong thực tế.
Ngay từ nhỏ trẻ đã được tiếp xúc với ông, bà, cha mẹ. ... Và các sự vật
hiện tượng đến nhận thức xung quanh. Tất cả những cái trẻ nhìn thấy đều ảnh
hưởng đến nhận thức của trẻ, dần dần trẻ có được những khái niện giản đơn nhất
về thế giới xung quanh có nhu cầu muốn tìn tịi, khám phá về tính chất, đặc điểm
của sự vật hiện tượng, tập hợp các số lượng, hình dạng, màu sắc, kích thước, vị
trí, sắp xếp của chúng trong khơng gian.
Nhưng trong thực tế chương trình tốn học trong trường mầm non hiện nay
chỉ cho phép dạy trẻ làm quen với một số khái niện về toán đơn giản, chưa dạy
trẻ học toán. Nếu như dạy trẻ học toán sớm sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của
trẻ. Vì vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để dạy trẻ những khái niệm về tốn
học mang tính chất trừu tượng nhưng phải phù hợp với khả năng nhận thức của
trẻ mầm non. Song khó khăn lớn nhất khi làm quen với một số khái niệm tốn
học đó là khả năng lĩnh hội tri thức của trẻ cịn non nớt. Do đó khơng thể cho trẻ
4


làm quen với khái niệm về tổ hợp, phép đếm, số lượng, hình dạng, kích thước,
định hướng khơng gian bằng các định nghĩa chính xác mà phải dựa trên tâm lý
của trẻ và khái niệm toán học sơ đẳng, để có phương pháp giảng dạy cụ thể, phù
hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ, biến những khái niệm toán học trừu tượng
thành những biểu tượng quen thuộc mà trẻ có thể lĩnh hội được một cách ấn

tượng và sâu sắc nhất, hình thành những kiến thức ban đầu về toán học sơ đẳng
cho trẻ.
2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1.Ưu điểm:
Năm học 2017 – 2018 được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường
tôi chủ nhiệm một lớp 5 -6 tuổi. Học theo chương trình mầm non mới với sĩ số
là 35 trẻ, độ tuổi đồng đều.
Ban giám hiệu nhà trường đã thường xuyên sắp xếp tạo điều kiện cho tôi
được tham dự các buổi tập huấn bồi dưỡng chuyên môn và đi dự giờ các đợt
chuyên đề về làm quen với toán cũng như chuyên đề của các mơn học khác do
cấp trên tổ chức.
Bản thân có trình độ chuẩn về chun mơn, nhiệt tình u nghề mến trẻ.
Có khả năng dạy trẻ tham gia vào các hoạt động làm quen với toán và biết định
hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động có hiệu quả, tạo môi trường hoạt động
ở lớp tương đối phong phú. Có trình độ sử dụng vi tính, tạo các bài giảng điện
tử, làm đồ dùng đồ chơi tự tạo thu hút trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động
làm quen với tốn tích cực.
Phụ huynh học sinh thường xun đưa đón trẻ đi học chun cần và trao
đổi tình hình sức khỏe, học tập, vui chơi của trẻ khi ở nhà cũng như ở trường với
giáo viên phụ trách lớp.
Trẻ đi học chuyên cần, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, ngoan, lễ phép. Có tính
tìm tịi khám phá và rất hiếu động.
2.2.Hạn chế:
5


91,4% số trẻ trong lớp là người dân tộc thiểu số, nề nếp học tập cũng như
kiến thức của trẻ còn hạn chế, một số trẻ chưa nhận biết được màu sắc, cao thấp,
số lượng, hình khối, kích thước
Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động. Sự

chú ý hào hứng của trẻ còn hạn chế.
Phụ huynh học sinh phần lớn là nông dân, lao động nghèo, chưa có ý thức
cao trong việc đưa con em mình đến trường lớp học là một việc làm thiết thực
và cần thiết.
Khi dạy trẻ tham gia vào các hoạt động làm quen với toán ở lớp một số
giáo viên chưa linh hoạt trong giảng dạy, chưa biết cách vận dụng lấy tài liệu,
hình ảnh, sử dụng đồ dùng đồ chơi, truyện, thơ ca… có nội dung liên quan để áp
dụng phù hợp vào từng hoàn cảnh để giáo dục cho trẻ.
Từ ưu điểm, hạn chế trên. Tôi đã hiểu được mục đích yêu cầu, tầm quan
trọng tính cấp thiết của việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan đối với trẻ mầm
non, nên tôi đã lựa chọn những biện pháp tốt nhất, phù hợp nhất với đặc điểm
của địa phương và của lớp để đạt được kết quả cao trong việc dạy trẻ học tốt
môn làm quen với tốn. Vì vậy tơi thường xun tham gia dự giờ các lớp chuyên
đề, thao giảng về hoạt động làm quen với tốn do Phịng Giáo dục và đào tạo
huyện tổ chức, các chuyên đề cấp cụm cũng như các chuyên đề do nhà trường tổ
chức, để có được những phương pháp, hình thức đổi mới. Tơi đã lên kế hoạch cụ
thể cho từng hoạt động nhằm giúp trẻ tiếp thu tốt những kiến thức của cô truyền
đạt. Với số trẻ trong lớp: 35 , dân tộc: 32 , nữ dân tộc: 24
Từ tình hình của lớp tơi đã làm khảo sát thực trạng về nhận thức của trẻ.
Thu được kết quả như sau:
Tổng số khảo sát 35 trẻ trong lớp 5-6 tuổi đầu năm 2017-2018.
Nội dung khảo sát
- Phân biệt được cao, thấp

Trước khi thực hiện
kết quả đạt

Trước khi thực hiện
kết quả chưa đạt


23/35 trẻ = 65,7 %

12/35 trẻ = 34,3 %
6


- Nhận biết được số lượng từ 1-

20/35 trẻ =57,1 %

15/35 trẻ =42,9 %

- Nhận biết được các khối

24/35 trẻ =68,6 %

11/35 trẻ = 31,4% %

- Nhận biết được kích thước

25/35 trẻ =71,4 %

10/35 trẻ =28,6 %

- Nhận biết được màu sắc

22/35 trẻ =62,9 %

13/35 trẻ =37,1 %


10

Từ khảo sát thực trạng của trẻ về các nội dung trên cho thấy trẻ học toán
tốt đạt khoảng 60% và nhận biết về tốn cịn kém chưa xác định được hình dạng,
hình khối, kích thước, màu sắc, số lượng...đạt khoảng 40%. Do vậy trong q
trình giáo dục trẻ tơi đã thấy được nguyên nhân chủ quan và khách quan như
sau:
2.3.Nguyên nhân chủ quan:
- Được sự quan tâm đặc biệt của Đảng uỷ, UBND xây dựng cơ sở vật chất
khang trang, kiên cố và khá đầy đủ, trường học có đồ dùng đồ chơi ...
- Nhà trường luôn quan tâm trong việc mua sắm đồ dùng đồ chơi phục vụ
cho hoạt động làm quen với toán.
- 91,4% trẻ là người dân tộc thiểu số, trẻ nói tiếng phổ thơng tương đối
chuẩn, ngoan, lễ phép.
- Phụ huynh học sinh cũng biết được nhu cầu của con em mình ở độ tuổi 5
– 6 tuổi rất cần được học bộ mơn làm quen với tốn và hiểu tầm quan trọng của
việc toàn dân đưa trẻ đến trường.
- Trẻ còn nhút nhát chưa mạnh dạn, tự tin trong các hoạt động và nhận
biết về tốn cịn kém chưa xác định được hình dạng, hình khối, kích thước, màu
sắc, số lượng...chiếm tỉ lệ cao 40%.
7


2.4.Nguyên nhân khách quan:
Trẻ cùng một độ tuổi nhưng nhận thức của trẻ chưa được đồng đều còn
hạn chế.
Giáo viên đôi lúc chưa linh hoạt trong việc tổ chức giáo dục làm quen với
tốn cho trẻ. Cịn nói nhiều, cách truyền đạt chưa lưu lốt, khơng phát huy được
tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động.
Đồ dùng đồ chơi trực quan cịn hạn chế, đơi lúc chưa đủ dẫn đến việc

luyện tập ít, nên tiết học buồn tẻ không đem lại kết quả như mong muốn.
- Hầu hết cha mẹ của học sinh là nông dân nghèo, có mặt bằng về trình độ
văn hóa tương đối thấp, theo như phương pháp điều tra thu thập thông tin cá
nhân trẻ và phụ huynh thì tỷ lệ trẻ tiếp thu chậm trong quá trình nhận thức đặc
biệt là nhận thức về tốn học của các cháu có bố mẹ bị mù chữ chiếm tỉ lệ cao
nhất (50%), các cháu có bố mẹ học xong tiểu học thì chiếm (35%), các cháu có
bố mẹ học xong trung học cơ sở (15%). Độ chênh lệch tỷ lệ về trình độ văn hóa
đã chứng minh được trình độ học vấn của bố mẹ cũng là yếu tố ảnh hưởng đến
thực trạng của đề tài.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a.Mục tiêu của giải pháp.
Thông qua mọi hoạt động ở trường mầm non giúp trẻ lĩnh hội kiến thức
một cách sâu sắc theo nguyên tắc đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp,
chính xác mang tính khoa học nhưng phải theo ngun tắc vừa sức, khơng mang
tính trừu tượng khó hiểu và khơ khan.
Phát triển tồn diện 5 mặt phát triển cho trẻ nhằm hoàn thiện nhân cách và
kỹ năng sống cho trẻ. Bên cạnh đó cịn giúp trẻ có tâm thể vững vàng trước khi
bước vào lớp 1.
Giúp trẻ tham gia vào các hoạt động với tâm thế phấn khởi, vui tươi, thích
thú, phát triển các khả năng của trẻ như: quan sát, so sánh, ghi nhớ, chú ý…
8


Thúc đẩy quá trình học tập của trẻ ở trường lớp ngày càng đạt kết quả tốt
hơn. Bởi vì khi trẻ tham gia vào tất cả các hoạt động thì bắt buộc trẻ phải tư duy,
nhận biết, ghi nhớ và đó cũng là tiền đề để trẻ tiếp tục phát triển ở phổ thông sau
này.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Từ kết quả khảo sát và những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan như trên tôi luôn suy nghĩ và trăn trở rằng

mình phải làm gì? và làm như thế nào? để nâng cao kết quả học tốt môn làm
quen với tốn cho trẻ 5-6 tuổi người đơng bào thiểu số đồng thời nhắc nhở đến
phụ huynh của trẻ, đánh thức ở họ ý thức đưa con em mình đến trường lớp để
được học tập và hòa đồng với bạn bè, hãy sống cho mình và cả tương lai của con
em mình sau này. Một số biện pháp sử dụng đồ dùng đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 56 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường Mầm non Bình Minh là dạy cho trẻ:
Nhận biết phân biệt được cao-thấp; số lượng từ 1-10, các hình khối, kích thước,
màu sắc. Muốn cho trẻ đạt được kết quả cao nhất tôi đã mạnh dạn đưa ra một số
biện pháp sau đây:
* Biện pháp 1: Rèn luyện bản thân nâng cao chuyên môn nghiệp vụ
Giáo viên luôn tự học tập, nghiên cứu tài liệu nắm chắc các chuyên đề, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, năng lực cơng tác, thực hiện đúng thời gian
biểu, bài soạn đầy đủ sáng tạo, có chất lượng, phù hợp với đặc điểm tình hình của
trẻ trong lớp. Sưu tầm làm đồ dùng dạy học, đồ chơi, tranh ảnh, trang trí lớp phù
hợp với từng chủ điểm và mang bản sắc dân tộc, gần gũi với trẻ. Giáo viên thường
xuyên có kế hoạch làm thêm nhiều đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho hoạt động
làm quen với tốn: Ví dụ: Sưu tầm các lon nước yến, lon coca; các hộp sữa giấy…
uống hết nước bỏ đi. Giáo viên hướng dẫn trẻ chơi với khối trụ, khối vuông, khối
chữ nhật …
Vận động học sinh 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số ra lớp 100% và duy trì
được sĩ số từ đầu năm học đến cuối năm học bằng nhiều biện pháp như kết hợp
9


với Ban tự quản của thơn bn, các đồn thể. Giáo viên làm tốt công tác quần
chúng, vận động các bậc phụ huynh không đưa con lên nương rẫy, luôn làm tốt
cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ phối hợp với nhà trường tổ chức các ngày lễ, tết.
Vận động quyên góp quần áo, đồ dùng để động viên tinh thần giúp các em ham
thích đến trường lớp.
Bản thân thường xuyên tham gia dự giờ đồng nghiệp, dự tiết chuyên đề mẫu
của Phòng giáo dục huyện tổ chức, chuyên đề cụm, tham gia thao giảng tại trường

để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. Khám phá tìm tịi trên mạng Internet những
bài giảng, trò chơi hay học hỏi để phục vụ cho hoạt động làm quen với tốn cho
trẻ. Ví dụ: Trị chơi “Đuổi hình bắt số”, “Tơi là khối gì”…Tìm nhiều hình thức để
rèn luyện học tốt mơn làm quen với toán cho trẻ một cách nhẹ nhàng, tùy từng
đối tượng học sinh có phương pháp để dạy thích hợp. Đối với giáo viên người dân
tộc thiểu số không được lạm dụng tiếng mẹ đẻ để dạy cho trẻ.
*Biện pháp 2: Lựa chọn và sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn đúng
lúc, đúng chỗ.
Như chúng ta đã biết, đặc trưng hoạt động làm quen với tốn là tính chính
xác và khoa học, tư duy của trẻ là trực quan, hoạt động của trẻ là thao tác với đồ
vật vì vậy đồ dùng trực quan đóng vị trí quan trọng trong hoạt động nhận thức
của trẻ. Đồ dùng đẹp hấp dẫn thu hút sự chú ý, tò mò, khám phá của trẻ.
Để tăng tính hấp dẫn của giờ học tôi thường xuyên lựa chọn, vận dụng các
nguyên vật liệu có sẵn ở trường học, ở địa phương như: Hoa, lá, hộp giấy, lon
nước, hột hạt...để tạo ra những đồ dùng học tập có nội dung gắn bó với cuộc
sống của trẻ phù hợp với từng chủ đề, ít tốn kém kinh tế, thời gian chuẩn bị đồ
dùng.
Ví dụ: Ở chủ đề “Gia đình” Trong bài dạy cho trẻ phân biệt các khối như:
Khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ, khối cầu...Tơi đã đưa ra các trị chơi như:
Về đúng nhà ở phần trò chơi luyện tập. Để đáp ứng trị chơi này trước đó cơ và
trẻ phải sưu tầm các nguyên vật liệu như: Hộp sữa giấy, bóng nhựa, lon nước
ngọt....và làm các ngơi nhà có ngắn các khối để trẻ tham gia trò chơi.
10


Kết quả thu được trẻ tham gia trò chơi rất hứng thú, vui vẻ. Đạt kết quả
cao trong giờ học. Giúp trẻ có được tính nhanh nhẹn, thơng minh, hoạt bát, sáng
tạo trong khi trẻ thực hiện hoạt động ở trên lớp cũng như trong các hoạt động
khác mà còn góp phần phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới thực vật”, dạy trẻ đề tài: “Đếm đến 8. Nhận

biết chữ số 8”, trước khi vào giờ học trong giờ hoạt động ngoài trời, tơi đã cho
trẻ đi dạo chơi ngồi sân trường và mỗi bạn nhặt những chiếc lá vàng, hoa rụng
ở sân trường để cho trẻ vào làm đồ dùng, đồ chơi trực quan ngay trong tiết học.
Việc gây hứng thú ngay từ đầu tiết học bằng đồ dùng trực quan không
những tạo được sự chú ý cho trẻ ngay từ đầu mà cịn tạo cho trẻ một tâm lý thối
mái để trẻ dễ dàng tiếp thu nội dung trọng tâm của tiết học.
*Biện pháp 3: Sưu tầm một số trò chơi mới.
Với đặc điểm nổi bật của trẻ mầm non là chơi. Thơng qua các hình thức
chơi, trẻ sẽ nhận nhiệm vụ học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng không căng thẳng,
khơng gị ép.

Trị chơi là một trong những hoạt động khơng thể thiếu trong

hoạt động làm quen với tốn. Thơng qua trò chơi trẻ hào hứng, tiếp thu bài học
tốt, ghi nhớ lâu, chính xác.
Ví dụ: Trong hoạt động làm quen với tốn tơi thường sử dụng trị chơi học
tập và lựa chọn trong nhiều trò chơi học tập để áp dụng với từng bài cho phù
hợp. Như trò chơi”: “Thi ai đếm đúng”. Tôi thường sử dụng trong phần ôn luyện
cho tập hợp số lượng, phép đếm.
Các trò chơi không nên lặp đi lặp lại ở cùng một tiết học, sẽ dẫn đến trẻ bị
nhằm chán, không hứng thú tham gia hoạt động. Yêu cầu của trò chơi phải được
nâng dần nên qua mỗi lần chơi thì mới phát huy tính sáng tạo tính tích cực của
trẻ, chính vì vậy tôi đã nghiên cứu, xác định nội dung bài dạy để chọn trò chơi
cho phù hợp, tuỳ từng trò chơi mà tơi tổ chức cho trẻ chơi theo nhóm, tổ, cá
nhân và tập thể.
Ví dụ: Ở chủ đề: Cây xanh và môi trường sống. Trong hoạt động làm quen
với toán đề tài: “So sánh chiều cao của 3 đối tượng”. Tơi đã chọn trị chơi luyện
11



tập theo tổ “Tay ai khéo”. Chia trẻ thành các đội chơi, vượt qua các chướng ngại
vật mang cây về vườn trồng theo yêu cầu. Đội chọn trồng cây cao nhất, đội
trồng cây thấp hơn, đội trồng cây thấp nhất. Lần chơi sau thay đổi hình thức chơi
nâng cao yêu cầu khó hơn
Qua việc sử dụng trị chơi trong các giờ làm quen với tốn, tiết học trở lên
sơi nổi, trẻ được tham gia hoạt động một cách tích cực, tinh thần thoải mái nên
có thể khơng bị mệt mỏi và căng thẳng. Điều này đã tạo cho trẻ hứng thú hăng
say trong quá trình tham gia hoạt động học tập.
*Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng
Trẻ em rất dễ bị thu hút vào những hình ảnh có màu sắc sinh động mới lạ.
Với cơng nghệ khoa học tiên tiến như hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong bài giảng làm quen với tốn cho trẻ khơng phải là khó. Nhưng
những nội dung, hình ảnh tạo bài giảng phải phù hợp với đề tài, độ tuổi.
Trong các tiết học làm quen với tốn tơi đã sử dụng một số thao tác ứng
dụng cơng nghệ thơng tin cho việc giảng bài của mình.
VD: Trong chủ đề phương tiện và luật lệ giao thông. Dạy trẻ hoạt động
làm quen với toán “Nhận biết số lượng 10. Nhận biết chữ số 10”. Tôi đã kể cho
trẻ nghe câu chuyện “Những chiếc ô tô xinh” và tơi đưa ra nhóm ơ tơ lần lượt
các xe được xuất hiện trên màn hình chạy nối đi nhau với tiếng còi bim bim
.....các hiệu ứng, âm thanh, tiếng động các hình ảnh sinh động làm hứng thú với
trẻ từ đó gây được sự chú ý ở trẻ.
Khơng chỉ bài giảng của giáo viên soạn giảng bằng máy tính mà tơi cịn
tạo những trị chơi trên máy cho trẻ lên thao tác, trải nghiệm, bấm máy chơi trò
chơi dưới sự hướng dẫn của cơ.
Ví dụ : Trị chơi “Thi xem ai chọn đúng’. Cách chơi: Trên màn hình có rất
nhiều loại phương tiện giao thông, con hãy chọn cho cô nhóm có 10 phương tiện
và nối với số 10. Trẻ sẽ lên clích con chuột của máy tính và chọn cho đúng yêu
cầu.

12



Đối với trẻ dân tộc thiểu số ở tại vùng khó khăn như trên địa bàn tơi cơng
tác. Việc được học và tiếp cận với công nghệ thông tin là một điều trẻ rất u
thích và lơi cuốn trẻ vào trong hoạt động. Không chỉ là hoạt động làm quen với
toán mà là tất cả các hoạt động khác trong trường mầm non cũng vậy. Nhưng
giáo viên phải lựa chọn nội dung để ứng dụng vào bài giảng cho phù hợp tránh
trường hợp lạm dụng, phụ thuộc vào máy tính cũng không tốt.
*Biện pháp 5: Xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp.
Để thu hút trẻ đến trường lớp, đi học chun cần thì mơi trường cũng là
một yếu tố quan trọng trực tiếp tác động hàng ngày đến trẻ. Nhận thức được tầm
quan trọng đó tơi đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cảnh quan môi trường
xung quanh .
Trang trí, sắp xếp các góc của lớp học với nhiều đồ dùng đồ chơi hấp dẫn,
phong phú về chủng loại, hài hoà hợp lý sẽ tạo được sự chú ý, sẽ hấp dẫn lôi
cuốn trẻ vào giờ học theo chủ đề, theo nội dung từng bài dạy.
- Tùy vào nội dung của từng bài để bố trí đồ dùng, đồ chơi xung quanh
lớp, giá đồ chơi, tranh treo tường cho hấp dẫn, hợp lý để trẻ luyện tập cũng như
liên hệ thực tế.
Ví dụ: Chủ đề thế giới thực vật
+ Treo tranh về một số loại hoa, cho trẻ đếm số lượng hoa theo yêu cầu và
giáo dục trẻ.
+ Đồ dùng cây cối, hoa xếp ở giá đồ chơi để trẻ có thể luyện đếm, so sánh
cao, thấp; nhận biết màu sắc; so sánh ít hơn, nhiều hơn....
- Giáo viên tạo mơi trường ngồi lớp cho trẻ hoạt động vui chơi như: Tạo
vườn hoa thiên nhiên của bé, thường xuyên cho trẻ tham quan tưới cây, nhổ cỏ.
Từ đó tích hợp một cách nhẹ nhàng cho trẻ đếm số lượng mỗi loại cây, mỗi loại
hoa, cây nào cao nhất, cây nào thấp hơn, màu sắc của cây, hoa, lá...Trẻ được trải
nghiệm bằng thực tế hằng ngày, từ đó giáo dục trẻ u thích và chăm sóc, bảo vệ
vườn hoa cũng như đồ dùng đồ chơi của bé.

*Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh học sinh
13


Tốn học là một mơn khoa học địi hỏi sự chính xác. Trẻ mầm non dễ nhớ
nhưng cũng rất dễ qn. Vì thế, tơi thường xun trao đổi với phụ huynh vào giờ
đón - trả trẻ để hiểu được tính cách, khả năng nhận thức của từng cá nhân trẻ và
để phụ huynh rèn luyện thêm cho trẻ khi về nhà.
Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ thông qua phụ huynh. Ví dụ: trẻ A,
trẻ B rất thích học mơn tốn, Hơm nay trẻ học đếm số lượng 8. Nhận biết chữ số
8. Nhờ bố mẹ, ông bà hàng ngày về nhà hỏi trẻ đếm dùm những đồ dùng trong
gia đình như: Chén bát, đũa, các loại hoa quả, hạt….; trẻ C, trẻ D rất hay hỏi
người lớn. Bố mẹ hãy đố cháu đo dùm chiếc bàn, chiếc ghế dài bằng một cái
thước đo và cho trẻ nói kết quả.
Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách tranh, ảnh hoặc lô
tô về con vật, cây cỏ, phương tiện giao thông….phù hợp với lứa tuổi giúp trẻ mở
rộng biểu tượng về số lượng, kích thước, hình dạng, màu sắc…. Tạo một góc
bảng tin ở trước lớp tuyên truyền treo ngay ở cửa ra vào để phụ huynh dễ nhìn
thấy. Trong đó có ghi thơng tin về tình trạng sức khỏe, tình hình học tập của trẻ
và một số kiến thức về chăm sóc, ni dưỡng trẻ. Ngồi ra, tôi đã lồng ghép tên
các hoạt động trong ngày, trong tuần vào một bông hoa, đặc biệt là hoạt làm
quen với toán và viết cụ thể những điều trẻ được học ở phía dưới. Ở đó, tơi dán
các bức tranh, hình ảnh về quá trình trẻ tham gia học để phụ huynh biết được ở
lớp con em mình thường xuyên được trải nghiệm các hoạt động. Từ đó, tạo thêm
lịng tin ở phụ huynh và khi về nhà họ có thể kết hợp với giáo viên củng cố thêm
cho trẻ bằng nhiều hình thức. Điều này góp phần giúp trẻ ngày càng học tốt mơn
làm quen với tốn tại trường, lớp.
Việc kết hợp với phụ huynh giúp trẻ luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có
được vốn kiến thức phong phú và đa dạng hơn. Tôi thường xuyên trao đổi với
phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm ra nhiều đồ dùng

đồ chơi phục vụ cho trẻ mơn học làm quen với tốn.
Ngày nay khi khoa học cơng nghệ thơng tin bùng nổ, ngồi giờ học ở
trường ra về nhà một số cháu thường ngồi ngay vào máy vi tính với những trị
14


chơi phim ảnh bạo lực. Do vậy tôi cũng thường nhắc nhở phụ huynh về nhà nên
cho trẻ xem những chương trình thiếu nhi như: Ai thơng minh nhất, vườn cổ
tích, ca nhạc thiếu nhi, kể chuyện cho bé nghe…nhằm tích lũy vốn từ cho trẻ và
cũng để trẻ học tập theo các bạn..
c.Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số
học tốt môn làm quen với toán, đạt kết quả cao như mong muốn chủ quan của
người giáo viên cũng như chất lượng chun mơn của tồn trường thì cần phối
hợp nhiều giải pháp, biện pháp với nhau. Song những giải pháp, biện pháp được
nêu trong đề tài có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ cho nhau. Biện pháp rèn
luyện bản thân nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; biện pháp lựa chọn và sử dụng
đồ dùng đồ chơi hấp dẫn đúng lúc, đúng chỗ và biện pháp kết hợp với phụ
huynh trong việc hướng dẫn trẻ học thêm ở nhà sẽ hỗ trợ cho các biện pháp
khác. Bởi lẽ khi xây dựng được mơi trường học tập trong và ngồi lớp tốt tạo
hứng thú cho trẻ đến trường, ham thích học mơn làm quen với tốn, đồ dùng đồ
chơi đẹp bắt mắt trẻ, lơi cuốn trẻ vào hoạt động khơng có biểu hiện mệt mỏi,
căng thẳng. Không những thế đến trường lớp trẻ được học tập thao tác, trải
nghiệm trên máy tính, chơi những trị chơi trẻ u thích.. Từ đó trẻ đã tích lũy
được một số vốn hiểu biết, trẻ giảm đi tiêu cực khơng thích đi học. Tăng thêm
hiểu biết về mơn làm quen với tốn, trẻ thích đếm, so sánh, thêm bớt, nhận xét
về màu sắc, đo độ dài đồ vật … Như vậy khi tham gia vào tiết học trẻ sẽ mạnh
dạn, tự tin có hứng thú hơn, thích tham gia vào hoạt động hơn.
d.Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng

Qua quá trình áp dụng các giải pháp, biện pháp và sự quan tâm nhiệt tình
của tơi cùng với sự giúp đỡ của các cơ giáo ở lớp 5-6 tuổi, các đồng nghiệp, Ban
giám hiệu trường mầm non Bình Minh. Đến nay tơi thấy kết quả thu được từ kết
quả khảo nghiệm là:
*Đối với trẻ:
15


Nội dung khảo sát

Trước khi thực
hiện kết quả đạt

sau khi thực hiện
kết quả đạt

Tăng/ giảm

- Phân biệt được cao,

23/35 trẻ = 65,7 %

32/35 trẻ = 91,4%

Tăng 25,7%

20/35 trẻ =57,1 %

31/35 trẻ = 88,6%


Tăng 31,5%

24/35 trẻ =68,6 %

33/35 trẻ = 94,3%

Tăng 25,7%

- Nhận biết được kích
thước

25/35 trẻ =71,4 %

31/35 trẻ = 88,6%

Tăng 17,2%

- Nhận biết được màu

22/35 trẻ =62,9 %

33/35 trẻ =94,3%

Tăng 31,4%

thấp
- Nhận biết được số
lượng từ 1-10
- Nhận biết được các
khối


sắc

Về thái Độ: Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động làm quen với toán ở
lớp. Trẻ hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến, có nề nếp và thói quen học tập tốt,
ngoan trật tự.
Về cảm xúc tình cảm: Trẻ hào hứng tiếp nhận kiến thức một cách thoải
mái thơng qua các hoạt động nhóm, tập thể...
Về ý chí: Trẻ tập trung vào nội dung cơ hướng dẫn, thời gian tập trung
nhận thức vấn đề tốt hơn không có biểu hiện mệt mỏi.
Tỉ lệ trẻ phân biệt được cao, thấp tăng 25,7% ; nhận biết được số lượng
từ 1-10 tăng 31,5%; nhận biết được các khối tăng 25,7%; nhận biết được kích
thước tăng 17,2%, nhận biết được màu sắc tăng 31,4%. Như vậy cho thấy nhận
thức của trẻ phát triển, nhận biết về các biểu tượng toán sơ đẳng của trẻ đã tích
lũy được vốn kiến thức, kinh nghiệm theo chiều tiến bộ. Làm tăng khả năng
nhận thức hiểu biết cho trẻ, các cháu hứng thú tham gia các hoạt động, sáng tạo
trong mọi công việc.
* Đối với giáo viên:
16


Giáo viên đã tạo được môi trường học tập và vui chơi cho trẻ trong và
ngồi lớp có khoa học. Linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động, bên cạnh
đó được trau dồi kiến thức, kỹ năng, nghệ thuật chăm sóc và giảng dạy trẻ.
Tạo được mơi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề, đồ
dùng đồ chơi hấp dẫn lôi cuốn trẻ.
Các hoạt động làm quen với tốn khơng cịn tẻ nhạt, khơ khan đối với trẻ
mà trẻ tích cực tham gia hoạt động phát huy tính sáng tạo và khả năng tư duy.
Cụ thể trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng hoạt động. Trẻ phân biệt được cao thấp,
nhận biết được số lượng từ 1-10. Chữ số từ 1-10… hiểu biết rộng hơn

Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ
làm quen với toán, cùng phối kết hợp với cô giáo tạo điều kiện cho trẻ được làm
quen với toán đạt kết quả cao nhất, điều đó cũng đã góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trẻ.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Bậc giáo dục mầm non là một bậc học đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
đào tạo con người mới, là cơ sở hình thành và phát triển con người. Chính vì vậy
là một giáo viên mầm non cần có phẩm chất đạo đức, lối sống, tư tưởng, lập
trường vững vàng. Luôn bồi dưỡng trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng quan
sát, so sánh, phân loại, một số hiểu biếu về con người, sự vật hiện tượng xung
quanh cho trẻ ngay từ những ngày đầu đến trường lớp mầm non, vì kỹ năng này
đóng một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của trẻ giúp trẻ có
thêm nhiều kiến thức, tri thức, vốn từ. Giúp trẻ người dân tộc thiểu số tự tin,
mạnh dạn hơn khi giao tiếp gắn liền với tình huống vì đây là ngơn ngữ thứ hai
của trẻ.
Giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt mơn làm quen với tốn
qua tất cả các hoạt động ở trường mầm non là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn
luyện phát triển toàn diện cho trẻ về 5 mặt: Đức, trí, thể, mỹ và lao động. Đề tài
17


nghiên cứu này sẽ làm cơ sở vững chắc cho việc học tập của trẻ những năm tiếp
theo. Giúp trẻ học tốt mơn làm quen với tốn hiện nay là một vấn đề rất quan
trọng, nhất là đối với trẻ ở vùng dân tộc thiểu số khó khăn như trường mầm non
Bình Minh hiện nay. Nên mỗi giáo viên khơng chỉ rèn cho trẻ tốt qua các tiết
học mà phải rèn cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trao đổi với phụ huynh học sinh về
tình hình của trẻ ở trường thường xuyên. Bên cạnh đó phải rèn luyện bản thân để
có trình độ chun mơn dạy tốt, mang tri thức thắp sáng thế hệ mầm non, phấn
đấu tất cả vì trẻ thơ thân u.

Qua đó thấy được vai trị và tầm quan trong của người giáo viên mầm non
trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Giáo viên cần dựa vào vốn kinh nghiệm của
trẻ, khai thác khả năng hoạt động của trẻ, tạo mọi cơ hội cho trẻ tự tìm tịi khám
phá, trải nghiệm …. vào cuộc sống. Tôn trọng nhu cầu cá nhân của trẻ, tạo cơ
hội để trẻ phát triển, thích ứng, hịa nhập với cuộc sống xung quanh. Gây hứng
thú, kích thích động cơ bên trong của trẻ để lôi cuốn trẻ vào các hoạt động,
thường xun tạo tình huống có vấn đề để trẻ giải quyết đặc biệt là hoạt động
nhận thức. khuyến khích trẻ tự hoạt động và tự trải nghiệm, tự hoàn thiện trên cơ
sở tôn trọng sự sáng tạo và đặc điểm cá nhân của trẻ. Khơng gị ép, áp đặt làm
trẻ thụ động.
Giáo viên xác định chủ đề, lên kế hoạch hoạt động, tổ chức hoạt động,
lồng ghép các chương trình, các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ
động, sáng tạo của trẻ. Kích thích trẻ hoạt động cá nhân, tích cực chủ động đưa
ra nhiệm vụ và để trẻ hoàn thành, phát hiện những vấn đề mới, khuyến khích sự
sáng tạo và thực hiện nhiệm vụ tới cùng. Tổ chức trẻ tham gia bàn bạc trong
nhóm để giải quyết vấn đề được giao. Khuyến khích trẻ tự đánh giá kết quả hoạt
động … Bên cạnh đó phải đảm bảo các nguyên tắc và xây dựng các biện pháp
phù hợp với khả năng của trẻ.
2. Kiến nghị:

18


Bản thân tôi việc giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt mơn làm
quen với tốn hiện nay còn gặp rất nhiều hạn chế về mọi mặt. Do vậy bản thân
tơi có một số kiến nghị như sau:
Các cấp các ngành cần quan tâm hơn nữa đến bậc học mầm non vì đây là
bậc học đầu tiên có vai trị quan trọng đến việc học tập, tiếp thu kiến thức sau
này của trẻ đặc biệt là hình thành nhân cách cho trẻ.
Tạo điều kiện trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thiết yếu như:

máy tính, máy chiếu dạy trẻ. Quan tâm hơn nữa tới đội ngũ cán bộ công nhân
viên của ngành đặc biệt là các chế độ cho công nhân viên.
Hàng năm cấp phát sách vở miễn phí, đồ dùng đồ chơi để tạo điều kiện
cho trẻ được học tập, vui chơi khám phá, trải nghiệm ngày càng tốt hơn…
Với phụ huynh học sinh cần quan tâm hơn nữa đối với việc học tập của
con em mình, thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để nắm rõ tình
hình học tập của con em mình để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Tham gia đầy đủ các cuộc họp, trao đổi kinh nghiệm do nhà trường mở.
Cùng với trẻ thực hành ở nhà những điều trẻ học được ở trường.
Trên đây là một số biện pháp hữu ích nhằm “Sử dụng đồ dùng đồ chơi
hấp dẫn giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn làm quen với tốn
tại trường Mầm non Bình Minh”. Tơi rất mong được sự ủng hộ của các đồng
nghiệp và của các cấp lãnh đạo. Để từ đó bản thân tơi rút ra được những bài học
kinh nghiệm sâu sắc hơn khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ đạt
kết quả tốt. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Dray Sáp, ngày 12 tháng 03 năm 2018
Người viết

Nguyễn Thị Tươi
19


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
……………………………………………………………………………………..…….………
………………………………………………………………………………….………………
………………………………………………………………………….………………………
………………………………………………………………….………………………………
………………………………………………………….………………………………………
………………………………………………….………………………………………………
………………………………………….………………………………………………………

………………………………….………………………………………………………………
………………………….………………………………………………………………………
………………...............................................................................................................................
......................................................

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT

Tên tài liệu

Tác giả

1

Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non

Nguyễn Thị Ánh Tuyết- NXB giáo
dục 1994

2

Giáo dục học mầm non ( tập 1.2)

Đào thanh Âm – NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội 1997

3

Phương pháp hình thành biểu tượng toán sơ Đỗ Thị Minh Liên – NXB Đại học
sư phạm 2003
đẳng cho trẻ mầm non.

4

Toán và phương pháp hình thành biểu tượng Đinh Thị Nhung- NXB Đại Học
Quốc gia Hà nội 2000
toán cho trẻ mẫu giáo.

5

Những sáng kiến kinh nghiệm hay về sử dụng Tài liệu violet
đồ dùng đồ chơi hấp dẫn cho trẻ

21


MỤC LỤC

MỤC

NỘI DUNG

TRANG


I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

2

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

2


5

Phương pháp nghiên cứu

3

II

PHẦN NỘI DUNG

3

1

Cơ sở lý luận

3

2

Thực trạng

3-7

3

Nội dung và hình thức của giải pháp

3-16


III

KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ

1

Kết luận

16-17

2

Kiến nghị

17-18

16

22


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là nấc thang khởi đầu cho hệ thống quốc dân, trong đó
những thói quen vệ sinh và hành vi tạo nên nhân cách con người của trẻ, là con
đường giúp trẻ lớn lên và phát triển toàn diện. Trong những năm vừa qua, bậc
học mầm non được sự quan tâm và đầu tư của nhà nước, hệ thống giáo dục mầm
non theo chương chương trình đổi mới được thực hiện phủ khắp từ thành thị đến
thơn q vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa. Bên cạnh những biện pháp giúp cho
trẻ phát triển toàn diện, lĩnh hội nội dung chương trình thơng qua các mơn học

thì vấn đề làm tơi quan tâm nhất là “Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi
văn minh”. Công tác rèn cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân là việc làm thiết thực
nhằm giúp trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh, phịng tránh bệnh tật, tăng cường sức
khỏe, hình thành kỹ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có
chất lượng trong tương lai. Bên cạnh đó, phát triển cho trẻ các lĩnh vực thẫm
mỹ, nhận thức, ngơn ngữ, thể chất, tình cảm xã hội, thì vấn quan trọng cần được
quan tâm thường xuyên là làm sao cho trẻ phát triển hướng đến hành vi văn
minh của nhân loại, vấn đề hình thành thói quen vệ sinh của mỗi cá thể trong
cộng đồng. Vì trẻ em là nguồn nhân lực của đất nước, là người kế tục của cha
anh, là người gánh vác nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước nên ngay từ nền
móng ban đầu, trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp, hiện đại và toàn diện
về mọi mặt.
Đơn vị nơi tôi đang công tác là vùng đặc thù dân tộc thiểu số người đồng
bào êđê chiếm 94,1%, đa số phụ huynh của các cháu làm nghề nông và ở trong
vùng kinh tế khó khăn, ít tiếp xúc với cuộc sống bên ngồi và cịn mang đậm
tính địa phương, phong tục tập quán nên rất ít cháu nhỏ được bố mẹ để ý đến
vấn đề rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Đây chính là lí do thúc đẩy tơi chọn để tài để tìm ra “ Một số biện pháp rèn
cho trẻ 4-5 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh tại trường Mầm non Bình
Minh- Bn Tr A- Xã Dray Sap- Huyện Krơng Ana- Tỉnh Đăklăk” giúp cho
trẻ có sự mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp của cuộc sống .
23


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
* Mục tiêu của đề tài.
- Tìm ra phương phương pháp và biện pháp thích hợp để rèn cho trẻ thói
quen vệ sinh và hành vi văn minh, hình thành thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh
cộng đồng và nếp sống văn minh có văn hóa.
- Trẻ có hành vi văn minh lịch sự có văn hóa có thói quen vệ sinh tốt giúp

cho trẻ tự tin trong giao tiếp hằng ngày với những người xung quanh trẻ, đó
chính là tiền đề hình thành và phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ trong tương
lai.
* Nhiệm vụ của đề tài.
- Nghiên cứu một số biện pháp và các hình thức tổ chức rèn thói quen vệ
sinh và hành vi văn minh cho trẻ, nhằm tạo điều kiên tốt nhất cho trẻ thông qua
các hoạt động trong một ngày ở trường của trẻ và mọi lúc mọi nơi, sau khi vận
dụng đề tài sẽ góp phần giúp cho trẻ nhận biết được những thói quen vệ sinh
đúng nơi quy định và những hành vi văn minh để hình thành nhân cách cho trẻ
giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp rèn cho trẻ 4-5 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn
minh tại trường Mầm non Bình Minh- Bn Tr A- Xã Dray Sap- Huyện
Krông Ana- Tỉnh Đăklăk.
4. Giới hạn của đề tài:
- Trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm non Bình Minh - Buôn Tuôr A - Xã Đray Sáp
- Huyện Krông Ana- Tỉnh Đăklăk.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu giáo dục học mầm non, tâm lý học trẻ em lứa tuổi
mầm non để hiểu đặc điểm phát triển từng giai đoạn của trẻ, từ đó đưa ra những
phương pháp phù hợp để rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho
trẻ 4-5 tuổi.
- Phương pháp thực nghiệm:
+ Giáo dục mọi lúc mọi nơi
+ Lồng ghép trong từng tiết học
+ Trong hoạt động vui chơi
24


- Phương pháp đàm thoại- quan sát- thực hành


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
- Từ lúc lọt lịng đến 6 tuổi sự phát triển của trẻ chưa phải lĩnh hội tri thức
bằng con đường truyền thụ theo phương pháp nhà trường, mà trẻ tiếp nhận văn
hóa theo con đường cảm nhận qua sự chắt lọc ngấm dần tự nhiên từ chất người
trong cuộc sống hằng ngày. Những gì mà trẻ tiếp nhận là tình yêu thương giữa
con người với con người thông qua cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của trẻ theo
truyền thống gia đình.
- Gia đình là mơi trường văn hóa đầu tiên. Người mẹ đóng vai trị trung tâm
và quan trọng nhất. Bởi vậy trong mơi trường mầm non cần tổ chức sao cho gần
giống với mơi trường gia đình, ở đây cơ là mẹ, các cháu là con. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề và nhiệm vụ của một giáo viên mầm non trong thực
trạng của trẻ hiện nay nên tôi đã chọn đề tài này để trình bày thực tế để tìm biện
pháp thực hiện và giáo dục cho trẻ.
- Đới với trẻ mầm non, việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp cho
trẻ khỏe mạnh, có thói quen hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật. Việc
làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của giáo viên, sự phối hợp rèn luyện thói quen
của trẻ, của gia đình, nhà trường, sự đầu tư trang thiết bị chăm sóc vệ sinh và các
điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ hàng ngày.
- Tuy nhiên, để giáo dục cho trẻ các kỹ năng và thao tác vệ sinh cá nhân,
giúp trẻ nhớ hết các thao tác rửa tay, rửa mặt, chải răng… không phải là việc
đơn giản. Công việc này mất tương đối thời gian cho mỗi ngày. Nếu như khơng
khéo léo có thể sẽ làm ảnh hưởng đến các hoạt động khác. Đây là một hoạt động
rất quan trọng trong việc giữ gìn sức khỏe, phong tránh bệnh tật cho trẻ. Do đó,
cần nhắc nhở và giáo dục trẻ thực hiện thường xuyên và đều đặn.
- Thói quen hành vi văn minh lịch sự là nền tảng đạo đức của mỗi con
người, là hành vi văn hóa. Ngay từ nhỏ trẻ phải được uống nắn từ cử chỉ lời nói
,hành động văn minh thì lớn lên trẻ mới trở thành người có ích với chính bản
thân, gia đình và xã hội, trẻ phải biết tu dưỡng, rèn luyện từng ngày theo hướng

tốt, nói lời hay, ý đẹp, đi đứng nhẹ nhàng, cư xử với mọi người hòa nhã, niềm
nở, lịch sự. Biết chấp hành một số nội quy vệ sinh công cộng, với vệ sinh cá
25


×