Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận giáo dục học đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.77 KB, 14 trang )

BÀI LÀM KẾT THÚC CHUYÊN ĐỀ
CHUYÊN ĐỀ “GIÁO DỤC HỌC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM”
LỚP NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG

ĐỀ BÀI
Anh (chị) hãy nhận xét về thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
và đề xuất phương án khả thi cho hệ thống giáo dục đại học trong thời gian tới.
BÀI LÀM
Sự nghiệp giáo dục đào tạo giữ vai trò trung tâm trong chiến lược phát
triển nguồn lực con người Việt Nam, đó là nguồn lực có ý nghĩa quyết định mọi
nguồn lực bởi nguồn lực đặc biệt này vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự
phát triển. Tốc độ phát triển và đổi mới đất nước phục vụ rất nhiều vào số lượng,
chất lượng và hiệu quả đào tạo của ngành giáo dục nước nhà.
Một trong những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay là sự phát triển
như vũ bão của cuộc cách mạng công nghiệp với việc phát minh và đưa vào ứng
dụng nhiều loại hình cơng nghệ cao như: cơng nghệ thơng tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hố... Chu kì đưa phát minh
khoa học ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất, các ngành dịch vụ chỉ mất một vài
năm. Vậy làm thế nào để nắm bắt, sử dụng được những thành quả của nhân loại
tạo ra để thực hiện cơng nghiệp hố- hiện đại hố đất nước, tránh cho đất nước
nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Đây là một thách thức to lớn với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
IX đã xác định: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố- hiện đại hố, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững... Như vậy phát triển giáo dục- đào tạo nói chung và giáo dục
đại học nói riêng có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo nguồn lực lao động


có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng


trưởng kinh tế bền vững.
Giáo dục đại học là bậc cao nhất của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo
dục đại học là thước đo tiến bộ xã hội, trình độ dân trí của một quốc gia.
Khi nói đến giáo dục người ta thường đề cập đến hai mặt: Mặt chất lượng
đào tạo và quy mô đào tạo. Theo quan niệm của Hội đồng giáo dục UNESCO
Paris họp từ ngày 5- 9/10/98 đã xác định: "Chất lượng giáo dục là khái niệm đa
chiều, bao trùm mọi chức năng và sự vận động của nó bao gồm: nội dung tri
thức giáo dục, các chương trình đào tạo, nghiên cứu và học thuật, đội ngũ giáo
chức, sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật."
1/ Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Qua nhiều năm đổi mới, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn. Quy mô đào tạo đại học tăng nhanh, với việc mở rộng mạng
lưới các trường, đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đội ngũ giảng viên có sự
phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng; điều kiện dạy và học ở các
trường đại học đã có nhiều cải thiện đáng kể.
- Chất lượng giáo dục đại học ngày càng được quan tâm, văn hóa chất
lượng từng bước được hình thành trong các cơ sở giáo dục đại học. Một số
trường đại học đã triển khai đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương
trình tiên tiến được chuyển giao từ các nước phát triển; đẩy mạnh việc triển khai
thực hiện hỗ trợ khởi nghiệp đối với sinh viên. Những năm qua, chất lượng giáo
dục đại học của Việt Nam đã từng bước được thế giới công nhận thông qua kiểm
định chất lượng và xếp hạng đại học quốc tế. Tự chủ đại học được đẩy mạnh
thông qua việc triển khai Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính
phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đổi với các cơ sở giáo dục đại học
công lập giai đoạn 2014 - 2017. Kể từ khi được giao quyền tự chủ, số lượng các
đề tài khoa học đấu thầu thành cơng; số lượng các cơng trình cơng bố trong
nước, quốc tế, các chương trình mở mới của các trường đại học đều tăng; quy
mô đào tạo ổn định; thu nhập của giảng viên, người lao động tăng.



- Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
(CBQLGD) được nâng lên và chuẩn hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ
tướng Chính phủ Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý
các cơ sở giáo dục đại học và các trường cao đẳng sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo giai đoạn 2018 - 2030; Xây dựng chuẩn
nghề nghiệp giảng viên sư phạm; Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
quản lý với trường sư phạm và trường phổ thông trong bồi dưỡng nhà giáo,
CBQLGD. Đồng thời, rà sốt mạng lưới, quy mơ, phương thức đào tạo của các
cơ sở đào tạo giáo viên; Triển khai Chương trình phát triển các trường sư phạm
để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông
(ETEP); Khảo sát nhu cầu sử dụng giáo viên của địa phương làm căn cứ xác
định chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nâng cao chất lượng đầu ra sư phạm.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành và trong dạy học ngày càng được đẩy mạnh. Cơ sở dữ liệu của các cấp học
đã được thống kê; dữ liệu về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý được đưa vào
sử dụng làm cơ sở cho cơ quan quản lý ra các quyết định về chính sách hiệu quả,
khắc phục tối đa những bất cập hiện nay như thừa, thiếu giáo viên; nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chính sách cho nhà giáo. Cơng tác kiểm định
chất lượng giáo dục được triển khai tích cực, hiệu quả, đánh giá đúng chất lượng
đào tạo của các cơ sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng làm căn cứ để xác
định chất lượng giáo dục đại học, vị thế và uy tín của cơ sở giáo dục đại học.
- Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, nhiều thỏa thuận, biên bản ghi nhớ
được ký kết. Nhiều cơ sở giáo dục đào tạo đã chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế thơng qua các chương trình liên kết đào tạo với nước ngồi và các chương
trình trao đổi sinh viên, giảng viên, hợp tác nghiên cứu.
- Công tác thanh tra được chú trọng, góp phần phịng ngừa, phát hiện
những sai phạm, hạn chế, thiếu sót trong quản lý và kịp thời kiến nghị xử lý vi
phạm, đề xuất các biện pháp khắc phục, góp phần chấn chỉnh, duy trì kỷ cương,
nền nếp trong hoạt động giáo dục,…



Nhìn chung, hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các trường
đại học trong thời gian vừa qua đã hoàn thiện và thay đổi theo xu hướng phát
triển của giáo dục đại học.
Đáng chú ý, những năm qua, các trường triển khai chương trình tiên tiến,
chương trình chất lượng cao được chuyển giao từ các nước phát triển để từng
bước nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế. Đến nay, các trường đại học trên cả nước đã triển khai được 37
chương trình tiên tiến và khoảng 250 chương trình đào tạo chất lượng cao. Các
điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là đội ngũ giảng viên từng bước được cải
thiện tăng cả về số lượng và chất lượng. Cả nước có khoảng hơn 72,7 nghìn
giảng viên; trong đó, giai đoạn 2015-2017, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ
tăng 22,68%.
Cùng với đào tạo, công tác nghiên cứu khoa học của các trường đại học
cũng đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo Bộ giáo dục và đào tạo, tại một cuộc
khảo sát năm 2017 cho thấy, giai đoạn 2011-2015, tổng sản phẩm khoa học và
công nghệ khối các trường đại học chiếm hơn hai phần ba tổng sản phẩm khoa
học và công nghệ cả nước. Chỉ tính riêng các trường đại học trực thuộc Bộ Giáo
dục đào tạo đã có 383 nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả và có sức lan tỏa
trong toàn hệ thống. Nhiều cơ sở giáo dục đại học đã thúc đẩy các hoạt động
nghiên cứu khoa học nhằm phát triển theo định hướng nghiên cứu và hỗ trợ khởi
nghiệp.
Điển hình như Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), theo Phó Giám đốc
Nguyễn Hữu Đức: ĐHQGHN đã hình thành được 27 nhóm nghiên cứu mạnh,
năm nhóm nghiên cứu tiềm năng, 10 phịng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu
trọng điểm, tạo ra các sản phẩm khoa học - công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, chỉ riêng năm 2017, ĐHQGHN công bố 560
bài báo nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế (ISI, Scopus)...
Mặc dù có chuyển biến tích cực nhưng thực tế hiện nay, chất lượng giáo
dục đại học vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra. Theo các chuyên gia giáo dục, việc có



khoảng 200 nghìn người có trình độ đại học bị thất nghiệp do nhiều nguyên
nhân nhưng chủ yếu là do chất lượng đào tạo. Nhiều cơ sở giáo dục đại học chất
lượng đào tạo chưa cao, nhất là đào tạo sau đại học, liên kết, liên thông… Hoạt
động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng cịn
hạn chế bởi số lượng cơng trình, bài báo, các phát minh, sáng chế chưa tương
xứng với tiềm năng.
Một số trường đại học sau thời gian hoạt động vẫn chưa có đủ các điều
kiện bảo đảm chất lượng theo đề án thành lập trường. Trong khi đó, về cơ chế,
chính sách cịn bất cập khi vấn đề tự chủ thật sự cho các trường đại học chưa
được tháo gỡ; mơ hình và cơ cấu tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học còn
nhiều điểm chưa rõ ràng… Việc thành lập trường, mở ngành, xác định chỉ tiêu
tuyển sinh… chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào tạo, chưa bám sát nhu cầu
thị trường lao động…
* Tác động của dịch bệnh Covid-19 đến giáo dục đại học:
Năm 2020 đến nay, tình hình dịch bệnh Covid đã có tác động lớn đến Việt
Nam và thế giới về mọi mặt, trong đó có giáo dục đại học. Những gián đoạn do
đại dịch Covid-19 gây ra ảnh hưởng đến mọi quốc gia, mọi vùng miền, cả giàu
và nghèo, và sinh viên từ những nhóm thiểu số phải đối mặt với nhiều thách
thức hơn. Ở những khu vực có Internet chưa phổ biến và dung lượng băng thông
thấp, cơ hội học tập trực tuyến bị hạn chế đáng kể. Các trường cao đẳng và đại
học ở những tỉnh có thu nhập thấp chật vật triển khai những chương trình đào
tạo từ xa có chất lượng, do thiếu những học giả có kinh nghiệm và thiếu nguồn
lực. Cụ thể:
+ Đóng cửa và chuyển sang giáo dục trực tuyến: các trường đã không
được chuẩn bị trước cho sự thay đổi với cùng mức độ. Các trường đại học và
cao đẳng ở các tỉnh vùng xa vùng sâu phải đối mặt với những khó khăn nghiêm
trọng về cơ sở hạ tầng cơng nghệ thông tin và thực trạng truy cập Internet.



Trường đại học Điện lực triển khai dạy trực tuyến trong mùa dịch covid19
+ Ảnh hưởng đến sinh viên: sự xáo trộn do việc đóng cửa đột ngột các
khu học xá khi một số ký túc xá được trưng dụng làm khu cách ly, khu điều trị
(Ký túc xá Đại học quốc gia TPHCM, ký túc xá Đại học Ngân hàng TPHCM,..)
và chuyển đổi nhanh chóng sang giáo dục trực tuyến đã làm gián đoạn cuộc
sống của sinh viên trên tồn thế giới. Sinh viên từ những nhóm thiểu số bị ảnh
hưởng đặc biệt nặng nề; họ phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế, khó
khăn về kết nối và suy sụp tinh thần.

Sinh viên chuẩn bị rời Ký túc xá ĐH Quốc gia TP HCM khi KTX
được trưng dụng làm khu cách ly tập trung
+ Đánh giá và thi cử: nhiều cơ sở giáo dục đại học đã phải vật lộn với
những lựa chọn khó khăn về đánh giá thi cử trực tuyến và nguy cơ gian lận gia
tăng.


+ Các trường đại học đang đối mặt với thách thức Covid-19: một khía
cạnh tích cực là phản ứng hào phóng của các trường đại học trên tồn thế giới
trong việc đóng góp kiến thức khoa học và nguồn lực của họ để chống lại đại
dịch. Các trường đại học phát triển các xét nghiệm Covid-19 nhanh hơn và rẻ
hơn, quyên góp thiết bị dư thừa để giúp các bệnh viện, và sản xuất vật tư y tế,
thiết bị khử trùng và thuốc.
+ Học tập giảm sút và sinh viên rớt mơn ngày càng tăng: nhiều sinh viên
sẽ khơng có đủ trải nghiệm học tập trong năm học 2019–2020, 2020-2021. Bên
cạnh tác động tiêu cực đến chất lượng của trải nghiệm giáo dục trong thời gian
dịch Covid-19, những vấn đề sức khỏe tâm thần trong sinh viên cũng gia tăng.
+ Giảm nguồn lực, thay đổi nhu cầu, đóng cửa và tái cơ cấu: Cuộc khủng
hoảng đã bộc lộ những điểm yếu trong cơ cấu của những mơ hình tài chính hiện
có của nhiều hệ thống và cơ sở giáo dục đại học. Đối với những cơ sở giáo dục

đại học tư thục phụ thuộc hồn tồn vào học phí và/hoặc sinh viên quốc tế, đây
là một thử thách khắc nghiệt khả năng tồn tại về mặt tài chính. Một số lượng lớn
sinh viên với nguồn lực hạn chế hoàn toàn có thể bỏ học đại học.
+ Ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu: Việc đóng cửa các phịng thí
nghiệm và hạn chế đi lại có nghĩa là các nhà nghiên cứu khơng thể tiếp tục các
thí nghiệm hoặc điều tra thực địa, trừ khi những cơng việc thí nghiệm và cộng
tác có thể thực hiện từ xa. Một mối quan tâm ngày càng tăng đối với tất cả các
trường đại học nghiên cứu là khả năng bị giảm kinh phí trong những năm tới,
ngoại trừ những chương trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến Covid-19. Dữ
liệu về năng suất nghiên cứu cho thấy các học giả nữ bị ảnh hưởng nghiêm trọng
hơn, phản ánh sự lệch lạc trong phân chia lao động trong gia đình.
+ Những cách tiếp cận giáo dục sáng tạo: bước đầu tiên nhằm giúp việc
chuyển sang giáo dục trực tuyến dễ dàng hơn là cung cấp những khóa huấn
luyện sử dụng nền tảng kỹ thuật số và áp dụng những kỹ thuật hiệu quả cho dạy
và học trực tuyến. Những trường có đầy đủ các dịch vụ chức năng hỗ trợ dạy và
học nhận thấy mình được chuẩn bị tốt hơn để hỗ trợ cộng đồng học thuật của


trường. Sự nhất quán của chương trình giảng dạy, phương pháp sư phạm và
phương pháp đánh giá chính là cốt lõi tạo nên thành công của trải nghiệm giáo
dục trực tuyến. Cũng rất quan trọng là nhận thức rằng giảng dạy trực tuyến
khơng phải là ghi hình một bài giảng truyền thống rồi đưa lên trang Web của tổ
chức, mà là áp dụng những phương pháp sư phạm nhằm thu hút sinh viên tham
gia vào những trải nghiệm giáo dục đầy hứng khởi. Cuối cùng, nhiều trường
nhận thấy không thể bỏ qua việc tăng cường hệ thống hỗ trợ học tập và tâm lý
cho những cá nhân sinh viên bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng sức khỏe và
kinh tế, và đang chật vật thích nghi với giáo dục trực tuyến.
+ Quản trị vượt qua đại dịch: cuộc khủng hoảng đã thử thách kỹ năng lãnh
đạo của các hiệu trưởng trường cao đẳng và đại học theo cách chưa từng có,
buộc họ phải đưa ra những quyết định nhanh chóng và quan trọng để bảo vệ sức

khỏe của cộng đồng học thuật và duy trì hoạt động liên tục của tổ chức. Bài học
rút ra từ cuộc khủng hoảng này là tầm quan trọng của việc truyền thông hiệu quả
và thường xuyên để giải thích một cách trung thực và minh bạch những thách
thức và những điều chưa biết do Covid-19 mang lại.
Bên cạnh các khó khăn và thách thức do dịch bệnh mang lại thì cũng có
một số trường qua thực trạng khó khăn đã:
+ Phát minh ra những mơ hình hoạt động mới: những cơ hội mới có thể
nảy sinh từ thời kỳ hậu đại dịch. Các cơ sở giáo dục đại học có thể nghiêm túc
cân nhắc việc tiếp nhận những người học trưởng thành như một phân khúc hợp
pháp trong số sinh viên mục tiêu của họ. Việc áp dụng mơ hình học tập suốt đời
nhấn mạnh quyền ưu tiên của người học, công nhận những năng lực có được
trong cơng việc và đáp ứng nhu cầu học tập của một nhóm khách hàng đa dạng
hơn. Các cơ sở giáo dục đại học cũng có thể thành lập các liên minh đại học để
cấp bằng chung, dạy các khóa học chung và thực hiện hợp tác nghiên cứu, kết
hợp tài năng và nguồn lực tài chính của họ một cách hiệu quả hơn.
+ Những phản ứng tập trung vào bình đẳng: Một trong những nhiệm vụ
ưu tiên của nhiều cơ sở giáo dục đại học ngay sau khi đóng cửa các hoạt động


trong khn viên trường là làm giảm bớt những khó khăn của những sinh viên
từ những gia đình có thu nhập thấp và từ những nhóm dễ bị tổn thương. Trợ giúp
tài chính bao gồm những hình thức trợ cấp bổ sung, cho vay không lãi suất và
tiếp cận các ngân hàng lương thực (food bank). Để thu hẹp khoảng cách về công
nghệ số, nhiều trường đã tặng thiết bị cho sinh viên và cung cấp các gói Internet
để truy cập trực tuyến.
+ Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, toàn ngành đã nỗ lực,
cố gắng khắc phục mọi khó khăn, chủ động, kịp thời tổ chức thực hiện đồng bộ
cơng tác phịng, chống dịch,thực hiện có hiệu quả với phương châm “tạm dừng
đến trường, không dừng học”, bảo đảm an toàn cho học sinh, giáo viên, hoàn
thành các nhiệm vụ chuyên môn của ngành.

+ Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã tác động, ảnh hưởng nặng nề đến ngành
Giáo dục. Giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh gặp rất nhiều khó khăn cả về
đời sống và trong hoạt động học tập, nhất là việc học trực tuyến trong thời gian
dài ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm chương trình, phương pháp, kế
hoạch tổ chức dạy và học, hoạt động của trường, lớp và đến sự phát triển của trẻ
em, học sinh. Ở nước ta, một số địa phương đang phải thực hiện giãn cách xã
hội hoặc tăng cường dãn cách xã hội, trong đó có học sinh, sinh viên và nhà giáo
đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần; học sinh ở
nhiều nơi chưa được tựu trường.
+ Thực tiễn phát triển giáo dục và đào tạo ở địa phương cũng cho thấy
còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục như việc quy hoạch, phát triển mạng
lưới cơ sở giáo dục ở một số địa phương chưa phù hợp; còn tình trạng thiếu
trường, lớp ở một số khu đơ thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng sâu, vùng
xa.
+ Cơ cấu đội ngũ giáo viên còn chưa hợp lý, thừa, thiếu giáo viên cục bộ
chưa được giải quyết triệt để; sự quan tâm của cấp ủy chính quyền địa phương
đối với giáo dục có lúc, có nơi chưa ngang tầm, chưa thực sự đúng với chủ
trương của Đảng, Nhà nước; chất lượng đào tạo nhân lực, việc dạy và học ngoại


ngữ, tin học hiệu quả chưa cao; đời sống giáo viên, đặc biệt là giáo viên ở vùng
sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn; tình trạng dạy thêm, học thêm vẫn còn phổ
biến; vấn đề cơ cấu lại đội ngũ giáo viên, điểm trường, đội ngũ nhà giáo chưa
thật sự hiệu quả; giáo dục văn hóa truyền thống lịch sử còn chưa được chú trọng
đúng mức.
2/ Đề xuất phương án khả thi cho hệ thống giáo dục đại học trong thời gian
tới
Trên thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, bản thân tôi đề xuất
các phương án khả thi cho hệ thống giáo dục đại học trong thời gian tới như sau:
- Đổi mới cơ chế, chính sách, toàn ngành sẽ triển khai các hoạt động

nhằm tăng cường quản lý quy hoạch mạng lưới, gắn kết đào tạo với nhu cầu xã
hội. Định kỳ công khai minh bạch kết quả kiểm định chất lượng; rà soát các quy
định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh; rà sốt, cơng khai tỷ lệ có việc làm của sinh
viên tốt nghiệp, các sản phẩm khoa học - công nghệ của các trường.
- Thực hiện miễn, giảm đối với sinh viên nhằm hỗ trợ tạo điều kiện để
sinh viên theo học, nhất là trong tình hình dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kinh tế, đời sống của toàn xã hội.
- Các trường đại học triển khai đổi mới chương trình đào tạo theo hướng
hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thị trường, phát triển tư duy sáng tạo của học viên.
Tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đại học để các trường tự
xác định mức học phí tương xứng với chất lượng đào tạo. Ngồi ra, cần khuyến
khích doanh nghiệp tham gia vào các nội dung khác nhau của quá trình đào tạo.
Xây dựng cơ chế để các trường đại học có trách nhiệm về sản phẩm là sinh viên
ra trường đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động chứ khơng chỉ khi tuyển sinh
thì hứa hẹn rất nhiều, đào tạo xong lại hết trách nhiệm.
- Bộ Giáo dục đào tạo cùng Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ khác
cần phối hợp để đẩy mạnh đề án về đổi mới sáng tạo trong các trường đại học và
tăng cường liên kết đào tạo giữa viện, trường, doanh nghiệp nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học trong giáo dục đại học.


- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đổi mới phương pháp
giảng dạy và nghiên cứu khoa học
Nâng cao nhận thức hơn nữa cho cán bộ giảng viên về vai trò, tầm quan
trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối với
việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, để mọi giảng viên thấy được
việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ có quan hệ chặt chẽ với
nhau. nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát huy và bồi
dưỡng tiềm lực để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tạo thương hiệu
trường. Từ đó, từng cá nhân, tự giác, tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu

khoa học, phát huy được tính sáng tạo và tiềm năng của từng người.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung
tâm
Phương pháp giảng dạy “lấy người học làm trung tâm” khơng có nghĩa là
loại trừ phương pháp thuyết giảng. Thực chất đó là sự kết hợp hài hòa nhuần
nhuyễn giữa thuyết giảng và đối thoại với mục tiêu phát huy cao độ tính tích
cực, năng động, độc lập, kinh nghiệm thực tiễn, sáng tạo của học viên. Với
phương pháp này yêu cầu giảng viên không chỉ nắm vững những vấn đề cần
trình bày mà cịn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng,
trên cơ sở đó giảng viên có thể truyền thụ những vấn đề cần thiết cơ bản đến học
viên.
- Nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học
Chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học có thể được đánh giá từ kết
quả học tập của học viên, từ những đánh giá dành cho giảng viên, từ nhận xét
của quản lý và sử dụng học viên..., cần có những tiêu chí để đánh giá chất lượng
và lấy đó làm cơ sở để đánh giá chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Sử dụng hiệu quả các phương tiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học
hiện đại


Trong giảng dạy phải chuẩn bị chu đáo và sử dụng hợp lý các phương tiện
trợ giảng. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng có thể gây phản tác dụng.
Đề xuất Trung tâm Thông tin - Thư viện của các trường thường xuyên bổ
sung tài liệu mới, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm
thông tin của giảng viên và sinh viên dưới mọi hình thức: tài liệu dạng in, mạng
thơng tin, tóm tắt, thơng báo nhanh,… đảm bảo có đủ sách giáo khoa quan
trọng, tạp chí các chun ngành.
Vận động giảng viên đóng góp tài liệu chuyên ngành vào tủ sách để các
giảng viên khác và sinh viên có nguồn tài liệu tham khảo.
Xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất tốt, mạnh để phục vụ cho nghiên cứu

khoa học như: Trung tâm Thơng tin - Thư viện, phịng thực hành, phịng
internet,…
- Triển khai các giải pháp tổ chức dạy học an toàn, ứng phó với đại
dịch Covid-19:
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, địa phương chủ
động xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch năm học linh hoạt, tạo điều kiện
thuận lợi cho học sinh, sinh viên học tập, vừa bảo đảm sức khoẻ, vừa hồn thành
chương trình giáo dục theo kế hoạch và bảo đảm chất lượng giáo dục của
từng cấp học, chương trình đào tạo.
Xác định các yêu cầu, nội dung cốt lõi, căn bản trong chương trình dạy
học, làm cơ sở cho các địa phương, các cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế
hoạch dạy họclinh hoạt, phù hợp với tình hình dịch tại địa phương, nhất là ở
những địa bàn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp; tiếp tục rà soát, hoàn thiện
phương thức dạy học trực tuyến và đào tạo từ xa; phát triển nguồn học liệu điện
tử, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, giảng viên đáp ứng yêu cầu của phương
thức này.
Đảm bảo tiêm vaccine cho tất cả giảng viên, giáo viên theo quy định;
quán triệt, thông tin, truyền thơng trong tồn ngành, tới các thầy cơ giáo, phụ


huynh, sinh viên cần nêu cao tinh thần chống dịch “mình vì mọi người, mọi
người vì mỗi người" thực hiện nghiêm túc các biện pháp phịng, chống dịch với
thơng điệp “tất cả vì tương lai con em chúng ta”.
Các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
chuyển đổi số, từng bước chuyển đổi việc tuyển sinh, đào tạo, kiểm tra đánh giá
và bảo vệ tốt nghiệp sang hình thức trực tuyến phù hợp với tình hình dịch bệnh.
Các cơ sở giáo dục tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục và đào
tạo, gắn với đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy và học. Tăng
cường công tác thông tin, truyền thơng về các chủ trương, chính sách mới của
ngành và kết quả triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính

phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tăng cường phối hợp, xử
lý hiệu quả các vấn đề về truyền thông, nhất là các vấn đề xã hội quan tâm, bức
xúc để xã hội, nhân dân hiểu, chia sẻ, ủng hộ và đóng góp nhiều hơn cho ngành.
Tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Đổi mới, sáng tạo trong quản lý,
giảng dạy và học tập” bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực
tế của địa phương, đơn vị; kịp thời khen thưởng, tôn vinh các tổ chức, cá nhân
có sáng kiến, giải pháp, mơ hình sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập,
nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 cịn có thể kéo dài
3/ Kết luận
Chưa bao giờ sức mạnh của các trường đại học lại bị thử thách gay gắt
như trong thời kỳ đại dịch hiện nay. Cuộc khủng hoảng y tế đã cho thấy khoảng
cách cơng nghệ số và bất bình đẳng kinh tế là những thực tế khó chịu, ảnh
hưởng trực tiếp đến năng lực đối phó của sinh viên với cuộc khủng hoảng
Covid-19.
Trong khi những trường đại học hàng đầu thế giới ít khả năng phải chịu
những hậu quả bất lợi lâu dài, đối với nhiều tổ chức giáo dục đại học, sự tồn tại
về tài chính sẽ là một thách thức nghiêm trọng. Hàng triệu sinh viên với nguồn
lực hạn chế hồn tồn có thể bỏ học đại học.


Đại dịch đã làm bộc lộ mức độ sâu sắc của sự phân chia cơng nghệ số và
những bất bình đẳng kinh tế xã hội, khiến càng tăng thêm khoảng cách rõ rệt
giữa các quốc gia, giữa các cơ sở giáo dục đại học và giữa sinh viên; do đó điều
cần thiết là phải xem xét, ở cấp quốc gia và cấp tổ chức, những biện pháp tập
trung vào việc đạt được sự công bằng trong giáo dục đại học cho sinh viên từ
những gia đình có thu nhập thấp, cho sinh viên nữ và cho các dân tộc và chủng
tộc thiểu số.
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao đã được Đảng, Nhà
nước xác định là một trong ba đột phá chiến lược quan trọng hàng đầu của đất
nước, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số đang diễn ra

mạnh mẽ và năm học 2021-2022 cũng là năm học toàn ngành Giáo dục tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ kép, vừa tích cực thực hiện các giải pháp phịng, chống dịch
Covid-19 đang diễn biến phức tạp, bảo đảm an toàn trường học, vừa ra sức phấn
đấu khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ năm học, đáp ứng yêu cầu đổi
mới và bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo. Trước những yêu cầu mới của
thời đại, giáo dục đại học cần có sự chuyển biến mạnh mẽ, đổi mới sáng tạo.



×