Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
ẢNH HƯỞNG CỦA TIÊU CHUẨN SPS ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Anh Tuấn, CN. Đặng Trần Ngọc Thương
Trường Đại học Kinh tế- Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích và thảo luận những ảnh hưởng của An toàn vệ sinh và Kiểm dịch
thực vật (Sanitary and Phytosanitary- viết tắt là SPS) đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam, cụ thể là mặt
hàng rau quả và trái cây. Trong những năm qua, dưới tác động của tiến hình hội nhập kinh tế, các rào cản
thuế quan đã được cắt giảm đáng kể. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, các rào cản phi thuế quan đang được các
nước sử dụng một cách tinh vi hơn, và vẫn đang là rào cản rất lớn đối với hàng xuất khẩu của các nước
đang phát triển, đặc biệt là hàng nông sản. Đo lường ảnh hưởng của những rào cản phi thuế quan này, từ đó
đánh giá tác động của chúng đến hoạt động xuất khẩu trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Sử dụng
mô hình Trọng lực (Gravity model), tác giả sẽ phân tích tác động của SPS, cụ thể là Tiêu chuẩn Giới hạn
chất cặn tối đa (Maximum Residue Limit- MRL) của thuốc trừ sâu Chlorpiryfos, đến xuất khẩu rau quả của
Việt Nam đến mười thị trường xuất khẩu chính. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích ảnh hưởng của một số
nhân tố khác đến xuất khẩu rau quả như GDP và dân số của nước nhập khẩu, sản lượng rau quả của Việt
Nam hoặc khoảng cách địa lý. Kết quả phân tích chỉ ra rằng SPS thực sự có tác động đến xuất khẩu rau quả
của Việt Nam; và đó là điều mà chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu tâm.
Từ khóa: SPS , Tiêu chuẩn an tồn thực phẩm, MRL, Chlorpiryfos, biện pháp phi thuế quan, mô hình trọng
lực
DANH MỤC VIẾT TẮT
GATT
UNCTAD
SPS
TBT
NTBs
NTMs
SITC
WTO
OECD
AVEs
AFTA
FTA
CEPII
FAO
MRL
General Agreement on Tariffs and Trade : Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch
United Nations Conference on Trade and Development: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về
Thương mại và Phát triển
Sanitary and Phytosanitary agreement: Hiệp định An toàn vệ sinh và Kiểm dịch thực vật
Technical barrier to Trade: Rào cản kỹ thuật đối với Thương mại
Non-tariff barriers: Rào cản Phi thuế quan
Non-tariff measures: Biện pháp Phi thuế quan
Standard International Trade Classification: Phân loại Thương mại quốc tế tiêu chuẩn
World Trade Organization: Tổ chức Thương mại thế giới
Organization for Economic Co-operation and Development: Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế
Ad Valorem Equivalent: Thuế quan tuyệt đối
ASEAN Free Trade Area: Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
Free Trade Area : Khu vực mậu dịch tự do
Centre d'Etudes Prospectives et d'Informations Internationales : Trung tâm Nghiên cứu
Triển vọng và Thông tin quốc tế
Food and Agricultural Organization: Tổ chức Nông lương thế giới
Maximum Residue Limit: Giới hạn chất cặn tối đa
59
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Ordinary least-squares: Bình phương nhỏ nhất thơng thường
OLS
1. Giới thiệu
Sở hữu điều kiện khí hậu nhiệt đới phù hợp và các vùng đồng bằng màu mỡ, Việt Nam nắm giữ lợi thế
lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Hiện tại, các sản phẩm nông nghiệp là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Năm 2016, giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã tăng đáng kể so với cùng kỳ năm
2015. Mặc dù có tiềm năng lớn và tăng trưởng nhanh như vậy, nông sản Việt Nam vẫn chỉ chiếm một thị
phần khá khiêm tốn trên thế giới, đặc biệt tại các thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ hay EU. Khi so sánh với
các sản phẩm cùng loại của Thái Lan hay Mexico, rau quả và trái cây Việt Nam kém hơn về chất lượng hay
bao bì, hay gặp các vấn đề đối với hàng rào vệ sinh an tồn thực phẩm, do đó cũng kém cạnh tranh hơn.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, khi các rào cản thuế quan đã được dỡ bỏ đáng kể, sự chú ý được chuyển
hướng sang các rào cản phi thuế quan (non-tariff barriers- NTB), đặc biệt là các biện pháp kỹ thuật như các
quy định an toàn thực phẩm, SPS hoặc các tiêu chuẩn về chất lượng và thành phần của sản phẩm. Những
biện pháp kỹ thuật này được coi như là những trở ngại tiềm tàng cho hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng
nông sản. Thực tế thì, những quốc gia đang phát triển như Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề
trong việc đáp ứng được các yêu cầu SPS từ các nước phát triển. Để vượt qua được những rào cản này,
doanh nghiệp Việt Nam cần phải có hiểu biết nhất định và nhận thức đúng đắn về tác động của các rào cản
này đến hoạt động xuất khẩu của họ. Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng cần dựa vào các nghiên cứu,
đánh giá để có giải pháp giúp đỡ doanh nghiệp. Trong bối cảnh chưa có một nghiên cứu nào được tiến hành
để đánh giá tác động của SPS, dựa theo Giới hạn chất cặn tối đa, đến xuất khẩu nơng sản, tác giả có tham
vọng có thể chỉ ra tác động của SPS đến hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam, mà cụ thể là các mặt
hàng rau quả và trái cây, dựa trên Phân loại Thương mại quốc tế tiêu chuẩn (Standard International Trade
Classification (SITC)). Trong hệ thống phân loại này, rau và quả được xếp vào nhóm SITC05 (xem bảng
dưới để biết chi tiết các mặt hàng được đưa vào nghiên cứu). Tác động của SPS sẽ được tính tốn dựa trên dữ
liệu từ mười thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2015.
Bảng 1.1 Nhóm SITC05 trong bảng phân loại của SITC
Mã hàng hóa
Tên sản phẩm
054
Rau tươi, làm lạnh, đơng lạnh và bảo quản đơn giản (bao gồm các sản phẩm họ đậu sấy
khô); củ, quả hạch và các loại rau ăn được khác- tươi hoặc sấy khô
056
Rau, củ và quả hạch được chế biến hoặc bảo quản mà chưa được đề cập ở mục khác
057
Trái cây và các loại hạt (khơng bao gồm hạt có dầu) tươi và sấy khô
058
Trái cây được bảo quản và được chế biến (không bao gồm nước trái cây)
059
Nước trái cây (bao gồm rượu nho chưa lên men) và nước rau củ, không lên men và khơng
chứa các loại rượu mùi, có thêm đường hoặc các chất làm ngọt hoặc không thêm
Nguồn: SITC
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm
2.1.1. Các biện pháp phi thuế quan
Các biện pháp phi thuế quan là một cơ chế hoặc một chính sách được sử dụng bên cạnh việc áp dụng
thuế quan thơng thường, có thể tạo ra tác động kinh tế tiềm tàng đến thương mại quốc tế, làm thay đổi lượng
hàng hóa được trao đổi, hoặc giá, hoặc cả hai1.
2.1.2. Các thỏa thuận SPS
1
UNCTAD/DITC/TAB/2009/3
60
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Henson, Loader và cộng sự (2000) định nghĩa rằng SPS là một bộ phận của các biện pháp kỹ thuật.
Trong khi đó, UNCTAD định nghĩa rằng SPS là những biện pháp được áp dụng để bảo vệ con người và động
vật khỏi nguy cơ xuất phát từ các chất phụ gia, chất gây ô nhiễm, chất độc hoặc dịch bệnh; để bảo vệ động và
thực vật khỏi các loại côn trùng, dịch bệnh, các sinh vật gây bệnh; để ngăn chặn hoặc hạn chế những tổn thất
cho một quốc gia từ việc các lồi cơn trùng xâm nhập, phát triển và lan rộng; và để bảo vệ đa dạng sinh học.
Biện pháp pháp lý để bảo vệ tính mạng và sức khỏe của người tiêu dùng được cho phép ở các quốc gia tham
gia vào thỏa thuận SPS, miễn là các biện pháp này được dựa trên nền tảng khoa học và không được dựng nên
để gây trở ngại hoạt động thương mại. Tuy nhiên, các quốc gia tham gia thỏa thuận cũng được yêu cầu là
phải nhận thức rằng, những biện pháp được các quốc gia thành viên khác áp dụng có thể có sự khác biệt về
hình thức nhưng đều có mức độ bảo vệ tương đương.
2.2. Các phương pháp luận đánh giá ảnh hưởng của SPS
2.2.1. Mơ hình trọng lực
Hiện nay có một số mơ hình được sử dụng để phân tích dịng thương mại như mơ hình Giá- Cái nêm
(Price-wedge method), Cách tiếp cận tồn kho (Inventory-based approach) hay Cách tiếp cận khảo sát. Tuy
nhiên những mô hình này đều có một số hạn chế nhất định, trong khi mơ hình Trọng lực chứng minh được
ưu điểm của mình trong thời gian gần đây và được sử dụng khá phổ biến. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả
chỉ đề cập đến mơ hình Trọng lực.
Khái niệm trọng lực được lấy ra từ Định luật Newton về vạn vật hấp dẫn. Theo định luật này, lực hút
giữa hai vật thể sẽ tỉ lệ thuận với trọng lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với khoảng cách giữa chung. Dựa
trên khái niệm này, Tinbergen và Bos (1962) đã phát triển một mơ hình tương tự để biểu thị các nhân tố
quyết định dòng chảy thương mại giữa hai quốc gia.
Phương trình trọng lực
Trong đó
Fij = dịng chảy thương mại giữa hai nước i và j
Mi = quy mô của nền kinh tế i đo bằng GDP
Mj = quy mô của nền kinh tế j đo bằng GDP
Dij = khoảng cách địa lý giữa nước i và j
Các nhân tố chủ chốt khác như quá khứ thuộc địa, ngôn ngữ chung, đường biên giới hay việc tham gia
các khối thương mại có thể được thêm vào để làm tăng sức mạnh dự báo của mơ hình
2.3. Cơ sở lý thuyết
Những năm gần đây, mơ hình trọng lực được áp dụng rộng rãi để phân tích thương mại song phương
giữa các quốc gia.
Trong giới nghiên cứu thương mại quốc tế, người tiên phong trong việc áp dụng mơ hình trọng lực để
phân tích thương mại song phương là Tinbergen (1962)- một nhà phân tích kinh tế người Hà Lan. Tinbergen
đã xây dựng mơ hình trong đó biến phụ thuộc là dịng thương mại từ quốc gia A đến quốc gia B, và các biến
độc lập bao gồm GDP và khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia. Nghiên cứu của ông đã chỉ ra rằng GDP có
tác động dương trong khi khoảng cách có tác động âm đến thương mại. Nó chứng mình các quốc gia có quy
mơ kinh tế càng lớn và càng gần gũi về mặt địa lý thì sẽ trao đổi với nhau nhiều hơn. Sau đó, những nhà
nghiên cứu khác như Chan-Hyun Sohn (2005) đã dùng mô hình này để phân tích dịng thương mại của Hàn
Quốc, Ranajoy và Tathagata (2006) đã phân tích chiều hướng thương mại của Ấn Độ hay Alberto (2009) dã
đánh giá sự tương thích của mơ hình này trong việc lý giải các hoạt động xuất khẩu của Nam Phi.
61
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Rahman (2009) đã sử dụng ba phương trình (Xuất khẩu, Nhập khẩu, Tổng nhập khẩu) để nghiên cứu
dòng thương mại giữa Bangladesh và các nước đối tác chính. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng dòng thương
mại của Bangladesh chịu tác động của GDP. Trong khi đó, Erdem và Nazlioglu (2008) đã nghiên cứu các
nhân tố tác động đến xuất khẩu nông nghiệp của Thổ Nhĩ Kỳ vào EU trong giai đoạn 1996-2001 và kết luận
được rằng khoảng cách địa lý có tác động âm đến giá trị xuất khẩu.
Mơ hình trọng lực cũng đã được dùng để đánh giá tác động của tiêu chuẩn sản phẩm và tiêu chuẩn an
toàn thực phẩm đến dòng thương mại.
Wei, Huang et al. (2012) đã nghiên cứu xuất khẩu chè của Trung Quốc trong giai đoạn 1996-2009.
Điểm mới trong nghiên cứu này là sự xuất hiện của biến giả- tiêu chuẩn an toàn thực phẩm- trong mơ hình
trọng lực dùng để đánh giá tác động của biến này đến xuất khẩu chè của Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra rằng tiêu chuẩn an tồn thực phẩm thực sự có tác động đến xuất khẩu, mặc dù khơng có nhiều ý nghĩa
do các thị trường khác nhau có những tiêu chuẩn khác nhau. Một nghiên cứu khác được tiến hành bởi Wilson
và cộng sự (2003) trong đó sử dụng mơ hình trọng lực để đánh giá tác động của các tiêu chuẩn về dư lượng
thuốc đến hoạt động bn bán thịt bị; và nghiên cứu đã cho thấy tiêu chuẩn về lượng Tetracyline trong thịt
có tác động âm rất lớn đến việc bn bán thịt bò trên thế giới. Otsuki và cộng sự (2001) đã dự đoán ảnh
hưởng của những tiêu chuẩn aflatoxin mới đến xuất khẩu thực phẩm của Nam Phi; và nghiên cứu đã chỉ ra
rằng việc áp dụng những tiêu chuẩn mới đã có tác động âm đến xuất khẩu ngũ cốc, trái cây và hạt sấy khô
của Nam Phi và thị trường EU.
Otsuki và cộng sự (2001) đã sử dụng mơ hình hiệu ứng cố định (fixed effects model) đối với nước
nhập khẩu, trong khi đó, Anders và Caswell (2008) đã chọn mơ hình hiệu ứng ngẫu nhiên (random effects
method). Các nhà nghiên cứu này đã cho rằng mô hình hiệu ứng cố định bỏ qua tất cả các biến cố định theo
thời gian (time-invariant variables), ví dụ như khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, và do đó nó khơng phù
hợp để nghiên cứu thương mại song phương.
Sun và cộng sự (2005) đánh giá tác động của giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nghiêm ngặt của
Nhật Bản lên xuất khẩu rau của Trung Quốc và đã đưa ra kết luận rằng việc Nhật Bản áp dụng tiêu chuẩn
Chlorpyrifos chặt chẽ hơn đã tác động âm đến xuất khẩu rau của Trung Quốc vào Nhật Bản. Trong nghiên
cứu này, Sun và cộng sự đã sử dụng tiêu chuẩn MRL về thuốc bảo vệ thực vật như là một biến để đánh giá
tác động của nó đến xuất khẩu
Chen, Yang và cộng sự (2008) đã sử dụng mơ hình trọng lực để đo lường tác động của các tiêu chuẩn
an toàn thực phẩm đến xuất khẩu nơng sản của Trung Quốc. Họ sử dụng mơ hình hiệu ứng cố định để giải
quyết vấn đề rằng mô hình của họ có thể bị chủ quan do họ đã phớt lờ đi giá liên quan. Mơ hình được xây
dựng như bên dưới. Chen cùng cộng sự sử dụng tiêu chuẩn MRL về thuốc bảo vệ thực vật, cụ thể ở đây là
Chlorpyrifos, để tính tốn ảnh hưởng của tiêu chuẩn an tồn thực phẩm đến xuất khẩu nơng sản của Trung
Quốc.
ln EXkij = βj + β1 ln OPTik + β2 ln GDPj + β3 ln DISTij (2) + β4 ln MRLk j + β5 ln TRFjk + εk ij.
Sau rất nhiều nghiên cứu được tiến hành bằng mô hình trọng lực, nó đã dần được hồn thiện bằng
nhiều biến mới như: dân số, tỉ giá, GDP đầu người trung bình, lịch sử, ngơn ngữ, biên giới chung, WTO (có
cùng là thành viên hay khơng), tiêu chuẩn an tồn thực phẩm,etc.
3. Tổng quan về xuất khẩu nông sản của Việt Nam
3.1. Xuất khẩu rau quả của Việt Nam
Rau và quả là những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong
năm 2016 và cũng là nhóm mặt hàng xuất khẩu đạt được thành công rực rỡ trong việc mở rộng thị trường.
Năm 2016, doanh thu từ xuất khẩu rau và trái cây đạt 2.46 tỷ USD, tăng 33.6% so với năm 2015. Trong khi
những mặt hàng khác trong nhóm nơng sản có sụt giảm cả về lượng và giá, mặt hàng rau và trái cây vẫn tiếp
tục tăng trưởng trong thời gian qua (năm 2014 tỉ lệ tăng trưởng là 28.4% trong khi năm 2015 tăng 23.7%).
Vào năm 2015, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của rau quả Việt Nam với mức tăng trưởng
62
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
45.8% so với năm trước, đạt 1.74 tỉ USD, theo sau là Mỹ với tỉ lệ tăng trưởng là 44.2%, đạt 84.5 triệu USD;
doanh số vào thị trường EU tăng 22.1% so với 2014 and đạt mốc 93.2 triệu USD; và ASEAN tăng 14.3% lên
133.7 triệu USD. Trong vài năm gần đây, nhiều loại rau quả Việt Nam đã đặt chân vào nhiều thị trường “khó
tính” và tiếp tục mở rộng thị phần.
Bảng 0.1 Giá trị xuất khẩu rau và trái cây Việt Nam
Năm
2012
2013
2014
2015
Giá trị xuất khẩu
(triệu USD)
2,866
2,874
3,872
4,631
Tỉ lệ tăng trưởng
15.3%
0,27%
34.7%
19.6%
Nguồn: UNCOMTRADE
Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) cho viết nhu cầu thế giới về các mặt hàng rau và trái cây trong
giai đoạn 2011-2015 tăng trung bình 3.6% mỗi năm, trong khi tỉ lệ tăng sản lượng sản xuất mỗi năm chỉ vào
khoảng 2.6%. Sự gia tăng dân số cùng với việc thu nhập và mức sống được cải thiện đã tạo ra một lượng cầu
khổng lồ đối với trái cây tươi và rau. Việt Nam đứng thứ 12 trong số các nhà xuất khẩu rau và trái cây chính,
thứ hạng đã được cải thiện từ 1 đến 3 bậc trong vài năm qua (thị phần của Việt Nam tăng từ 2.1% lên 2.4%).
Những đối thủ cạnh tranh chính của chúng ta trong xuất khẩu rau và trái cây là Trung Quốc, Ấn Độ, các quốc
gia ASEAN như Thái Lan, Malaysia hay Indonesia. Mặc dù có những tín hiệu tích cực như vậy, nhìn chung
nền nơng nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu rau quả nói riêng của Việt Nam vẫn còn chưa xứng với
tiềm năng. Việc canh tác rau và trái cây ở Việt Nam vẫn chủ yếu diễn ra dưới phương thức truyền thống, ứng
dụng công nghệ cao trong sản xuất rau và trái cây vẫn còn rất hạn chế.
3.2. Tác động kinh tế của biện pháp SPS
Theo thống kê của Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (The United Nations Industrial
Development Organization (UNIDO)), trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013, 4 thị trường lớn:
Australia, Mỹ, Nhật Bản và EU đã từ chối nhập khẩu 483 lô hàng rau và trái cây Việt Nam, gây tổn thất hơn
1 tỷ USD. Nguyên nhân của việc các sản phẩm của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào các thị trường này là
do tồn dư thuốc kháng sinh, kim loại nặng, các loại vi khuẩn gây ô nhiễm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và
hệ thống kiểm sốt vệ sinh thực phẩm khơng đáp ứng được các tiêu chuẩn của các nước này.
Theo thống kế của Eurofin2, trong ba tháng đầu năm năm 2017, Việt Nam đã nhập khẩu 183 triệu
USD thuốc bảo vệ thực vật. Trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2013, nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật
của Việt Nam đã tăng đáng kể từ 5.500 tấn lên 12.000 tấn. Đến năm 2016, lượng nhập khẩu đã đạt 100.000
tấn và khơng có dấu hiệu sụt giảm. Eurofin đã thơng tin rằng, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vơ kiểm
sốt nhằm mục đích gia tăng năng suất đã khiến cho dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam vượt qua tiêu chuẩn MRL của châu Âu và Mỹ. Việc nông sản bị trả ngược trở về, bị
cảnh báo trên thị trường thế giới sẽ gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế nói chung và thương hiệu nơng sản
Việt Nam nói riêng.
4. Phân tích định lượng
4.1. Chun biệt hóa mơ hình và nguồn dữ liệu
Trong bài viết này, tác giả sử dụng phương trình đã được Chen, Yang và cộng sự (2008) sử dụng, với
một vài điều chỉnh. Chen, Yang và cộng sự đã đo lường ảnh hưởng của tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của
một số thị trường lớn đến xuất khẩu của Trung Quốc, sử dụng tiêu chuẩn MRL, cụ thể là dư lượng
Chlorpyrifos, đối với rau quả và thủy sản. Trong số những cơng trình nghiên cứu gần gũi với thực tế Việt
Nam mà tác giả đang muốn tìm hiểu, bài nghiên cứu của Chen, Yang và cộng sự tỏ ra phù hợp nhất. Các
2
Eurofins Scientific is a leading international group of laboratories providing a unique range of analytical testing
services to the pharmaceutical, food, environmental and consumer products industries and to governments.
63
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
biến quan trọng của mơ hình đều được giữ lại như GDPj (GDP nước nhập khẩu), Outputi (sản lượng của
nước xuất khẩu), Distance (khoảng cách địa lý giữa hai nước xuất và nhập khẩu)... Bên cạnh đó, có 1 số biến
mới được thêm vào, như Population (dân số) hoặc MRL. Trong nhiều trường hợp, SPS có thế được đo lường
bằng một biến giả, biểu thị sự có hoặc khơng có SPS tại nước nhập khẩu. Trong bài này, SPS được đo bằng
tiêu chuẩn MRL cụ thể, ở đây là dư lượng Clorpiryfos tối đa cho phép tại nước nhập khẩu.
Phương trình cuối cùng là:
ln EXkijt = βj + β1 ln OPTikt + β2 ln GDPjt + β3 ln POPjt + β4 ln DISTij (2) + β5 ln MRLkjt + β6 ln
TRFjkt +εkij.
Trong đó k là mặt hàng, i là nước xuất khẩu (Việt Nam), j là nước nhập khẩu (10 nước đối tác chính
của Việt Nam) và t là thời gian
Biến phụ thuộc
EXkijt là giá trị xuất khẩu mặt hàng k từ nươc xuất khẩu i (Việt Nam) đến nước j trong năm t.
Biến độc lập
OPT là lượng nông sản k của Việt Nam sản xuất ra trong năm t;
GDP là GDP của nước j trong năm t;
POP là dân số nước nhập khẩu trong năm t;
DISTij là khoảng cách từ Việt Nam đến nước j;
MRL là Giới hạn Dư lượng tối đa của chất Clorpyrifos;
TRF là thuế quan nhập khẩu áp cho mặt hàng k.
Giá trị xuất khẩu
Việc phân loại các mặt hàng để đánh giá dựa trên Phân loại Thương mại quốc tế tiêu chuẩn (SITC)
bản 05. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2015 dựa theo dữ liệu của UNCOMTRADE.
Bảng 0.2 Giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào mười thị trường chính năm 2015
Quốc gia
Giá trị (triệu USD)
Tỉ lệ (%)
Trung Quốc
1,468
31.7
Mỹ
811.2
17.5
EU
696.6
15.0
Australia
135.3
2.9
Nhật Bản
109.9
2.4
Hàn Quốc
103,2
2.2
Thái Lan
97.6
2.1
Malaysia
43.07
0.9
Singapore
33.03
0.7
New Zealand
21.3
0.45
Nguồn: UNCOMTRADE
MRL
Tiêu chuẩn về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật là biến chủ chốt của nghiên cứu này. Trong bài này, tác
giả sẽ phân tích dựa trên tiêu chuẩn về dư lượng Clorpyrifos áp dụng cho rau và trái cây nhập khẩu.
Clorpyrifos được sử dụng rộng rãi trên thế giới để ngăn chặn các loại côn trùng gây hại trong lĩnh vực nông
nghiệp hoặc trong khu dân cư. Các loại nông sản thường được phun loại thuốc này gồm có bơng vải, bắp,
hạnh nhân, các loại cây ăn trái như táo, chuối, cam. Phơi nhiễm Clorpyrifos có thể dẫn đến ngộ độc cấp tính.
64
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Sức khỏe của nạn nhân sẽ bị tổn hại vĩnh viễn, và trẻ em bị phơi nhiễm với Clorpyrifos có thể bị ảnh hưởng
đến quá trình phát triển. Dữ liệu về giới hạn dư lượng Clorpyrifos được thu thập từ kho dữ liệu CODEX của
FAO. Giá trị của giới hạn dư lượng Clorpyrifos là giá trị trung bình của tiêu chuẩn áp dụng cho từng mặt
hàng thuộc nhóm SITC-05. Đơi khi, do có hạn chế về dữ liệu, tác giả cố gắng thu thập dữ liệu từ nguồn
chính phủ nước nhập khẩu. Biến này dự kiến có tác động dương, do giá trị dư lượng Clorpyrifos cho phép
càng nhỏ thì tiêu chuẩn càng chặt, và xuất khẩu sẽ giảm xuống. Ngược lại, giá trị MRL càng lớn có nghĩa là
tiêu chuẩn càng lỏng lẻo, và xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn.
Bảng 0.3 Nguồn dữ liệu
Biến
Nguồn dữ liệu
Export value
UNCOMTRADE database
( />
Outputi
Food and Agriculture of United Nations (FAO)
/>
GDPj
World bank database
Populationj
World Bank database
Distance
CEPII database
Tariff
Trade Analysis Information System (TRAINS)
MRL
CODEX database
Bảng 0.4 Tác động kỳ vọng của các biến
Biến
Kỳ vọng
Outputi
+
GDPj
+
Populationj
+
Distance
-
Tariff
-
MRL
+
4.2. Phương pháp luận
Trong bài này, tác giả sử dụng mơ hình OLS. Dữ liệu sẽ được chạy bằng phần mềm Stata- một phần
mềm được sử dụng rất phổ biến trong nghiên cứu kinh tế trong thời gian gần đây.
4.3. Kết quả
Bảng 0.5 Kết quả hồi quy
VARIABLES
lnGDPj
lnYi
(1)
(2)
(3)
lnEV
lnEV
lnEV
0.734***
0.386***
0.443***
(0.0323)
(0.0936)
(0.114)
2.237***
2.562***
2.499***
(0.257)
(0.206)
(0.208)
65
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
lnD2
-0.000166
-0.373***
-0.350***
(0.0926)
(0.0812)
(0.0902)
0.451***
0.373***
(0.0999)
(0.122)
-0.0712*
-0.0843**
(0.0398)
(0.0419)
lnPOPj
lnTR
lnMRL
0.415*
(0.245)
Constant
Observations
R-squared
-32.49***
-35.15***
-33.88***
(4.438)
(3.868)
(3.765)
160
158
158
0.774
0.802
0.806
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Kết quả hồi quy thể hiện tương quan tốt. Hệ số hồi quy tương tự như kỳ vọng.
Trong cột đầu tiên là mơ hình trọng lực cơ bản với giá trị xuất khẩu rau quả Việt Nam và ba biến trọng
lực: GDP nước nhập khẩu, sản lượng sản xuất của Việt Nam và khoảng cách địa lý. Tất cả các biến đều có
tác động như kỳ vọng. Trong khi GDP nước nhập khẩu, sản lượng sản xuất của Việt Nam có tác động dương,
trong khi khoảng cách địa lý tác động âm nhưng khơng đáng kể. Độ tin cậy của mơ hình này là 77%.
Trong cột thứ hai, có hai biến được thêm vào là dân số nước nhập khẩu và thuế quan nhập khẩu. Mơ
hình này cũng thể hiện như kỳ vọng, dân số có tác động dương trong khi thuế quan nhập khẩu tác động âm.
Cột thứ ba là mô hình đầy đủ với sự có mặt của biến MRL. GDP của nước nhập khẩu có tác động
dương đến xuất khẩu rau và trái cây của Việt Nam. Cụ thể, khi GDP của nước nhập tăng 1%, trung bình xuất
khẩu của Việt Nam vào nước đó sẽ tăng 0.44%. Quy mô nền kinh tế nước nhập khẩu tăng lên sẽ tạo ra nhu
cầu nhập khẩu rau và trái cây lớn hơn, do đó, nó sẽ có tác động làm gia tăng lượng rau quả xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường đó. Kết quả này khơng chỉ tương tự như kỳ vọng, mà cũng tương tự như nhiều
nghiên cứu trước đó.
Biến sản lượng sản xuất của Việt Nam cho kết quả dương và có ý nghĩa. Điều này chỉ ra rằng xuất
khẩu của Việt Nam sẽ tăng nếu như năng lực sản xuất trong nước tăng. Cụ thể là, nếu sản lượng rau quả của
Việt Nam tăng 1%, xuất khẩu sẽ tăng thêm 2.5%.
Biến dân số của nước nhập khẩu có tác động dương đến xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Khi dân số
tăng 1%, xuất khẩu của Việt Nam tăng thêm 0.37%. Điều này là dễ hiểu khi dân số của nước nhập khẩu càng
tăng thì nhu cầu đối với rau quả, trong đó có rau quả Việt Nam cũng sẽ tăng lên.
Các biến khoảng cách địa lý và thuế quan nhập khẩu có tác động âm. Điều này phù hợp với kỳ vọng
của tác giả, cũng như phù hợp với hiểu biết thông thường của chúng ta. Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia
càng lớn, xuất khẩu càng gặp nhiều khó khăn và do đó, doanh số sẽ bị ảnh hưởng. Tương tự, mức thuế quan
càng cao, giá rau quả Việt Nam nhập khẩu vào thị trường đó sẽ càng đắt đỏ, và cầu đối với chúng sẽ giảm đi.
Biển quan trọng nhất trong mơ hình là biến MRL, cụ thể là tiêu chuẩn Chlorpyrifos. Biến này có tác
động dương, tức là khi tiêu chuẩn về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật càng nhỏ đi, đồng nghĩa với tiêu chuẩn
càng thắt chặt, xuất khẩu rau quả Việt Nam sẽ giảm đi. Kết quả hồi quy cho thấy khi tiêu chuẩn
66
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Chlorpyrifos MRL giảm 1%, xuất khẩu rau và trái cây của Việt Nam sẽ giảm 0.45%. Kết quả này phù
hợp với kỳ vọng cũng như những nghiên cứu trước đó về tác động của tiêu chuẩn MRL.
5. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng GDP và dân số nước nhập khẩu càng lớn thì xuất khẩu vào thị
trường đó sẽ lớn. Điều này là dễ hiểu, và cũng gợi ý cho chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam rằng, cần tập
trung khai thác các thị trường lớn, với GDP lớn và/hoặc dân số đơng. Bên cạnh đó, sản lượng nơng nghiệp
của Việt Nam cũng sẽ đóng vai trị quan trọng đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh việc đưa ra các
giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, chính phủ Việt Nam cũng cần có những biện pháp duy trì và mở
rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, giảm tỉ lệ hao hụt trong quá trình thu hoạch và
bảo quản.
Ở chiều ngược lại, khoảng cách địa lý và thuế quan nhập khẩu có tác động âm đối với xuất khẩu. Điều
này hàm ý rằng các thị trường gần Việt Nam có thể sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho doanh nghiệp, và
doanh nghiệp cần tận dụng, khai thác các thị trường lân cận, đặc biệt là các thị trường lân cận với GDP và
dân số lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản hay Hàn Quốc. Thuế quan cũng có tác động âm, nhưng trong
bối cảnh ngày nay, khi Việt Nam ngày càng ký kết và gia nhập nhiều khu vực mậu dịch tự do, đặc biệt gần
đây là việc phê chuẩn CPTPP, thuế quan sẽ ngày càng ít quan trọng đối với các nhà xuất khẩu.
Yếu tố quan trọng nhất trong nghiên cứu này là tiêu chuẩn Clorpyrifos MRL. Nghiên cứu này một lần
nữa đã khẳng định rằng tiêu chuẩn này thực sự có tác động âm đối với xuất khẩu của Việt Nam. Để vượt qua
được những rắc rối với vấn đề này, Việt Nam cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa người nông dân, doanh nghiệp
và chính phủ. Chính phủ cần đóng vai trị quan trọng trong việc quy hoạch, hướng dẫn cho nông dân canh tác
nông nghiệp mà không sử dụng tràn lan các loại hóa chất bảo vệ thực vật. Chính phủ cũng cần đóng vai trị
trong việc giám sát, kiểm sốt việc sử dụng các loại hóa chất bị cấm. Từ phía doanh nghiệp, họ có thể đầu tư
cho các dự án nơng nghiệp sạch và trực tiếp xuất khẩu những sản phẩm đó, thay vì phụ thuộc vào nguồn
cung cấp bên ngồi và khơng kiểm sốt được chất lượng.
6. Kết luận
Trong bài báo này, tác giả đã đánh giá tác động của thỏa thuận SPS đến giá trị xuất khẩu của Việt
Nam. Bài báo tập trung vào rau và trái cây bởi vì đây là những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế, và có tiềm
năng xuất khẩu lớn. Hơn thế nữa, đây cũng là nhóm mặt hàng mà trong thời gian qua, các nước đối tác nhập
khẩu lớn của Việt Nam đã từ chối nhiều lô hàng do không đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, và
điều này gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Phân tích đã chỉ ra rằng, tiêu chuẩn SPS, cụ thể trong
trường hợp này là Chlorpyrifos MRL thực sự có tác động âm, gây giảm xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Ngồi ra, bài báo cũng phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố khác đến xuất khẩu như GDP của nước nhập
khẩu, dân số nước nhập khẩu hay sản lượng sản xuất nông nghiệp trong nước. Những kết quả này có thể gợị
ý một số hàm ý về chính sách và biện pháp cho chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong tương lai..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Beghin, J. C. và Bureau J.-C. (2001). "Quantitative policy analysis of sanitary, phytosanitary and
technical barriers to trade." Économie internationale(3): 107-130.
[2] Bora, B. và cộng sự. (2002). Quantification of non-tariff measures, United Nations Publications.
[3] Bradford, S. (2003). "Paying the price: final goods protection in OECD countries." Review of
Economics and Statistics 85(1): 24-37.
[4] Chen, C. và cộng sự (2008). "Measuring the effect of food safety standards on China’s agricultural
exports." Review of World Economics 144(1): 83-106.
[5] De Frahan, B. H. và M. Vancauteren (2006). "Harmonisation of food regulations and trade in the Single
Market: evidence from disaggregated data." European Review of Agricultural Economics 33(3): 33767
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
360.
[6] Deardorff, A. V. và R. M. Stern (1998). Measurement of nontariff barriers, University of Michigan
Press.
[7] Disdier, A.-C. (2008). "Trade Effects of SPS and TBT Measures on Tropical and Diversification
Products." ICTSD Programme on Agricultural Trade and Sustainable Development.
[8] Erdem, E. và Nazlioglu S. (2008). Gravity Model of Turkish Agricultural Exports to the European
Union. International Trade and Finance Association Conference Papers, bepress.
[9] Fontagné, L. và cộng sự (2005). "An Assessment of Environmentally‐related Non‐tariff Measures." The
World Economy 28(10): 1417-1439.
[10] Harrigan, J. (1993). "OECD imports and trade barriers in 1983." Journal of international Economics
35(1-2): 91-111.
[11] Henson, S., et al. (2000). Impact of sanitary and phytosanitary measures on developing countries,
University of Reading, Department of Agricultural & Food Economics.
[12] Leamer, E. E. (1990). "Latin America as a target of trade barriers erected by the major developed
countries in 1983." Journal of Development Economics 32(2): 337-368.
[13] Moenius, J. (2004). "Information versus product adaptation: The role of standards in trade." Available
at SSRN 608022.
[14] Nogues, J. J. và cộng sự (1986). "The extent of nontariff barriers to industrial countries' imports." The
World Bank Economic Review 1(1): 181-199.
[15] Olarreaga, M. và cộng sự. (2006). "Estimating trade restrictiveness indices."
[16] Otsuki, T. và cộng sự (2001). "Saving two in a billion:: quantifying the trade effect of European food
safety standards on African exports." Food policy 26(5): 495-514.
[17] Rahman, M. M. (2009). "The determinants of Bangladesh’s imports: A gravity model analysis under
panel data."
[18] Sevela, M. (2002). "Gravity-type model of Czech agricultural export."
EKONOMIKA-PRAHA- 48(10): 463-466.
[19] Tinbergen, J. và H. Bos (1962). "Mathematical models of economic growth."
ZEMEDELSKA
[20] Wei, G. và cộng sự (2012). "The impacts of food safety standards on China's tea exports." China
Economic Review 23(2): 253-264.
[21] Yue, C. và cộng sự (2006). "Tariff equivalent of technical barriers to trade with imperfect substitution
and trade costs." American Journal of Agricultural Economics 88(4): 947-960.
68