Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Một số kết quả bước đầu trong nghiên cứu cảm nhận hạnh phúc của trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 15 trang )

MỘT SỐ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU TRONG NGHIÊN CỨU
CẢM NHẬN HẠNH PHÚC CỦA TRẺ EM
Nguyen Tuan Anh1
Truong Thi Khanh Ha2
Tóm tắt
Cảm nhận hạnh phúc và cảm nhận hạnh phúc của trẻ em là một trong
những hướng nghiên cứu trong tâm lý học ngày càng được quan tâm trong
bối cảnh hiện nay, song những dữ liệu về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
Việt Nam cịn chưa nhiều. Thơng qua việc sử dụng bảng hỏi tự báo cáo đối
với 1.565 trẻ em 10 và 12 tuổi tại 6 tỉnh, thành phố của nước ta, kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cảm nhận hạnh phúc của trẻ em Việt Nam ở mức
khá; trong đó, mức độ nhận thức cao hơn mức độ hạnh phúc cảm xúc. Giữa
cảm nhận hạnh phúc tổng thể và từng khía cạnh cảm nhận hạnh phúc ở
trẻ có mối tương quan thuận và rất chặt chẽ. Mức độ cảm nhận hạnh phúc
tổng thể và cảm nhận hạnh phúc về mặt nhận thức ở nhóm trẻ 10 tuổi cao
hơn nhóm trẻ 12 tuổi. Bên cạnh đó, trẻ em ở khu vực thành thị có mức độ
cảm nhận hạnh phúc cao hơn trẻ em ở khu vực nông thôn và miền núi, về
cả cảm nhận hạnh phúc tổng thể lẫn từng khía cạnh của cảm nhận hạnh
phúc. Nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn khái quát về mức độ cảm nhận
hạnh phúc của trẻ em Việt Nam, giúp cho các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ,
thầy cô hiểu được những gì trẻ đang cảm nhận trong cuộc sống, từ đó, lựa
chọn những cách thức giáo dục, định hướng trẻ phù hợp hơn, hướng đến mục
tiêu nâng cao mức độ cảm nhận hạnh phúc nói riêng và sức khỏe tâm lý nói
chung của trẻ em trong tương lai.
Từ khóa: hạnh phúc, cảm nhận hạnh phúc, trẻ em

Sản phẩm của đề tài Cảm nhận hạnh phúc của trẻ em Việt Nam, được tài trợ bởi Quỹ
Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) Mã số: 501.01-2020.300.
1
Youth Research Institute.
Email:


2
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Hanoi.

558


CHILDREN’S SUBJECT WELL-BEING
Abstract 
Subject well-being and children’s subject well-being is one of the research
directions in psychology that is increasingly interested, especially in the
current context, but data on Vietnamese children’s subject well-being not
much yet. Through the use of self-report questionnaires with 1,565 children
(including 10 and 12 year olds) in 6 provinces and cities of our country,
the research results have shown that the perceived well-being of Vietnamese
children in good level; in which, the level of cognitive well-being is higher than
the level of emotional well-being. There is a positive and very close correlation
between overall well-being and each aspect of well-being in children. The
level of overall well-being and cognitive well-being in the 10-year-old
group was higher than that of the 12-year-old group. In addition, children
in urban areas have a higher level of subject well-being than children in
rural and mountainous areas, both in terms of overall well-being and in
each aspect of well-being. This study provides an overview of the subject
well-being of vietnamese children in the current context, helping educators,
parents and teachers understand what children are feeling in life; thereby,
helping them have a scientific basis to choose appropriate education and
orientation methods, aiming to improve the level of well-being in particular
and psychological health in general of children in the future.
Keywords: well-being, subject well-being, children
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cảm nhận hạnh phúc đã trở thành chủ đề nghiên cứu phổ biến của các

nhà tâm lý học trong vài thập kỷ qua (Diener & cộng sự, 1999; Seligman &
Csikszentmihalyi, 2000, dẫn theo Trương Thị Khánh Hà & cộng sự, 2020).
Hầu hết mọi người cho biết họ muốn hạnh phúc, nghĩa là cảm thấy hài
lòng với cuộc sống của họ, thường xuyên trải qua những cảm xúc tích cực
và ít phải nếm trải các cảm xúc tiêu cực (Diener, 2000).
Hạnh phúc là một thuật ngữ khó để định nghĩa. Hiện nay khơng có
một định nghĩa chung về hạnh phúc mà tất cả các nước có văn hóa khác
nhau đều chấp nhận (Harper & cộng sự, 2007, dẫn theo Larsen & Lê Văn
559


Hảo, 2015). Hạnh phúc gồm hai thành tố là nhận thức và cảm xúc được
xác định thông quan mức độ yêu thích trong các trải nghiệm cuộc sống và
mức độ mà các nhu cầu và mong muốn cơ bản của con người được đáp
ứng (Diener, Lucas & Oishi, 2002). Theo Diener (2006), cảm nhận hạnh
phúc được hiểu là các đánh giá về mặt nhận thức và tình cảm của cá nhân
về cuộc sống, hoàn cảnh ảnh hưởng đến cuộc sống và các điều kiện sống
của họ (Diener, 2006). Thành phần nhận thức đề cập đến sự hài lòng của
cá nhân về cuộc sống nói chung và ở một số khía cạnh cụ thể, trong khi
thành phần cảm xúc đề cập đến những trải nghiệm cảm xúc tích cực và
tiêu cực của cá nhân (Diener, 2006). Chúng tơi đồng tình với quan điểm
của nhóm tác giả Diener, Lucas và Oishi (2002) khi cho rằng, cảm nhận
hạnh phúc bao gồm hai thành phần nhận thức là cảm xúc. Khi nghiên
cứu về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em, về cơ bản, chúng ta yêu cầu các
em đánh giá mức độ hài lòng với cuộc sống nói chung, với các khía cạnh
khác nhau của cuộc sống và cách các em cảm nhận về cuộc sống của mình
(Savahl và cộng sự, 2015). Hạnh phúc của trẻ em liên quan đến sự phát
triển của các em trong nhiều lĩnh vực, khơng chỉ ở khía cạnh điều kiện vật
chất mà cịn ở khía cạnh tình cảm (Bradshaw, Hoelscher & Richardson,
2006; Lau & Li, 2011; Minujin & Nandy, 2012).

Nhận thức
Cảm nhận hạnh phúc
Cảm xúc
Hình 1. Cấu trúc cảm nhận hạnh phúc
(mơ hình dựa trên quan điểm của nhóm tác giả
Diener, Lucas & Oishi, 2002)
Việc đo lường khái niệm trạng thái hạnh phúc gặp nhiều thách thức
đối với các nhà nghiên cứu, cho dù trong cuộc sống đó là vấn đề trung
tâm (Cummins & Lau, 2011, dẫn theo Larsen & Lê Văn Hảo, 2015). Lịch
sử nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em nếu so với người lớn thì
mới hơn (Savahl & cộng sự, 2015). Tuy vậy, điều này được cải thiện đáng
kể kể từ khi có những nghiên cứu quy mơ lớn mang tính quốc tế về sức
560


khỏe và hạnh phúc của trẻ em được thực hiện (Casas & Rees, 2015; Rees &
cộng sự, 2012). Những nghiên cứu này đã cung cấp cơ sở thực nghiệm cho
những hiểu biết của chúng ta về trẻ em, đồng thời cung cấp các công cụ đo
lường về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em. Các nghiên cứu đầu tiên về cảm
nhận hạnh phúc của trẻ em đã sử dụng các thang đo được áp dụng cho
người lớn. Tuy nhiên, nhiều công cụ dành riêng cho trẻ em từ 8-12 tuổi
đã được phát triển trong những năm gần đây (Casas, 2017). Nghiên cứu
này của chúng tôi đã áp dụng một trong số những thang đo lường đã từng
được sử dụng trước đó trong các cuộc khảo sát thế giới về hạnh phúc của
trẻ em nhằm mục tiêu đánh giá thực trạng cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; từ đó cung cấp một cái nhìn khái quát
về mức độ cảm nhận hạnh phúc của trẻ em Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay, giúp cho các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ, thầy cô hiểu được những gì
trẻ đang cảm nhận trong cuộc sống, từ đó, giúp họ có căn cứ khoa học để
lựa chọn những cách thức giáo dục, định hướng con phù hợp, hướng đến

mục tiêu nâng cao mức độ cảm nhận hạnh phúc nói riêng và sức khỏe tâm
lý nói chung của trẻ em trong tương lai.
Bài viết này sẽ lần lượt trả lời cho các câu hỏi: Cảm nhận hạnh phúc
của trẻ em Việt Nam hiện nay ở mức nào? Trong cấu trúc của cảm nhận
hạnh phúc ở trẻ thì khía cạnh nào biểu hiện rõ nét hơn? Và các khía cạnh
trong cấu trúc cảm nhận hạnh phúc có quan hệ với nhau hay khơng; nếu
có thì quan hệ theo chiều hướng nào?
II. KHÁCH THỂ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể gồm 1.565 trẻ em (không bao gồm trẻ em lang thang không
được đến trường; trẻ em khuyết tật), trong đó 747 trẻ 10 tuổi (chiếm
47,7%); 818 trẻ 12 tuổi (chiếm 52,3%); 835 trẻ nam (chiếm 53,4%) và 730
trẻ nữ (chiếm 46,6%); 651 trẻ sống ở thành thị (chiếm 41,6%); 520 trẻ ở
nông thôn (chiếm 33,2%); 394 ở miền núi (chiếm 25,2%).
Quá trình chọn khách thể trẻ em tham gia nghiên cứu được thực hiện
bằng cách: nhóm nghiên cứu liên hệ với ban giám hiệu của các trường học
để giới thiệu về mục đích nghiên cứu, đồng thời đề nghị nhà trường tạo
561


điều kiện cho nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát với trẻ em đang học tại
trường. Khi nhóm nghiên cứu về trường học, giáo viên chủ nhiệm đã được
nhà trường uỷ quyền hỗ trợ nhóm nghiên cứu thực hiện cuộc khảo sát với
các em đã được chọn tham gia khảo sát. Nhóm nghiên cứu chỉ điều tra
những em đã được bố mẹ đồng ý cho tham gia cuộc khảo sát. Khi chúng
tôi gặp trực tiếp các em trên lớp, chúng tơi giới thiệu rõ ràng cho các em về
mục đích nghiên cứu. Các thông tin cá nhân của các em được giữ bí mật
và chỉ được sử dụng cho mục đích khoa học. Việc tham gia khảo sát của
các em là hồn tồn tự nguyện. Các em có quyền dừng trả lời phiếu khảo
sát bất cứ khi nào các em không muốn trả lời tiếp. Điều tra viên trực tiếp

hướng dẫn các em làm phiếu và trả lời mọi thắc mắc hoặc giải thích những
vấn đề chưa hiểu rõ (nếu có) của các em trong tồn bộ q trình thực hiện
phiếu khảo sát.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu chính được sử dụng là bảng hỏi tự báo cáo.
Các công cụ chính được sử dụng gồm:
Thang đo cảm nhận hạnh phúc nhận thức
Thang đo này gồm 6 mệnh đề nói về cảm nhận của trẻ về cuộc sống
hiện tại như: “Em vui sướng với cuộc sống của em”; “Cuộc sống của em
ổn”; “Em có một cuộc sống tốt đẹp… Thang đo được thiết kế dạng likert
11 bậc từ 0-Hồn tồn khơng đồng ý đến 10-Hoàn toàn đồng ý. Hệ số
Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,925. Điểm trung bình càng cao phản
ánh mức độ cảm nhận hạnh phúc nhận thức của trẻ càng cao và ngược lại.
Thang đo cảm nhận hạnh phúc cảm xúc
Thang đo này gồm 6 mệnh đề nói về 6 cảm xúc phổ biến thuộc hai
chiều cảm xúc dương tính và cảm xúc âm tính mà trẻ em trải nghiệm trong
vòng 2 tuần trước thời điểm khảo sát như: “Hạnh phúc”; “Buồn bã”; “Căng
thẳng”; “Đầy năng lượng”… Thang đo cũng được thiết kế dạng likert 11
bậc từ 0-Không có chút nào đến 10-Ln ln. Hệ số Cronbach’s Alpha
của thang đo là 0,635. Những mệnh đề cảm xúc âm tính sẽ được đổi chiều
điểm trong q trình xử lý số liệu. Điểm trung bình càng cao phản ánh

562


mức độ cảm nhận hạnh phúc cảm xúc của trẻ càng cao và ngược lại. Đây
là thang đo đã được sử dụng trong cuộc khảo sát thế giới về hạnh phúc của
trẻ em lần thứ 3 (ISCWeB).
Các phép toán được sử dụng bao gồm: phần trăm; điểm trung bình
(M), độ lệch chuẩn (SD); tương quan; kiểm định T-Test và ANOVA.

Điểm cảm nhận hạnh phúc của trẻ em được tính bằng trung bình
cộng của giá trị điểm cảm nhận hạnh phúc nhận thức và cảm nhận hạnh
phúc cảm xúc. Điểm trung bình của mức độ cảm nhận hạnh phúc được
chúng tơi quy ước như sau:
Rất thấp

Thấp

Trung bình

Khá

Cao

0 – 2,00

2,01 – 4,00

4,01 – 6,00

6,01 – 8,00

8,01 – 10,0

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thực trạng cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
Từ dữ liệu khảo sát cho thấy, cảm nhận hạnh phúc của trẻ em ở mức
khá, với M = 7,14/10 (SD = 1,46). Độ phân tán điểm trung bình về mức
độ cảm nhận hạnh phúc ở trẻ là khoảng 20,4% cho thấy mức độ của khía
cạnh cảm nhận hạnh phúc nhận thức cao hơn khía cạnh cảm nhận hạnh

phúc cảm xúc (chênh lệch điểm trung bình lên tới 1,73 điểm; với mức ý
nghĩa p < 0,05). Xem xét mức độ cảm nhận hạnh phúc tổng thể trong toàn
mẫu khảo sát cho thấy, giá trị trung bình thấp nhất là 1,00 điểm và giá trị
cao nhất là 10,0 điểm. Điều này phản ánh rằng, có trẻ gần như khơng cảm
thấy hạnh phúc chút nào đối với cuộc sống hiện tại (có 1 em chiếm 0,1%);
trái lại, có những trẻ cảm thấy hạnh phúc tuyệt đối, ở cả hạnh phúc tổng
thể và trên cả hai khía cạnh nhận thức và cảm xúc (có 8 em chiếm 0,6%).
Về khía cạnh cảm nhận hạnh phúc nhận thức
Điểm trung bình cảm nhận hạnh phúc nhận thức ở trẻ đạt mức khá
(ĐTB = 7,99/10,0). Đánh giá về cuộc sống của mình “ổn” là biểu hiện nhận
thức rõ nét nhất trong cảm nhận hạnh phúc của trẻ về cuộc sống (M = 8,30;
SD = 2,33). Bên cạnh đó, đa số trẻ cũng đánh giá cuộc sống của mình
“hạnh phúc” (M = 8,13; SD = 2,56) và “tốt đẹp” (M = 8,09; SD = 2,51). Từ
563


kết quả này thấy rằng, trẻ thấy hạnh phúc khi nhận thức của các em về
cuộc sống là tích cực.
Về khía cạnh cảm nhận hạnh phúc cảm xúc
Điểm trung bình cảm nhận hạnh phúc cảm xúc ở trẻ đạt mức trung
bình (ĐTB = 6,26/10,0). Biểu hiện cảm nhận hạnh phúc về mặt cảm xúc
phổ biến nhất ở trẻ là “hạnh phúc” (M = 8,19; SD = 2,30); “đầy năng lượng”
(M = 8,07; SD = 2,64) và “bình tĩnh” (M = 7,49; SD = 2,61). Kết quả cho
thấy, những cảm xúc mang tính tiêu cực như “buồn bã”, “căng thẳng”; “tẻ
nhạt” thì có điểm trung bình thấp với độ lệch chuẩn khá cao. Tỉ lệ phân tán
điểm trung bình của những cảm xúc tiêu cực khá lớn, dao động từ 68,9%
đến 78,5%. Những dữ liệu trên cũng cho thấy, các cảm xúc dương tính
(tích cực) biểu hiện rất rõ nét ở trẻ.
Bảng 1. Mức độ cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
M


SD

1. Cảm nhận hạnh phúc nhận thức

7,99

2,16

1.1. Em vui sướng với cuộc sống của em

7,94

2,47

1.2. Cuộc sống của em ổn

8,30

2,33

1.3. Em có một cuộc sống tốt đẹp

8,09

2,51

1.4. Những gì diễn ra trong cuộc sống của em đều tuyệt vời

7,21


2,79

1.5. Em thích cuộc sống của em

8,08

2,56

1.6. Em hạnh phúc với cuộc sống của em

8,13

2,56

2. Cảm nhận hạnh phúc cảm xúc

6,26

1,57

2.1. Hạnh phúc

8,19

2,30

2.2. Buồn bã*

4,30


3,30

2.3. Bình tĩnh

7,49

2,61

2.4. Căng thẳng*

4,99

3,44

2.5. Đầy năng lượng

8,07

2,64

2.6. Tẻ nhạt*

4,47

3,51

Cảm nhận hạnh phúc tổng thể (trung bình chung)

7,14


1,46

Các khía cạnh cảm nhận hạnh phúc của trẻ em

Ghi chú: Những mệnh đề đánh dấu (*) là những mệnh đề mang ý nghĩa nghịch
đảo, đã được đổi chiều điểm khi xử lý số liệu.

564


So sánh cảm nhận hạnh phúc của trẻ em ở một số quốc gia (Hình 2)
cho thấy, Việt Nam thuộc nhóm những nước có mức độ cảm nhận hạnh
phúc của trẻ em ở mức khá (trong khoảng từ 7 đến 8 điểm), cùng nhóm
với các quốc gia như: Ba Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc. Tuy nhiên, khi so
sánh điểm trung bình với các quốc gia trong nhóm này thì cảm nhận hạnh
phúc tổng thể của trẻ em Việt Nam là thấp nhất (M = 7,14). Một số quốc
gia có cảm nhận hạnh phúc của trẻ em ở mức cao (điểm trung bình trên 8
điểm) như: Chi-lê; Indonesia; Nepal; Nam Phi và Israel. Thực tế cho thấy,
mỗi quốc gia có một trình độ phát triển khác nhau, với đặc điểm tình hình
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau, do đó, cảm nhận hạnh phúc
của người dân nói chung và trẻ em ở quốc gia đó nói riêng cũng khơng
giống nhau. Chính văn hóa mới quyết định điều gì được coi là vui, thích
và làm sao để thoả mãn các nhu cầu (Kitayama Markus, 2000, dẫn theo
Larsen & Lê Văn Hảo, 2015). Nói cách khác, văn hóa tạo nên sự hiểu biết
của chúng ta về ý nghĩa của hạnh phúc do các nền văn hóa khác nhau
rất lớn về hệ giá trị và hành vi (Larsen & Lê Văn Hảo, 2015). Theo Lau,
Cummins và McPherson (2005), những người tham gia khảo sát đến từ
các nền văn hóa cộng đồng ở Đông Á thường tự cho điểm thấp hơn trong
các công cụ đo lường trạng thái hạnh phúc chủ quan vì họ bị ảnh hưởng

bởi tính khiêm tốn.

Hình 2. So sánh xuyên văn hóa về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
Nguồn: Khảo sát thế giới về hạnh phúc của trẻ em lần thứ 3 – ISCIWeB,
công bố năm 2021
565


Kết quả kiểm định tương quan Pearson cho thấy, giữa cảm nhận hạnh
phúc tổng thể và các khía cạnh của cảm nhận hạnh phúc có một mối tương
quan thuận và rất chặt chẽ. Cụ thể, hệ số tương quan giữa các biến số gồm:
rCNHP tổng thể – CNHP nhận thức = 0,853 (p < 0,01); rCNHP tổng thể – CNHP cảm xúc = 0,699
(p < 0,01); rCNHP nhận thức – CNHP cảm xúc = 0,224 (p < 0,01). Kết quả này có ý nghĩa
rằng, khi trẻ em có mức độ cảm nhận hạnh phúc tổng thể càng cao thì các
khía cạnh của cảm nhận hạnh phúc (bao gồm cảm nhận hạnh phúc nhận
thức và cảm nhận hạnh phúc cảm xúc) cũng càng cao và ngược lại. Bên
cạnh đó, khi trẻ có mức độ cảm nhận hạnh phúc nhận thức càng cao thì
mức độ cảm nhận hạnh phúc cảm xúc cũng càng cao và ngược lại.
Cảm nhận hạnh phúc
tổng thể
0,853**

Cảm nhận hạnh phúc
nhận thức

0,699**

0,224**

Cảm nhận hạnh phúc

cảm xúc

Ghi chú: (**) khi p < 0,01.
Hình 3. Tương quan giữa cảm nhận hạnh phúc tổng thể
và các khía cạnh của cảm nhận hạnh phúc
3.2. Khác biệt về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em theo một số biến
nhân khẩu
Theo nhiều nghiên cứu, các biến nhân khẩu học chưa được chứng
minh là có tương quan một cách rõ rệt với cảm nhận hạnh phúc ở cả người
lớn (Myers & Diener, 1995; Diener & cộng sự, 1999) cũng như ở trẻ em
và thanh thiếu niên (Huebner & cộng sự, 2014; Gilman & Huebner, 2003;
Casas, 2011). Rees và cộng sự (2010) phát hiện ra rằng sự kết hợp của tất
cả các yếu tố nhân khẩu học xã hội chỉ giải thích được khoảng 7% tổng
sự thay đổi trong cảm nhận hạnh phúc. Kết luận này rút ra từ nghiên cứu
566


trên một mẫu đại diện gồm 7.000 thanh niên trong độ tuổi 10-15 ở Anh.
Tuy vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã khám phá ra những khác biệt
trong cảm nhận hạnh phúc giữa những trẻ em ở các độ tuổi khác nhau và ở
những khu vực sinh sống khác nhau, dù những khác biệt này là không lớn.
Theo giới tính
Kết quả kiểm định cho thấy, trong nghiên cứu này của chúng tơi
khơng có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa nhóm trẻ em nam
và trẻ em nữ (p > 0,05). Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã kết luận rằng,
điểm trung bình về cảm nhận hạnh phúc ở nam và nữ về căn bản không
khác nhau (dẫn theo Trương Thị Khánh Hà và cộng sự, 2020). Theo nhiều
tác giả, yếu tố giới tính chỉ chiếm chưa đến 1% trong sự thay đổi về cảm
nhận hạnh phúc (Fujita, Diener & Sandvik, 1991, dẫn theo Trương Thị
Khánh Hà & cộng sự, 2020).

Trên thực tế, sự khác biệt về giới trong cảm nhận hạnh phúc của trẻ
em là khơng nhất qn. Nhiều nghiên cứu khơng thể tìm thấy sự khác
biệt giữa trẻ em nam và trẻ em nữ (Huebner & cộng sự, 2006; Seligson &
cộng sự, 2003; Proctor & cộng sự, 2009) trong khi một số nghiên cứu khác
lại báo cáo những kết quả ngược lại (Bradshaw & cộng sự, 2011). Một số
nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi trong các kết quả thu được là tùy thuộc
vào loại thang đo cảm nhận hạnh phúc được sử dụng. Casas và cộng sự
(2013) cho thấy trẻ em nữ hài lòng hơn trẻ em nam khi sử dụng thang đo
đa chiều nhiều lĩnh vực, nhiều mệnh đề hỏi; trong khi khơng có sự khác
biệt nào được tìm thấy giữa nam và nữ khi sử dụng thang đo về mức độ hài
lịng chung về cuộc sống (hỏi khơng theo ngữ cảnh).
Theo tuổi
Chúng tơi phát hiện ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ 10 tuổi
và trẻ 12 tuổi về mức độ cảm nhận hạnh phúc tổng thể và cảm nhận hạnh
phúc nhận thức. Theo đó, nhóm trẻ 10 tuổi đồng thời vừa có cảm nhận
hạnh phúc tổng thể và cảm nhận hạnh phúc nhận thức cao hơn nhóm
trẻ 12 tuổi (với mức chênh lệch điểm trung bình lần lượt là 0,21 và 0,47
điểm; p < 0,05). Tuy nhiên, trên thực tế, hai nhóm này khơng có sự chênh
lệch và khác biệt quá lớn về tuổi, do đó, sự khác biệt cũng không thực sự
nhiều. Trẻ 10 tuổi (tương ứng trẻ học lớp 5) dường như được quan tâm,
567


chăm sóc nhiều hơn nhóm trẻ 12 tuổi (tương ứng trẻ học lớp 7) nên phải
chăng cảm nhận hạnh phúc của nhóm trẻ em 10 tuổi cao hơn nhóm trẻ 12
tuổi chăng? Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong tương lai để
có những lý giải sát đáng hơn. Theo tìm hiểu của chúng tơi, chỉ có một số
nghiên cứu đã xem xét mối quan hệ giữa tuổi và cảm nhận hạnh phúc của
trẻ em và thanh thiếu niên. Dường như, cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
có xu hướng giảm dần theo độ tuổi, đặc biệt là từ trong giai đoạn thời thơ

ấu đến tuổi vị thành niên (Klocke & cộng sự, 2014; Rees & cộng sự, 2010).
Theo khu vực sinh sống
Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy, trẻ em sống tại khu vực thành
thị có mức độ cảm nhận hạnh phúc cao hơn trẻ em sống tại khu vực
nông thôn và khu vực miền núi ở tất cả các khía cạnh, bao gồm cảm nhận
hạnh phúc tổng thể cũng như từng khía cạnh của cảm nhận hạnh phúc.
Trong đó, chênh lệch về mức độ cảm nhận hạnh phúc giữa những trẻ em
sống tại khu vực thành thị và trẻ em sống tại khu vực miền núi là khá cao
(p < 0,05). Theo Wang và Wang (2016), bối cảnh địa lý và khác biệt về
không gian là rất quan trọng để giải thích cảm nhận hạnh phúc chủ quan.
Bối cảnh thành thị, nông thôn và miền núi có thể ảnh hưởng đến hạnh
phúc con người do nhiều lý do khác nhau như: cơ hội về thị trường lao
động, tiếp cận cơ hội giáo dục, tiếp cận các dịch vụ công, mức độ hỗ trợ xã
hội và các đặc điểm môi trường. Schucksmith và cộng sự (2009) kết luận
rằng, sự khác biệt về cảm nhận hạnh phúc giữa thành thị và nông thôn
là tối thiểu ở các nước giàu trong khi những khác biệt này là lớn ở các
nước nghèo hơn. Atay (2012) đã phân tích dữ liệu khảo sát giá trị châu Âu
và nhận thấy rằng những người sống ở thành thị hạnh phúc hơn những
người sống ở nông thôn và miền núi.

568


Bảng 2. Khác biệt về cảm nhận hạnh phúc của trẻ em theo một số biến số
Đặc điểm mẫu
Độ
tuổi

Cảm nhận hạnh Cảm nhận hạnh Cảm nhận hạnh
phúc tổng thể phúc nhận thức phúc cảm xúc

ĐTB

ĐLC

ĐTB

ĐLC

10 tuổi

7,25

1,40

8,23

2,05

12 tuổi

7,04

1,51

7,76

2,23

T-test
Thành thị (I)


Nông thôn (II)
Khu
Miền núi (III)
vực
sinh
sống ANOVA

t=2,694; p=0,007 t=4,249; p=0,000

ĐTB

ĐLC

Khơng có
khác biệt

7,46

1,34

8,41

2,00

6,52

1,52

7,15


1,45

8,19

2,03

6,13

1,58

6,47

1,50

6,95

2,25

5,95

1,58

F = 51,344;
p = 0,000
(I) > (II);
(I) > (III)

F = 59,894;
p = 0,000

(I) > (II);
(I) > (III)

F = 17,653;
p = 0,000
(I) > (II);
(I) > (III)

Ghi chú: Bảng trên chỉ thể hiện những số liệu có ý nghĩa về mặt thống kê.
IV. KẾT LUẬN CHUNG
Bài viết đã phân tích khái quát cảm nhận hạnh phúc của trẻ em về
cuộc sống nói chung. Kết quả cho thấy, cảm nhận hạnh phúc của trẻ em
Việt Nam ở mức khá; trong đó, mức độ hạnh phúc về mặt nhận thức cao
hơn mức độ hạnh phúc về mặt cảm xúc. Giữa cảm nhận hạnh phúc tổng
thể và từng khía cạnh cảm nhận hạnh phúc ở trẻ có mối tương quan thuận
và rất chặt chẽ. Mức độ cảm nhận hạnh phúc tổng thể và cảm nhận hạnh
phúc về mặt nhận thức ở nhóm trẻ 10 tuổi cao hơn nhóm trẻ 12 tuổi. Bên
cạnh đó, trẻ em ở khu vực thành thị có mức độ cảm nhận hạnh phúc cao
hơn trẻ em ở khu vực nông thôn và miền núi, về cả cảm nhận hạnh phúc
tổng thể lẫn từng khía cạnh của cảm nhận hạnh phúc. Những phát hiện
của nghiên cứu góp phần giúp cho các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ, thầy
cơ hiểu được những gì trẻ đang cảm nhận trong cuộc sống, từ đó, giúp họ
có căn cứ khoa học để lựa chọn những cách thức giáo dục, định hướng
con phù hợp, hướng đến mục tiêu nâng cao mức độ cảm nhận hạnh phúc
nói riêng và sức khỏe tâm lý nói chung ở trẻ em. Nghiên cứu về cảm nhận
hạnh phúc của trẻ em là một hướng nghiên cứu tuy không mới trên thế
569


giới song lại là một hướng nghiên cứu đầy triển vọng trong bối cảnh hội

nhập mạnh mẽ ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, chúng tơi kỳ vọng vấn đề
này sẽ tiếp tục được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn trong tương lai; đặc
biệt là ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến cảm nhận hạnh
phúc của trẻ em như: bầu khơng khí tại trường học; mối quan hệ với thầy
cô giáo, bè bạn; mối quan hệ hay sự gắn bó với cha mẹ; thành tích học tập…
Thứ hai, nghiên cứu cảm nhận hạnh phúc của trẻ em Việt Nam trên
một phạm vi rộng hơn, mang tính đại diện cao hơn. Đặc biệt, việc nghiên
cứu không chỉ thực hiện đối với những trẻ em đang đi học mà còn cả đối
với những trẻ em không được đến trường, trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ
em khuyết tật…
Thứ ba, nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy cảm nhận hạnh phúc của trẻ
em hay những giải pháp giúp nâng cao mức độ cảm nhận hạnh phúc của
trẻ em trong gia đình, tại trường học hay tại nơi sinh sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Atay, B. (2012). Happiness in East Europe in comparison with Turkey (master’s
dissertation). İstanbul: Retrieved from Ulusal Tez Merkezi (322147).
Bradshaw J., Hoelscher P., Richardson D. (2007). An Index of Child Well-being
in the European Union.  Soc. Indic. Res.  2006; 80:133-177. doi: 10.1007/
s11205-006-9024-z
Bradshaw, J., Keung, A., Rees, G., & Goswami, H. (2011). Children’s subjective
well-being: International comparative perspectives. Children and Youth
Services Review, 33, 548-556.
Casas, F., and Rees, G. (2015). Measures of children’s subjective well-being:
analysis of the potential for cross national-comparisons.  Child Indicat.
Res., 8, 49-69.
Casas, F. (2017). Analysing the comparability of 3 multi-item subjective wellbeing psychometric scales among 15 countries using samples of 10 and
12-Year-Olds.  Child Indicat. Res.,  10, 297-330. doi: 10.1007/s12187-0159360-0
Casas, F., Bello, A., Gonza´lez, M., & Aligue, M. (2013). Children’s subjective
well-being measured using a composite index: What impacts Spanish first570



year secondary education students’ subjective wellbeing? Child Indicators
Research, 6(3), 433-460.
Casas, F. (2011). Subjective social indicators and child and adolescent well-being.
Child Indicators Research, 4(4), 555-575.
Diener (2000). Subjective well-being: the science of happiness and a proposal
for a national index.  American Psychologist,  2000; 55(1), 34-43. doi:
10.1037//0003-066x.55.1.34
Diener E., Lucas R.E and Oishi S. (2002). Subjective well-being: The science of
happiness and life satisfaction. Handbook of Positive Psychology, 2, 63-73.
Diener (2006). Guidelines for national indicators of subjective well-being and
ill-being. Journal of Happiness Studies, 2006; 7(4), 397-404. doi: 10.1007/
s10902-006-9000-y
Diener, E., Suh, E. M., Lucas, R. E., & Smith, H. L. (1999). Subjective well-being:
Three decades of progress. Psychological Bulletin, 125(2), 276-302.
Gilman, R., & Huebner, S. (2003). A review of life satisfaction research with
children and adolescents. School Psychology Quarterly, 18(2), 192-205.
Huebner, E. S., Hills, K. J., Jiang, X., Long, R. F., Kelly, R., & Lyons, M. D. (2014).
Schooling and children’s subjective well-being. In A. Ben-Arieh, F. Casas,
I. Frones, & J. E Korbin (Eds.). Handbook of child well-being, 797-819.
Dordrecht: Springer.
Huebner, E. S., Seligson, J. L., Valois, R. F., & Suldo, S. M. (2006). A review of
the brief multidimensional students’ life satisfaction scale. Social Indicators
Research, 79(3), 477-484.
ISCIWeB. 2021. Childrens Worlds Comparative Report 2020. Available online;
(accessed on 22 May 2021).
Klocke, A., Clair, A., & Bradshaw, J. (2014). International variation in child
subjective well-being. Child Indicators Research, 7, 1-20.
Knud Larsen, Lê Văn Hảo (2015). Tâm lý học Xuyên văn hóa. NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.
Lau M.K.W., Li W. (2011). The extent of family and school social capital
promoting positive subjective well-being among primary school children
in Shenzhen, China.  Child. Youth Serv. Rev.,  2011; 33, 1573-1582. doi:
10.1016/j.childyouth.2011.03.024
Lau, A. L. D., Cummins, R. A., & McPherson, W. (2005). An Investigation into
the Cross-Cultural Equivalence of the Personal Wellbeing Index.  Social

571


Indicators Research, 72(3), 403-430.  />Minujin A., Nandy S. (2012). Global Child Poverty and Well-Being: Measurement,
Concepts, Policy and Action. The Policy Press. Bristol, UK: 2012. 
Myers, D. G., & Diener, E. (1995). Who is happy? Psychological Science, 6, 10-19.
Proctor, C. L., Linley, P. A., & Maltby, J. (2009). Youth life satisfaction: A review
of the literature. Journal of Happiness Studies, 10(5), 583-630.
Rees, G., Goswami, H., Pople, L., Bradshaw, J., Keung, A., and Main, G. (2012). The
good childhood report 2012: A review of our children’s well-being.  New
York: Springer.
Rees, G., Bradshaw, J., Goswami, H., & Keung, A. (2010). Understanding children’s
well-being: A national survey of young people’s well-being. London: The
Children’s Society.
Savahl, S., Malcolm, C., Slembrouck, S., Adams, S., Willenberg, I. A., & September,
R. (2015). Discourses on well-being. Child Indicators Research. https://doi.
org/10.1007/s12187-014-9272-4.
Schucksmith, J., et. al., (2009). A critical review of the literature on children and
young people’s views of the factors that influence their mental health. NHS
Health Scotland, Edinburgh.
Seligson, J. L., Huebner, E. S., & Valois, R. F. (2003). Preliminary validation of the
brief multidimensional students’ life satisfaction scale (BMSLSS). Social

Indicators Research, 61(2), 121-145.
Trương Thị Khánh Hà, Trịnh Thị Linh, Trần Hà Thu, Trương Quang Lâm (2020).
Cảm nhận hạnh phúc và những yếu tố ảnh hưởng. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Wang, F., & Wang, D. (2016). Geography of urban life satisfaction: An empirical
study of Beijing.  Travel Behaviour and Society,  5,  14-22. doi:  10.1016/j.
tbs.2015.10.001

572



×