Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Câu hỏi ôn thi Mác Lê nin (VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.73 KB, 42 trang )

Câu 1: Khái niệm triết học
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ
thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại
như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp.
 Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( ); người Trung Quốc hiểu
triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính
là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
 Ở ấn Độ, thuật ngữ dar’sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm ý là tri
thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
 Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang
tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thơng thái. Với người Hy Lạp,
philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động
tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung
cơ bản giống nhau:
- Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất
chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội lồi người, của con người trong
cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy.
- Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư
cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều
kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung
trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống
hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có


nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Những người có trọng trách trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng, của dân tộc đã
nhận thức đúng đắn giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học
thuyết triết học Mác - Lênin nói riêng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Những người cộng sản ưu tú của Việt Nam cùng các nhà lý luận của Đảng đã rất cẩn trọng
rà soát, nghiên cứu và nhận thức lại hệ thống quan điểm lý luận của các nhà kinh điển về triết học,
về kinh tế – chính trị học cũng như về chủ nghĩa xã hội khoa học và đối chiếu nó với tình hình thực
tế đang diễn ra trên thế giới và trong nước. Một số cơng trình nghiên cứu đã cho thấy rằng, còn
tuyệt đại bộ phận, đặc biệt các nguyên tắc, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, nhất là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, các
nguyên lý, nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ
nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại trật tự
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

1


Những người Việt Nam có tư duy lý luận rất tán thành với những nhận định khách quan, nghiêm
túc của một số học giả nổi tiếng trên thế giới về triết học Mác. V.I.Lênin đã đánh giá học thuyết
Mác là một học thuyết hồn bị và triệt để nhất, nó soi sáng cho những người cách mạng trong cuộc
đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Người đã bổ sung vào học thuyết Mác nhiều luận
thuyết mới được rút ra từ sự vận động, phát triển khơng ngừng của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh
của chúng ta cũng đã từng khẳng định rằng, bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là lơgíc của
lịch sử, là niềm tin khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong định hướng
đổi mới vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Lập trường thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã góp phần quan trọng để
cho Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam nhận thức đúng đắn các vấn đề thời đại có

quan hệ chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận.
Tư duy lý luận Việt Nam bước đầu đã phản ánh được những phát triển mới của thế giới, như
sự phát triển của sản xuất vật chất, sự xuất hiện của kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại; q trình tồn cầu hố đang diễn ra, sự thích nghi và phát
triển cao của chủ nghĩa tư bản, sự trì trệ và xuất hiện khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Nhờ phân tích cụ thể tình hình cụ thể trong sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới
đương đại, chúng ta đã bổ sung cho mình sự hiểu biết mới và từng bước điều chỉnh chủ trương,
chính sách phát triển cho phù hợp với thực tiễn.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, mặc dù thế giới có nhiều biến đổi, nhưng thời đại hiện
nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; các mâu thuẫn cơ bản của thời
đại không thay đổi, nhưng chúng đã có nhiều đặc trưng mới. Do vậy, việc Việt Nam lựa chọn mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng xu thế của thời đại, nhưng phải chấp nhận những
thử thách chưa từng có. Đặc biệt, khi tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng đã
thay đổi, bắt buộc phải thiết lập các quan hệ phù hợp, tổ chức lại lực lượng trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Theo đó, các nhà lý luận Việt Nam đã nhận thức đúng tính chất, vai trị của cuộc cách mạng
khoa học và cơng nghệ hiện đại đối với sự phát triển của cộng đồng thế giới cũng như từng quốc
gia dân tộc; coi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa là một nhân tố mới, vừa là
động lực của thời đại. Từ thực tế cuộc sống, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phát triển giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đó là cơ sở để chúng ta tăng
cường đầu tư cho các lĩnh vực này nhằm nhanh chóng tiếp cận tri thức tiên tiến, công nghệ hiện
đại, khắc phục sự lạc hậu quá xa so với sự phát triển của thế giới.
Thứ nữa, xu thế tồn cầu hố, trước hết là tồn cầu hố kinh tế, sự xuất hiện của kinh tế tri
thức và vai trò to lớn của nó trong sản xuất vật chất, xu hướng gia tăng sự hợp tác quốc tế, khu vực
thông qua các mối quan hệ đa phương, song phương đã làm cho tư duy về thế giới đương đại trở
nên năng động hơn. Vì vậy, cần phải xuất phát từ thực tế đó để xây dựng một tư duy tồn diện hơn
về thế giới và lựa chọn chính sách đối nội, đối ngoại thích hợp. Đổi mới tư duy về thế giới đương
đại lại là cơ sở cho việc phát triển quan hệ quốc tế của Việt Nam, tranh thủ ngoại lực, phát huy nội
lực để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy

đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Đây là thành công đáng ghi nhận trong đổi mới tư duy lý luận của chúng ta trong suốt 20
năm qua.
Dựa trên việc phân tích các nhân tố tác động của thời đại và xuất phát từ thực tiễn của đất
nước, tư duy lý luận Việt Nam đã đánh giá một cách khách quan, khoa học các thành quả mà cách
mạng Việt Nam đã đạt được, khẳng định sự lựa chọn mục tiêu đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng đắn. Mục tiêu đó vừa phản ánh tính tất yếu lịch sử, vừa đáp ứng

2


nguyện vọng cháy bỏng của bao thế hệ con người Việt Nam. Chân lý ấy đã được thực tiễn cách
mạng Việt Nam kiểm nghiệm và thấm vào máu thịt của con người Việt Nam. Nhiều thế hệ người
Việt Nam đã quyết chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu cao đẹp đó.
Kết quả tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước được thể hiện thành sự lựa chọn
mô hình, bước đi, chính sách cho q trình phát triển đất nước. Tuân thủ quy luật vận động khách
quan của lịch sử, chủ động tận dụng các cơ hội hiện có, đồng thời phân tích đúng đắn sự tác động
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc th ượng
tầng, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt
Nam đã lựa chọn được đường lối, mơ hình phát triển thích hợp, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là kết quả, là sự hội tụ của tư tưởng chính trị, triết
học, kinh tế, chủ nghĩa xã hội, các giá trị truyền thống của Đảng, của dân tộc trong quá trình đổi
mới đất nước.
Như vậy, các ý tưởng đổi mới đất nước, con người và tổ chức thực hiện sự đổi mới ở Việt
Nam theo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và phát triển xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải có tư
duy lý luận, trong đó tư duy triết học là chìa khố phương pháp luận khoa học. Từ những thành
cơng của chúng ta, có thể khẳng định rằng, triết học Mác - Lênin có vai trị to lớn và đặc biệt quan
trọng đối với tiến trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam.

3



2. Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan
 Thế giới quan: Là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm
tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao gồm cá nhân, xã hội và cả
nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong
định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Thế giới quan là một chỉnh thể luận điểm có trật tự, tổng hợp, có tính hệ thống, phức hợp cả
nhân tố lý tính, cảm nhận, cảm xúc và thấu hiểu thế giới, con người, những luận điểm sống
tích cực cho con người.
 Thành phần của Thế giới quan: Thế giới quan hình thành gồm những yếu tố thuộc về tất
cả thuộc hình thái ý thức xã hội:
- Quan điểm khoa học, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ
- Quan điểm tôn giáo: sản phẩm của tâm thức, mô tả kiến thức qua trực giác cảm nhận.
- Kiến thức Khoa học nhằm đến mục tiêu phương hướng thực tiễn trực tiếp cho con người
trong tự nhiên và xã hội dựa theo quan sát và dữ kiện từ thực tiễn, phân tích tổng hợp chặt
chẽ và có kiểm nghiệm đối sách khách quan lại với thực tiễn. . Để trả lời được thế giới quan
dựa trên mọi thành tựu đạt được, được xác thực của khoa học.
- Các ngun tắc và tiêu chuẩn đạo đức đóng vai trị điều chỉnh những quan hệ qua lại và
hành vi của con người.
- Những quan điểm thẩm mỹ quy định những quan hệ với mơi trường xung quanh, với những
hình thức, mục tiêu và kết quả của hoạt động.
- Quan điểm triết học: Triết học là dạng thức quan trọng nhất đóng vai trị trung tâm cho thế
giới quan. Những vấn đề triết học là những vấn đề có mối liên hệ cao nhất, thường hằng của
lý tính nhân loại, đó là những vấn đề về số mệnh, tiền định của nhân loại, về chính lý tính
và những giá trị cao cả của con người. Sống vì cái gì và sống ra sao? Làm thế nào để cuộc
sống thực sự trở nên sáng suốt và hạnh phúc, cũng như làm thế nào để sống cho ra sống.
Những vấn đề đó khơng thể giải quyết được một cách triệt để bởi vì mỗi thời đại chúng lại
được đặt ra trước con người một cách mới mẻ. Mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại, mỗi
thành quả của kinh nghiệm xã hội, mỗi mốc đánh dấu sự tiến bộ trong lịch sử khoa học đều

mở ra trước lý tính triết học những giới hạn hiện thực mà trước đó chưa được biết tới, tạo ra
khả năng phát hiện ngày càng nhiều luận cứ quan trọng trong tranh biện triết học. Bởi vậy,
Thế giới quan triết học có thể đồng nghĩa với sự phản tư văn hóa của một dân tộc, một thời
đại.
Quan điểm và niềm tin triết học tạo nên nền tảng cho thế giới quan đúng đắn bởi:
 Triết học lý giải về lý luận toàn bộ các dữ liệu của khoa học và thực tiễn
 Triết học biểu diễn kết quả và hình thức một bức tranh thực tại khách quan nhất.
VAI TRÒ CỦA THẾ GIỚI QUAN TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU
1.Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới
quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn
cách thức đạt mục đích đó.
Nhờ căn cứ vào thế giới quan đã tạo tiền đề giúp cho cá nhân có những định hướng phù hợp
và chuẩn xác cho từng cá nhân, cơ bản là em cho quá trình phát triển, hoạt động của mình. Thơng
quan thế giới quan là hệ thống các tri thức phối hợp với tình cảm nhằm cân nhắc mục tiêu cơ bản
của cá nhân. Cụ thể ở đây là xác định rõ mục tiêu hoàn thiện bản thân theo đúng những chuẩn mực
được quy định về tri thức và góp phần xây dựng cho xung quanh nhằm nhận thức, truyền tải và
mang lại những thông điệp, những giá trị và bài học cho bản thân, gia đình và xã hội.
Cụ thể qua những hoạt động tham gia các buổi thảo luận trao đổi kinh nghiệm trong việc
ứng dụng và nâng cao kiến thức trong chuyên ngành, lĩnh vực của bản thân do các đơn vị có liên

4


quan như trường lớp, cơng ty,… tổ chức. Nó thể hiện rõ hơn về các tác động tích cực tuyệt đối đến
từ thế giới quan ( tự làm tiếp nha  )
2. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của
mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định
Môi trường lĩnh hội tri thức như trường hoc và giảng viên
3. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn

và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
4. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con
người sáng tạo trong hoạt động. Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ
động hoặc sai lệch trong hoạt động.Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn
thiện thế giới quan.

5


3. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Khái niệm triết học.
Triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con
người trong thế giới đó.
b. Vấn đề cơ bản của triết học.
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn
đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học bởi hai lẽ: thứ
nhất, nó nảy sinh cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả các trường phái triết học
cho tới tận ngày nay; thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề triết học
khác còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các nhà triết học cũng như
các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (bản thể luận): Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (nhận thức luận): Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay khơng?
c. Sự đối lập giữa giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học:
- Mặt thứ nhất:
+ Các nhà duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính
thứ hai, vật chất là cái có trước và quyết định ý thức của con người; Học thuyết của họ hợp thành
các trường phái chủ nghĩa duy vật khác nhau như: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật

siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Ngược lại, các nhà duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật
chất là tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất; Học thuyết của họ hợp thành các trường phái duy
tâm khác nhau; Có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan (coi sự vật, hiện tượng chỉ
là “phức hợp các cảm giác” của cá nhân, hay cái Tơi trừu tượng nào đó) và chủ nghĩa duy tâm
khách quan (coi tinh thần/ý thức khách quan, có trước và tồn tại độc lập so với giới tự nhiên và con
người, chẳng hạn Thượng đế, linh hồn vũ trụ, ý niệm tuyệt đối, lý tính thế giới… là nền tảng của
thế giới).
- Mặt thứ hai: Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học đã chia quan điểm về
nhận thức thành hai phái khả tri luận và bất khả tri luận.
+ Khả tri luận: Phái bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người.
+ Bất khả tri luận: Phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng nhận thức của con ng

6


4. Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật là quan điểm của các triết gia, học thuyết coi vật chất, tự nhiên có trước và
quyết định ý thức, tinh thần của con người. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng thế
giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người; ý thức xét cho cùng chỉ là
sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào trong đầu óc con người.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó
ln gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại với nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có ba hình thức biểu hiện cơ bản sau:
 Chủ nghĩa duy vật chất phác (thời cổ đại): là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn
này để lý giải tồn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể,
cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới.
– Ví dụ: Quan niệm của Talet, Hêraclit, Đêmơcrit
 Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVII-XVIII ) hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa

duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII và đỉnh cao vào thế
kỉ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kì mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên
trong khi tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của
cơ học cổ điển. Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, thế giới giống như
một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó ln ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại;
nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do những ngun nhân
bên ngồi gây ra
– Ví dụ: Các quan niệm của Newton, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác
và Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.
Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành
tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời để khắc
phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa siêu hình và là
đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó là kết quả của q trình đúc kết, khái
qt hố những tri thức của nhân loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan
điểm lý luận chung, đồng thời định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn của mình

7


5. Chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức
và thuộc về tâm thức. Là một nền tảng của ngành vũ trụ học, hay một cách tiếp cập tới hiểu biết về
sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật.
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dưới 2 dạng chủ yếu, đó là chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
1. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan

a. Khái niệm: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan
và coi nó là một cái gì đó hồn tồn do tính tích cực của chủ thể quy định.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng như Béccli, Hium, Phíchtơ,…
lại cho rằng cảm giác, ý thức là cái có trước và tồn tại sẵn trong con người, trong chủ
thể nhận thức, cịn các sự vật bên ngồi chỉ là phức hợp của cái cảm giác ấy mà thôi.
b. Dẫn chứng: Người Duy tâm chủ quan cho rằng nếu không có cảm giác chủ quan của
chủ thể, tức cảm giác của mỗi cá nhân con người thì khơng thể nhận thức được sự
vật, rồi từ đó phủ nhận sự tồn tại thực sự của vật chất, coi cảm giác là thực tại duy
nhất.
2. Chủ nghĩa duy tâm khách quan
a. Khái niệm: Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận ý thức và tinh thần là thuộc
tính thứ nhất (có trước), vật chất là thuộc tính thứ hai (có sau), và coi cơ sở tồn tại
không phải là tâm thức con người theo như quan niệm của Chủ nghĩa duy tâm chủ
quan mà là một tâm thức nào đó ở bên ngồi thế giới như "tinh thần tuyệt đối", "lý
tính thế giới", v.v...
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng như Platon, Hêghen,…cho
rằng có một thực thể tinh thần không chỉ tồn tại trước, tồn tại ở bên ngoài, độc lập
với con người và với thế giới vật chất mà còn sản sinh ra và quyết định tất cả các quá
trình của thế giới vật chất.
b. Dẫn chứng: Người Duy tâm khách quan thì cho rằng sự vật chỉ tồn tại do một ý thức
khách quan là Thượng Đế. Do đó, chủ nghĩa Duy tâm thường trực tiếp hay gián tiếp gắn
liền với tôn giáo, nên gọi là chủ nghĩa Duy linh (linh là linh hồn). Con người có cái tâm
hay linh hồn là chủ yếu, nó tồn tại vĩnh viễn, điều khiển mọi hoạt động của thể xác. Thể
xác chỉ là khối vật chất, khi có linh hồn ngự trị thì thể xác sống và hoạt động; khi thể
xác chết thì linh hồn xuất ra trở về cõi thiêng liêng, cịn thể xác thì tan rã trở thành đất.
Thế giới vật chất nầy cũng như sự sống trong thế giới đều do quyền năng sáng tạo của
Thượng Đế. Dù không biết rõ Thượng Đế nhưng không thể phủ nhận quyền năng của
Ngài.
Ví dụ: Nếu có một cái ghế tồn tại ở đâu đó trên trái đất, nhưng ta không biết đến sự tồn tại của cái
ghế đó, thì cái ghế đó liệu có tồn tại hay khơng? Người duy vật bảo là có, người duy tâm bảo là

không.

8


6. Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi
Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới khơng?
 Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một
cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới.
 Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa là
tơi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận
nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng
con người khơng thể đạt tới chân lý khách quan. Hồi nghi luận thời Phục hưng lại có tác
dụng quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội
thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tơn giáo


Thuyết bất khả tri (thuyết khơng thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hồi
nghi luận. Theo thuyết này, con người khơng thể hiểu được thế giới hay ít ra là khơng thể
nhận thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngồi vì các hình ảnh về
đối tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ
nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.

Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ (nhà triết
học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, mà cũng
khơng thể biết được sự vật đó có tồn tại hay khơng. Cịn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế giới sự
vật tồn tại, ơng gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta khơng thể nhận thức được bản chất thế giới
ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thơi.
Thuyết khơng thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph. Ăngghen
đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất.

“Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết
học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và cơng nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được
tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng
ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, cịn bắt nó phải
phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ khơng cịn có cái “vật tự nó” khơng thể nắm được của Cantơ
nữa”

9


7. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm phép biện chứng
- Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận
động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã
hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm:
+ Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của
con người.
- Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ
thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương
pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan.
Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng
của thế giới trong trạng thái cô lập tĩnh tại và tách rời.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Trong lịch sử triết học, phép biện chứng phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện
chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Phép biện chứng chất phác thời cổ đại

- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học, là nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đại.
Tiêu biểu nhất của phép biện chứng chất phát thời cổ đại là các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại, như: nhà triết học duy tâm Platon, Hêraclit. Hêraclit coi sự biến đổi của thế giới như
một dịng chảy. Ơng nói: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Người ta khơng thể
tắm được hai lần trong cùng một dịng sơng”…
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại có đặc điểm là: Nhận thức đúng về tính biện
chứng của thế giới nhưng không phải dựa trên thành tựu của khoa học mà bằng trực kiến
thiên tài, bằng trực quan chất phác, là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Do đó, chưa đạt tới
trình độ phân tích giới tự nhiên, chưa chứng minh được mối liên hệ phổ biến nội tại của giới
tự nhiên.
Phép biện chứng thời cổ đại có tác dụng mới chỉ dừng lại ở chỗ chống lại thế giới quan
tôn giáo, thần thoại, nhưng chưa ddue để chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nâng cao tính tự giác
của con người.
 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở hệ thống
triết học của G.Hêghen.
- Triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng
duy tâm một cách có hệ thống. Tính duy tâm trong triết học của G.Hêghen được biểu hiện ở
chỗ, ông coi phép biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi
biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Ông cho rằng “ý niệm tuyệt đối”
là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong
tồn tại tinh thần. Tinh thần, tư tưởng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước, thế giới hiện thực chỉ
là bản sao chép của ý niệm.
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong
tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách
bao qt và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen,

10



phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái
hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”
 Phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê
phán hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của G.W.Ph.Hêghen, là phép biện chứng dựa
trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, xuất phát từ biện chứng khách quan của tự nhiên và xã
hội.
Theo Ph.Ăngghen: “Phép biện chứng ... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
- Gồm 2 đặc trưng cơ bản:
+ Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được
xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
+ Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung của thế giới quan (duy vật biện chứng) với phương pháp luận (biện chứng duy vật)
do đó, nó khơng dừng lại ở sự giải thích thế giới mà cịn là cơng cụ để nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới.
- Với những đặc trưng cơ bản trên mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là nội dung
đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa MácLênin, tạo nên tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nó
cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh
vực nghiên cứu khoa học.

11


8. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:
 Điều kiện kinh tế - xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ

của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra
được những thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo
ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm
của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai
cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô sản (giai cấp cơng nhân làm
th). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp
công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê
tại các nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần
có một lý luận cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu
cầu này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho
sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác.
 Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của
sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ
bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu
hình trong triết học của Phoiơbắc. Trên cơ sở đó các ơng đã sáng lập ra một thế giới quan triết học
mới là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các
ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát
triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản
và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó
(A. Xmít và Đ. Ricácđơ), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của
những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính
trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa
triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà

kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị lao
động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những đại biểu lớn của
nó là H. Xanh Ximơng, S. Phuriê và R. Ơoen, c. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng
nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của
họ. Đó là tính chất khơng tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các ơng xây dựng nên một lý luận
mới - lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
 Tiền đề khoa học tự nhiên
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại
một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới
này là: khẳng định tính chất bảo tồn năng lượng trong q trình biến đổi của vật chất trong giới tự
nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất
yếu khách quan của q trình phát triển các lồi sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này

12


đóng vai trị là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng
về giới tự nhiên.

13


9. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
 Các nhà bác học trước Mác:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình định nghĩa vật chất là hạt nhỏ,
là động vật đầu tiên cấu tạo nên thế giới. Họ đồng nhất vật chất với nước (Ta Lét), lửa(Hêraclít),
khơng khí (Anaximen), hay ngun tử phân tử (Đêmơcrít), ngũ hành (Trung Quốc).
+ Ưu điểm: Lấy chính bản thân vật chất để giải thích khái niệm vật chất.

+ Hạn chế: Đồng nhất vật chất với những vật cụ thể nên: dễ dàng bị chủ nghĩa duy tâm tấn
công bằng truy nguyên đưa thế giới vào phạm vi hẹp không thể định nghĩa vật chất vì thiếu logic
- Chủ nghĩa duy tâm: Vật chất do thế giới ý niệm sinh ra và chỉ là làm phong phú thêm thế
giới ý niệm mà thôi
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Vật chất khơng có thật mà chỉ là sự phức hợp các cảm giác
mà thôi.
 Mác và Ăngghen: chưa có định nghĩa cụ thể về vật chất nhưng đã nêu lên đc những đặc
điểm cơ bản và quan trọng về phạm trù vật chất
- Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Bản chất thế giới là vật chất
- Theo Ăngghen, thành phần bản chất tự nhiên là : “Vật chất với tư cách là vật chất là một
sáng tạo thuần túy của tư duy và là một điều trừu tượng thuần túy – chúng ta bỏ qua những sự khác
nhau về chất của những sự vật khi chúng ta gặp chúng với tư cách là những tồn tại hữu hình vào
khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất nhất định, vật chất với tư cách là vật chất
không có sự tồn tại cảm tính”.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm .Ngay từ
thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm trù khác, phạm trù vật
chất có q trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người.
 Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến
nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa vật chất khơng thể quay
nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng khơng thể quy về phạm trù rộng hơn vì
đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa vật
chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh
điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”. Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với khái
niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những

dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội).
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái qt hóa,trừu tượng hóa những
thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vơ hạn,
vơ tận, khơng sinh ra, khơng mất đi.
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát trong
phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan,tức là thuộc
tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập, khơng phụ thuộc vào ý thức của con người,cho dù con người có
nhận thức được hay khơng nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con
người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là
sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

14


Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và nhận thức khoa học.
b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật
chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Theo quan điểm của Ph.Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
khơng gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”; vận động“là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động;
và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành năm

hình thức vận động cơ bản: vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian);
vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, của quá trình nhiệt, điện,
v.v…); vận động hóa (sự biến đổi các chất vơ cơ, hữu cơ trong những q trình hóa hợp và phân
giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…); vận động
xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, v.v… của đời sống xã hội).
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều
này khơng có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cânbằng; song, đứng im,
cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im,cân bằng chỉ là một trạng thái
đặc biệt của vận động.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính(chiều cao,
chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định(trước hay sau, trên
hay dưới, bên phải hay bên trái, v.v…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như
vậy được gọi là khơng gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi:
nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v… Những Hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời
gian.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên khơng gian,thời gian
có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan,tính vĩnh cửu,
tính vơ tận và vơ hạn.
Ngồi ra, khơng gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) cịn thời gian
chỉ có một chiều (chiều từ q khứ đến tương lai). Tính ba chiều của khơng gian và tính một chiều
của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và q trình diễn biến của vật chất vận
động.
c) Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống
nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn

tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.

15


Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị
mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất khơng có gì khác ngồi những q trình vật chất đang
biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ việc khái
quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực của con người kiểm
nghiệm. Nó khơng chỉ định hướng cho con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà cịn
định hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp
quy luật.

16


10. Nguồn gốc của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động,
sáng tạo. Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
a. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng
mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ
óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như
vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.
– Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá

trinh tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song
phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản
ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (tức phản ánh ý thức). Những hình thức này tương ứng
với q trình tiến hố của vật chất tự nhiên.
+ Phản ánh vật lý, hố học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý,
hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hố (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý – hố qua
q trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vơ
sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác
động.
+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương
ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính
kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp
bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi
nhận sự tác động trong mơi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh
tạo ra năng lực cam giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của q trình thần kinh qua cơ chế
phản xạ khơng điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngồi mơi trường lên cơ thể sống.
+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ thần
kinh trung ương, được thực hiện thơng qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động của
môi trường sống.
+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động,sáng tạo chỉ có ở con người. Đây là sự phản
ánh có tính chủ động lựa chọn thơng tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý
nghĩa của thông tin.
b. Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngơn
ngữ.
+ Lao động là q trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là q trình trong đó bản thân con người đóng vai
trị mơi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động,
con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà

con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác
động vào bộ óc người, thơng qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên
những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua q trình
lao động.
+ Ngơn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức, tức hình thức vật chất nhân tạo đóng vai trị thể hiện
và lưu giữ các nội dung ý thức.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối
quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp,

17


trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí,… giữa các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này
làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong
sinh hoạt xã hội. Nhờ có ngơn ngữ, con người khơng chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà cịn có thể
lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác…

18


11. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy, bản chất của ý thức được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây:
1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh.
– Cái được phản ánh, tức vật chất, tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh, tức ý
thức. Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời
ý thức với vật chất.
– Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật

chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.
2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy móc của
sự vật. Tức là, khơng phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên
như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào sự vật một cách
có định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây cầu…).
Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về
hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái
khơng có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đốn, dự báo tương lai một cách tương đối chính xác,
hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người cịn có khả năng tiên tri,
ngoại cảm, thấu thị…
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo
của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.
3. Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sơng, mưa,…). Sự
trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thơng tin cần thiết.
Hai là, con người mơ hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng
vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây là qúa trình hiện thực hóa
tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn để biến quan niệm của mình thành dạng vật chất trong
cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mơ hình thiết kế
đã có ở bước 2 ở trên.
4. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
– Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan theo
mục đích của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên

thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
– Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội. Ở
những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức về cùng một sự vật, hiện tượng
có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau.

19


12. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý thức quyết định vật
chất
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và
sinh ra ý thức. Tuy nhiên quan điểm của họ chưa thấy được vai trị, tính năng động sáng tạo của ý
thức.
Mối quan hệ vật chất và ý thức chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người
mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã
được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng
chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách
quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngơn ngữ), hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người,
hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của
ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của
ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.

Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất khơng chỉ quyết định nội dung mà cịn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến vai trị của con người.
Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực,
con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý
thức chỉ đạo, nên vai trị của ý thức khơng phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó
trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu,
đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện,
v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật
chất thơng qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu
con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì
hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua
những thách thức trong q trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác
động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách
quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược
lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối
với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định hành động
của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành cơng hay thất bại, hiệu quả
hay khơng hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể
thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều

20



kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy
không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức
mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm
nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hồn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn để xem xét
mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và
ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người
* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định nguồn gốc, bản
chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.
Ví dụ :Trong đời sống xã hội có câu: thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo.
+ Vật chất quyết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có tính chất của
vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.
* Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách
quan.
+ Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế giới vật chất được dịch chuyển vào óc
người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật chất quyết định cả bản chất và nội dung. Nội dung là
phản ánh thế giới khách quan.
+ Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái được phản ánh khi
cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi theo.
* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người cụ thể nó có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất góp phần cải tạo hình thức khách quan.
Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan – nó thúc đẩy ngược lại thì nó cản trở
Ví dụ: Chủ trương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển con người – khủng hoảng
kinh tế xã hội, động lực
=> Tóm lại: Quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua lại, trong đó
vật chất quyết định ý thức cịn ý thức tác động trở lại thực tiễn thơng qua hoạt động nhận thức của
con người.


21


13. Biện chứng, biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Biện chứng là gì?
Khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khái niệm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
 Biện chứng khách quan là chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất.
 Biện chứng chủ quan là chỉ biện chứng của ý thức.
Có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc giải quyết vấn đề về mối
quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
 Theo quan điểm duy tâm: Biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan.
 Theo quan điểm duy vật: Biện chứng khách quan là cơ sở của biện chứng chủ quan.
Ph. Ăngghen khẳng định: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong tồn bộ giói tự nhiên,
còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn
bộ giới tự nhiên...” Sự đối lập nhau trong quan niệm đó là cơ sở phân chia phép biện chứng thành:
phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng là gì?
Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới. Với tư cách là học thuyết triết học, phép
biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của mọi quá trình
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các
nguyên tắc phương pháp luận chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn.
Các hình thức lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương
Tây, với ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch
sử triết học):
 Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch
sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn
Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là

“biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ)
và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản
thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư
tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm
biện chứng của Heraclit.
 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong
triết học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã
nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ
lý luận sâu sắc và có tính hệ thơng chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát
triển. Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được
xây dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản
ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong giới
tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao nhất của
phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử phép biện
chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn chế trong phép biện chứng

22


của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho
phép biện chứng đạt đến trình độ hồn bị trên lập trường duy vật mới.
Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận
thức
Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong việc nhận
thức thế giới là ở chỗ:
 Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong các
mối liên hệ phổ biến, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển.

 Cịn phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng không
trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hố, vận động và phát triển; nó tuyệt đối hố
tính chất ổn định, cơ lập của các sự vật, hiện tượng.
=> Do đó, phương pháp siêu hình chỉ có giá trị trong một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp
biện chứng mới có thể cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực tế.

23


14. Khái niệm và tính chất của mối liên hệ
a. Khái niệm
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến: dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế
giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa:
các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng…
b. Tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
 Tính khách quan: sự quy định, tác động, làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện tượng
là vốn có của nó; tồn tại độc lập khơng phụ thuộc vào ý thức của con người. Con người chỉ
có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
 Tính phổ biến: khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt
lập với các sự vật, hiện tượng hay q trình khác; đồng thời cũng khơng có bất cứ sự vật,
hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với
những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn
nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi
lẫn nhau.
 Tính đa dạng, phong phú: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những

mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trị, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của
nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ
thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật
thì cũng có những tính chất và vai trị khác nhau. Như vậy, khơng thể đồng nhất tính chất và
vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong
những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và
hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu…

24


15. Khái niệm và tính chất của sự phát triển
a. Khái niệm
 Quan điểm siêu hình: sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần túy về lượng, khơng có sự thay
đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục,
không trải qua những bước quanh co phức tạp.
 Phép biện chứng: khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh hướng
đi từ thấp đến cao, từ kém hồn thiện đến hồn thiện hơn, đó không phải là sự biến đổi tăng
lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là
sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật => không đồng nhất với khái niệm vận
động.
 Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật;
là q trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố
tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b. Tính chất
Các q trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
 Tính khách quan: biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là q trình
bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật,
hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, khơng phụ thuộc vào ý
thức con người.

 Tính phổ biến: thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi q trình, mọi giai đoạn của sự
vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của
cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
 Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng,
song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có q trình phát triển khơng
hồn tồn giống nhau. Tồn tại ở những khơng gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát
triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác
động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch
sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí
có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thối hóa ở
mặt khác…

25


×