Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Ý NGHĨA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TRONG VIỆC NÂNG CAO TINH THẦN THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.37 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
-----------------------~----------------------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Ý NGHĨA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TRONG VIỆC
NÂNG CAO TINH THẦN THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

MÃ MƠN HỌC: 202LLCT120405_42
THỰC HIỆN: Nhóm 01. Thứ 5 tiết 13, 14
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phạm Thị Lan

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2021


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II, NĂM HỌC 2020-2021
Nhóm số 01 (Lớp thứ 5, tiết 13, 14)
Tên đề tài: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu
trong việc nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật ở Việt Nam hiện
nay.
STT
1

HỌ VÀ TÊN

MSSV


TỶ LỆ % HOÀN THÀNH
19146320
100%

2

20136177

100%

3

19143298

100%

4

19143281

100%

5

19142304

100%

SĐT


Ghi chú:
-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm: Biện Thị Mỹ Vân
Nhận xét của giáo viên
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
........................................................................
Ngày 25 tháng 05 năm 2021
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1

2.

Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................1

3.


Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................1

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
.........................................................................................................................................2
1.1

Khái quát sự hình thành và vận dụng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa..........................................................................................................................2
1.1.1

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền ...................2

1.1.2

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa là biểu

hiện tập trung của một chế độ dân chủ ........................................................................3
1.1.3

Tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền .......................................................5

1.1.4

Tính đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia ............................ 5

1.2

Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt


Nam... .............................................................................................................................. 6
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền ..........................................6
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa: ....................................................................................................................8
1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:…………. ...........................................................................................................9
PHẦN 2: Ý NGHĨA VẬN DỤNG NGHIÊN CỨU TRONG VIỆC NÂNG CAO TINH
THẦN THƯỢNG TƠN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................. 11
2.1

Hình thành khối đại đoàn kết, thống nhất dân tộc...............................................11

a)

Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh. ....11

b)

Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc: .............12

2.2

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và vấn đề tuân thủ thực thi Hiến pháp,

pháp luật hiện nay ..........................................................................................................12
2.2.1

Vai trò của hiến pháp, pháp luật trong nhà nước pháp quyền ......................12



2.2.2

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và vấn đề tuân thủ, thực thi Hiến

pháp, pháp luật hiện nay ............................................................................................ 14
2.2.3

Tồn tại, hạn chế trong xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật và những biện

pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp luật............................................................... 17
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................20
PHỤ LỤC ..........................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất yếu
đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi
quỹ đạo chung đó. Tuy nhiên, xét về cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần
nghiên cứu và giải quyết. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được
Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội VII của Đảng, trong đó nêu rõ: “ Quốc
hội cần hướng vào việc thực hiện hai yêu cầu cơ bản: Một là, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ thống pháp luật đồng bộ đáp ứng được
yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý mọi mặt xã hội văn minh, tiến
bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước được thực thi có hiệu quả, là một nhân tố trọng yếu làm cho các
quan hệ xã hội của chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, đảm bảo quyền lực và hiệu
lực trên thực tế của Quốc hội, do Hiến pháp quy định”. Từ Đại hội VII đến Đại hội

VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền đã có bước
tiến triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu lý luận: Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu thực tiễn: Thực trạng vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra ý nghĩa của việc nâng cao tinh thần thượng
tôn pháp luật, giải pháp hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử dụng là
phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích các văn
kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm về việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1


Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các cơng trình
nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về Nhà nước và pháp luật
làm tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ những
nội dung của luận văn.

PHẦN NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1.1 Khái quát sự hình thành và vận dụng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa

1.1.1

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền

Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lí của nhân loại, tư tưởng Nhà nước pháp
quyền đã hình thành từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của
thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43
Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau
này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J. Rút-xô (1712 1778), I. Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831) … phát triển như một thế giới
quan pháp lý mới. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì này một mặt khẳng định vai
trị của pháp luật, nhưng mặt khác nhấn mạnh tính chất của pháp luật, đòi hỏi pháp luật
phải dân chủ, tiến bộ, phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân, pháp luật phải phù
họp với quyền tự nhiên của con người.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ
đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776),
Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826) …

2


1.1.2

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa là

biểu hiện tập trung của một chế độ dân chủ
Những đặc trưng này được xem là các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền
nói chung đã được đề cập trong nhiều quan điểm, học thuyết của các nhà tư tưởng, các
nhà lý luận chính trị - pháp lý trong lịch sử phát triển các tư tưởng chính trị - pháp lý
nhân loại. Các giá trị phổ biến này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi

các nhà lý luận, phục thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật
của từng người. Các trình bày có thể khác nhau, song về bản chất có thể quy về các giá
trị có tính tổng qt sau:
a)

Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ

Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế
độ nhà nước. Tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung đều bao hàm hai thành tố tập
trung và dân chủ. Hai thành tố đó khơng hề đối lập nhau mà có mối quan hệ biện
chứng với nhau và cùng phát triển theo tỷ lệ thuận. Tập trung càng cao thì dân chủ
càng được mở rộng, và ngược lại.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thơng qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
b) Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản đối
với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi
chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà
nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới
có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
c) Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.

3


Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi

hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con
người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy
định của luật pháp.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện
luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được
xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho
phép; đối với cơng dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
d) Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo
các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm sốt quyền lực
Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ
thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là
quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải
được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền
lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên
trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
e) Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
phù hợp
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân
chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu
cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn
trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể
đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả
xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp,
không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này.

4



f)

Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các

mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình kinh tế thị trường,
theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường,
thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các
mặt tiêu cực của thị trường.
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định
và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp
quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến
pháp và pháp luật.
1.1.3

Tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền với tính cách là những giá trị phổ biến, là biểu hiện của
một trình độ phát triển dân chủ. Do vậy nhà nước pháp quyền khơng phải là một kiểu
nhà nước. Điều này có ý nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ,
tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế xã hội, nhưng không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ.
Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện
nhà nước pháp quyền. Do vậy trên thực tế tồn tại khái niệm nhà nước pháp quyền tư
sản và về thực chất nhà nước pháp quyền đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các
quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển.
Nhà nước pháp quyền khơng những có thể xây dựng tại các quốc gia tư bản
mà vẫn có thể xây dựng tại các quốc gia phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước
pháp quyền với tính chất là một cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà
nước và xã hội không những xây dựng trong điều kiện chế độ xã hội XHCN. Như vậy

trong nhận thức lý luận và trong thực tiễn tồn tại nhà nước pháp quyền tư sản và nhà
nước pháp quyền XHCN.
1.1.4

Tính đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia

5


Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù
của mỗi một quốc gia, dân tộc.
Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố. Các
yếu tố này về thực chất là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các
điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân tộc, các
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hố và mơi trường địa lý.
Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận
quan trọng. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một
giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia.
Khơng thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mơ hình chung
thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị,
kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mơ hình nhà nước
pháp quyền thích hợp.
Thực tiễn xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền tại các nước cho thấy,
mỗi một nước đều có cách thức xây dựng, tổ chức nhà nước pháp quyền theo cách riêng
của mình.
Thừa nhận tính đa dạng của mơ hình nhà nước pháp quyền, đòi hỏi việc xây
dựng nhà nước pháp quyền tại mỗi một quốc gia phải đồng thời quán triệt các phương
diện:
Phải xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - văn hố, chính
trị và truyền thống dân chủ của dân tộc mình mà lựa chọn cách thức xây dựng và vận

hành mơ hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
Phải quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, tiếp thu các giá trị
phổ biến này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn hố, chính trị của quốc
gia.
1.2 Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
1.2.1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền

a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân

6


Theo Bác Hồ, Nhà nước do dân, là nhà nước do dân lựa chọn bầu ra, do dân ủng
hộ giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động, do dân phê bình xây dựng. Cho
nên Bác Hồ ln yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự giám sát, kiểm tra, kiểm sốt của nhân
dân.
Về Nhà nước vì dân, theo Bác Hồ, chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân tổ
chức xây dựng mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ
lợi ích và nguyện vọng của dân, khơng có đặc quyền, đặc lợi, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, trong sạch vững mạnh. Bác Hồ yêu cầu “việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm,
việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Vì vậy cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của
dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Bác dạy: “người thay mặt đều
phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
Nhận thức về nhà nước của dân, do dân, vì dân cũng cần thấy rõ sự thống nhất
giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân
được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất nước do chính
Người chỉ đạo xây dựng và ban hành. Có thể thấy rằng hai bản Hiến pháp 1946, 1959
do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo và 613 sắc lệnh kể từ 1945 đến
1969, trong đó có 243 sắc lệnh liên quan đến bộ máy nhà nước và luật pháp do Người
ký ban hành đã hình thành một thể chế bộ máy nhà nước vừa hiện đại vừa dân tộc kết
tinh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân.Với quy định của Hiến pháp 1946 bộ máy nhà nước về cơ bản được cấu tạo
theo ba quyền: quyền lập pháp (Nghị viện nhân dân); quyền hành pháp (Chủ tịch nước
và Chính phủ); quyền tư pháp (Hệ thống toà án được tổ chức theo cấp xét xử).

7


c) Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn sau này đã
có khơng ít những thay đổi về mơ hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tư tưởng của Hồ Chí
Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ngày nay, trong bối
cảnh phát triển mới của đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và thế giới,
trong xu thế tồn cầu hố, nhiều điểm đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vẫn cịn ngun giá trị, tiếp tục định
hướng cho các nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp đổi mới mơ hình bộ máy nhà
nước trong các điều kiện phát triển mới.
1.2.2.


Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa:
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự
phân công rành mạch ba quyền đó. “Tiếp tục xây dựng và hồn thiện Nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Sau khi đánh
giá những thành tựu và khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức, hoạt động của nhà nước
ta và những yêu cầu trước tình hình mới, văn kiện Hội nghị đã nêu 5 quan điểm cơ bản
cần nắm vững trong quá trình xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước cụ thể là:
Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
8


Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN.
1.2.3.

Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam:
a) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân

vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí
Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền
lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước
thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ
máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của
dân, do chính nhân dân lập qua thơng qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là
phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại,
đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân
dân.
b) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ
sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác
lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó
mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất,
quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự
ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.

9


Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan
trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là
nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến
của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và của các tính chất
chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trị quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân
dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh

giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết
trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
c) Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí
tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hố đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hố giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của
nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và
hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân
chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà
nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật.
Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và
tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật.
10


d) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà
nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định phương
hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện
quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành công
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước triển khai tổ

chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà
nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại…
PHẦN 2: Ý NGHĨA VẬN DỤNG NGHIÊN CỨU TRONG VIỆC NÂNG CAO
TINH THẦN THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hình thành khối đại đồn kết, thống nhất dân tộc

2.1

a) Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đồn kết tồn dân của Hồ Chí Minh.
Một là, Đảng Cộng sản có vai trị to lớn trong khối đại đồn kết dân tộc.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo
Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát
huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta”.
Từ khi Đảng ra đời, đoàn kết theo TTHCM thực sự là bộ phận hữu cơ trong
đường lối CM của đảng, chỉ có đồn kết mới có sức mạnh đưa CM tới thành công.
CM là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được rộng rãi lực lượng quần
chúng thì sẽ khơng thể thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân thực hiện âm mưu chia để trị,
vậy ta phải đồn kết mn người như một, phải thực hiện chữ “đồng” thì mới thành
cơng.
Hai là, phát huy vai trị của Nhà nước với đồn kết toàn dân tộc.
Ba là, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
11


Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân
nước Việt trong nước và ngồi nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc,

thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
b) Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc:
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với
cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm
chính sau:
Thứ nhất, đồn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi
thành cơng. Biết đồn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, khơng đồn kết, chia rẽ là
thất bại.
Thứ hai, đồn kết phải có ngun tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Khơng đồn
kết một chiều, đồn kết hình thức, nhất thời.
Thứ ba, đồn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn
kết cá nhân và đoàn kết tổ chức khơng tách rời nhau.
Thứ tư, đồn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức,
từng thời kỳ. Đồn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.Đoàn kết đi liền
với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Thứ năm, lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện
pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong
Đảng – đoàn kết toàn dân – đoàn kết quốc tế.
2.2 Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và vấn đề tuân thủ thực thi Hiến
pháp, pháp luật hiện nay
2.2.1 Vai trò của hiến pháp, pháp luật trong nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một giá trị nhân văn, cao quý của nhân loại. Xuất hiện
từ thời kỳ Hy Lạp, La Mã cổ đại, nhưng đầu tiên, nhà nước pháp quyền chỉ là những tư
tưởng, quan điểm về một mơ hình nhà nước hồn thiện và đề cao giá trị của pháp luật,
thể hiện ước muốn, khát vọng của con người về một nhà nước dân chủ và bình đẳng.
Pla-tơn (427 - 347 TCN) cho rằng, xây dựng một nhà nước cơng lý và hồn thiện là
một giá trị cao quý của nhân loại. Ari-xtốt (384 - 322 TCN) luôn đề cao giá trị của
pháp luật, theo ơng: “Khơng có điều nào cần phải giữ gìn triệt để hơn là tinh thần
12



thượng tơn pháp luật ”(1). Về vị trí và sức mạnh của pháp luật, Xi-xe-rông (106 - 43
TCN) cho rằng, tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật. Thế kỷ XVII, trên
thế giới xuất hiện một số lý thuyết về nhà nước pháp quyền với nhiều nguyên lý và đặc
trưng cơ bản. Giôn Lốc-cơ đề cao vai trò, tầm quan trọng của pháp luật trong việc
quản lý xã hội. Mông-te-xki-ơ đưa ra học thuyết “Tam quyền phân lập” nhằm phân
chia và kiểm soát quyền lực nhà nước. Học thuyết này được một số quốc gia tư bản
xem là “cứu cánh” trong việc kiểm soát sự lạm dụng quyền lực nhà nước. Luật gia
người Anh, A.V. Đi-xây (1835 - 1922) cho rằng, nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp
quyền là uy quyền tối cao của pháp luật và bình đẳng trước pháp luật...
Sau cách mạng tư sản, nhà nước tư bản ban hành hiến pháp để khẳng định, củng
cố quyền lực. Tại nhiều quốc gia, học thuyết phân chia quyền lực nhà nước được biến
thành những nguyên tắc hiến định. Hiến pháp tư bản ra đời là kết quả phái sinh từ trào
lưu đòi quyền tự do, dân chủ do giai cấp tư sản thực hiện. Tuy nhiên, xét về bản chất,
hiến pháp này là văn bản pháp lý phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến, khẳng
định quyền lực chính trị của nhà nước tư bản và bảo vệ chế độ tư hữu. Do những
nguyên nhân sâu xa, việc bảo vệ hiến pháp là bổn phận của nhà nước tư bản, trong đó
nhiệm vụ đầu tiên là kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản luật. Một số quốc gia còn
thành lập những thiết chế chuyên biệt để bảo vệ hiến pháp, như hội đồng hiến pháp,
hội đồng bảo hiến hoặc tòa án hiến pháp - một cơ chế bảo hiến phổ biến được thiết lập
ở nhiều quốc gia, như Đức, Pháp, I-ta-li-a, Nga... Tòa án hiến pháp là cơ quan được
trao quyền xét xử các quyết định vi hiến và hành vi vi hiến. Tuy nhiên, nhiều quốc gia
không thành lập thiết chế bảo hiến riêng biệt mà trao quyền và nhiệm vụ bảo hiến cho
cơ quan thường trực của nghị viện hoặc tòa án tối cao.
Xuất phát từ sự khác biệt về điều kiện kinh tế, thể chế chính trị, đời sống xã hội
nên hiến pháp, pháp luật ở mỗi quốc gia có một số đặc điểm riêng. Xuất hiện đầu tiên
trong lịch sử, Hiến pháp Mỹ được ký và có hiệu lực vào năm 1789 chủ yếu tập trung
quy định những vấn đề xoay quanh việc phân chia quyền lực nhà nước. Ở nhiều quốc
gia khác, bên cạnh việc phân chia quyền lực, hiến pháp còn là văn bản ghi nhận, quy
định nhiều nội dung quan trọng, trong đó có quyền con người. Những quy định về

quyền con người thường được sắp đặt thành một chế định pháp lý riêng. Bản chất của
1

Aristotle: Chính trị luận, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2013, tr. 288

13


nhà nước pháp quyền là hướng đến việc tôn trọng giá trị cao đẹp của con người và bảo
vệ quyền con người, được hiện thực hóa bằng những quy định, cơ chế pháp lý trong
hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, Hiến pháp Mỹ có những điểm rất đặc thù về vấn đề
này. Quyền cơ bản của con người không được đặt thành một chế định riêng trong hiến
pháp. Những quyền này của người dân Mỹ chỉ được bổ sung vào hiến pháp bằng một
số tu chính án, được thực hiện rải rác từ năm 1791 đến năm 1992. Trong khi đó, Hiến
pháp Na Uy năm 1814 quy định rõ, bảo vệ quyền con người là một nguyên tắc cơ bản
của hiến pháp. Đối với nhiều quốc gia khác, như Đức, I-ta-li-a, Việt Nam..., chế định
quyền con người được đặt ở các vị trí hết sức trang trọng trong hiến pháp.
Nhà nước pháp quyền có những nguyên tắc và đặc trưng cơ bản, nhưng đó khơng
phải là một khn mẫu bất biến áp dụng cho tất cả các quốc gia. Trên thế giới, các
quốc gia nằm trong hệ thống pháp luật Thông luật (Common law) như Anh, Mỹ, Niu
Di-lân..., hệ thống pháp luật Dân sự (Civil law) như Pháp, Đức, I-ta-li-a, ... và hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa như Việt Nam đều có những đặc điểm và ưu điểm
nhất định trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất, nhà nước pháp
quyền là nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, hệ thống pháp
luật ở đây phải hội tụ được một số yêu cầu, như đầy đủ, đồng bộ và nhất quán. Pháp
luật của nhà nước pháp quyền phải được xây dựng, ban hành theo kịp các quy luật
phát triển của kinh tế và xã hội. Đồng thời, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất, không
thể thay thế, để Nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Do vậy, pháp luật trong nhà nước
pháp quyền phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả. Cùng với
những yêu cầu trên, pháp luật trong một nhà nước pháp quyền còn phải mang bản chất

của một chế độ dân chủ, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ
quyền con người.
2.2.2 Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và vấn đề tuân thủ, thực thi Hiến
pháp, pháp luật hiện nay
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương chiến
lược của Đảng, được đưa ra từ Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng, ngày 25-1-1994. Trên mọi phương diện hoạt động, Nhà nước luôn tôn
trọng, đề cao pháp luật. Ngay sau khi giành độc lập, tiếp thu hợp lý những tư tưởng lập
14


hiến tinh hoa của nhân loại, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp năm 1946. Các
bản Hiến pháp sau đó được ban hành theo sự thay đổi, phát triển của kinh tế, văn hóa,
xã hội. Nhằm đáp ứng những yêu cầu hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành Hiến
pháp năm 2013. Đây là một bản hiến pháp mới quy định các vấn đề quan trọng nhất,
phù hợp yêu cầu của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước pháp quyền và
dân chủ. Nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước Việt Nam có những đặc điểm
riêng, khơng giống với mơ hình “Tam quyền phân lập”, được áp dụng ở các nước
phương Tây. Quyền lực nhà nước được thực hiện trên nguyên tắc thống nhất, nhưng
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan lập pháp và giám sát
tối cao. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp cao nhất. Cịn tòa án nhân dân được
giao quyền tư pháp, xét xử. Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng và được bảo vệ
bằng một cơ chế bảo hiến. Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước. Việc giám sát này có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ Hiến pháp, giống
như những thiết chế bảo hiến khác trên thế giới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ
quan được giao trách nhiệm thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy
ban này có các thẩm quyền đình chỉ và trình Quốc hội bãi bỏ việc thi hành văn bản trái

Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ văn bản trái với pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chính phủ và Tòa án tối cao hoạt động dưới
sự giám sát của Quốc hội. Cách phân định quyền lực nhà nước và cơ chế bảo vệ Hiến
pháp trong Hiến pháp năm 2013 có những nét riêng biệt, dựa trên đặc điểm của hệ
thống pháp luật Việt Nam. Những quy định đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cơ bản,
khách quan trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật Việt Nam từng bước
được hồn thiện theo tiêu chí của một Nhà nước pháp quyền. Ngay từ khi bắt đầu cơng
cuộc đổi mới, việc xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật được Đảng, Nhà nước xác
định là một nhiệm vụ trọng tâm. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và nhiều đạo luật,
bộ luật, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự, ... đã góp phần vào việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhằm bảo đảm hoạt động của Nhà nước, sự
15


tuân thủ pháp luật của các cơ quan và đội ngũ công chức, viên chức, Quốc hội đã ban
hành các đạo luật, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Luật Cán bộ, công chức... Quy định về quyền tự do kinh doanh và
nhiều quyền con người khác trong Hiến pháp năm 1992 đã mở ra một chương mới cho
việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Các đạo luật được ban hành nhằm cụ thể
hóa những quyền này, như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo, Luật Báo chí, Luật Trưng cầu ý dân... Chế định quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013 được bổ sung một số nội dung quan trọng. Trên cơ sở đó, các đạo luật về
bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiếp tục được hoàn thiện.
Trong Nhà nước pháp quyền, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là một yêu
cầu cấp thiết, luôn đi cùng trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng pháp luật của các chủ thể
trong xã hội. Thời gian qua, hệ thống pháp luật Việt Nam không ngừng được sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện, ý thức tuân thủ pháp luật được nâng lên. Về cơ bản các cơ quan
nhà nước, cán bộ công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ đã nghiêm túc tuân thủ

pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành đúng trình tự, thủ tục, kịp
thời, có tính khả thi cao, việc theo dõi thi hành pháp luật đã đạt được những kết quả
quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội trên
phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn cịn tình trạng vi phạm, xem thường
pháp luật diễn ra khá phức tạp, khó kiểm sốt trên nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng khơng
nhỏ đến quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Qua kiểm tra việc thực hiện
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ ngày 1-1-2014 đến ngày 31-5-2017,
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp đã phát hiện 300 văn bản trái
pháp luật về thẩm quyền và nội dung, đồng thời phát hiện 2.200 văn bản quy phạm
pháp luật sai về căn cứ pháp lý, thể thức văn bản (2). Tính riêng trong năm 2017, Bộ
Tư pháp đã phát hiện 157 văn bản trái pháp luật về nội dung và thẩm quyền, trong đó
26 văn bản của các cơ quan cấp bộ và 131 văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh. Tình trạng vi phạm pháp luật liên quan đến việc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn xảy ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương. Một số người đứng đầu

Lê Thành Long: Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 901,11-2017, tr. 34
2

16


các cơ quan, có trách nhiệm làm gương, giữ gìn kỷ cương lại chính là những người có
hành vi vi phạm pháp luật. Ở một số nơi, nhiều cán bộ, công chức trong một cơ quan
cùng thực hiện hành vi trái luật. Có nơi, cả tập thể lãnh đạo cùng vi phạm. Về hoạt
động xét xử, tình trạng bản án, quyết định bị hủy, bị sửa của tòa án các cấp vẫn còn tồn
tại. Nhiều bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của những người tiến hành tố
tụng.
Trong một Nhà nước pháp quyền, tôn trọng Hiến pháp, pháp luật là yêu cầu bắt
buộc đối với mỗi công dân. Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có

nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Nhằm nâng cao trình độ nhận thức, hiểu
biết pháp luật trong nhân dân, Nhà nước có trách nhiệm trong việc phổ biến, giáo dục
pháp luật. Thời gian qua, hoạt động này đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên,
trình độ pháp luật, ý thức tự giác tuân thủ Hiến pháp, pháp luật trong xã hội hiện nay
chưa đáp ứng những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Hành vi
gian lận còn diễn ra khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, thương mại. Do
thiếu hiểu biết, khơng ít cá nhân bị các phần tử xấu kích động, xúi giục thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật. Nhiều tranh chấp dân sự không được giải quyết trên
cơ sở quy định pháp luật. Một số cá nhân tự ý dùng vũ lực để giải quyết, dẫn đến việc
vi phạm pháp luật. Tình trạng thiếu ý thức, trách nhiệm công dân, vô cảm, vô vi trước
những hành vi trái pháp luật còn khá phổ biến trong xã hội.
Tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau, trong đó có những ngun nhân thuộc về phía các cơ quan nhà nước.
Sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật, hoạt động tổ chức thi hành pháp luật chưa
đạt hiệu quả mong muốn, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn, ... là những nguyên nhân của tình trạng kỷ cương, phép nước bị xem
thường. Vì vậy, để nâng cao ý thức tôn trọng, thực thi pháp luật, cần xác định những
vướng mắc, tồn tại, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của pháp luật hiện nay.
2.2.3 Tồn tại, hạn chế trong xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật và những biện
pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp luật
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhiệm vụ,
yêu cầu cấp thiết trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, Đại hội XII của Đảng khẳng
17


định: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy
nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh ”(3). Những năm qua, Việt Nam đạt được
những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra: “Hệ
thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền, cịn chồng chéo; tính cơng khai, minh bạch, khả thi, ổn định cịn hạn
chế ”(4). Vì vậy, để phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống pháp luật, cần
làm rõ những điểm thiếu hợp lý đang tồn tại hiện nay.
Trước hết, về tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Do hệ thống pháp luật chưa
bảo đảm tính thống nhất nội tại nên cịn xảy ra tình trạng nhiều văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành tùy tiện, sai về nội dung, thẩm quyền. Có những văn bản
không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Sự thiếu nhất quán trong hệ thống pháp
luật ảnh hưởng đáng kể đến giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến
pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Hiến pháp năm 2013 chưa bao quát hết đối
tượng điều chỉnh, chủ yếu tập trung vào việc phát hiện, ngăn chặn và vơ hiệu hóa các
văn bản trái Hiến pháp. Trong khi đó, trách nhiệm pháp lý của hành vi vi hiến chưa
được quy định rõ. Việc ban hành văn bản trái pháp luật gây ra nhiều hậu quả pháp lý
và những thiệt hại đáng kể về vật chất, tinh thần cho nhiều chủ thể, tuy nhiên, trách
nhiệm bồi thường nhà nước đối với loại vi phạm này vẫn chưa được xem xét đầy đủ.
Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật còn đưa ra các yêu cầu, điều kiện rất khó thực
hiện, ảnh hưởng đến tính khả thi của các văn bản pháp luật, đồng thời gây khó khăn,
tốn phí cho cá nhân và xã hội. Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản
pháp luật còn tồn tại, ảnh hưởng đến việc thực hiện, áp dụng pháp luật, khiến việc giải
quyết các thủ tục hành chính, pháp lý mất nhiều thời gian. Những vấn đề tồn tại trong
hệ thống pháp luật trên đây khiến hiệu lực, hiệu quả của pháp luật bị suy giảm, ảnh
hưởng đến niềm tin, tâm lý của người dân đối với pháp luật.
Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động bảo đảm việc thực thi, hiệu lực, hiệu
quả, tính nghiêm minh của pháp luật. Nhiệm vụ này thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Thơng qua việc hướng dẫn thi hành, chương trình, kế hoạch thi hành văn bản quy

3
4

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 79
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 173


18


phạm pháp luật và hoạt động quản lý nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực và phát huy sức mạnh trong đời sống. Tuy nhiên, tổ chức thi hành pháp luật là
cơng việc cịn mới. Luật về tổ chức thi hành pháp luật chưa được ban hành. Nhiều quy
định pháp lý về vấn đề này đang được nghiên cứu, bổ sung, như mục tiêu, quy trình,
cơ chế thi hành... Trên thực tế, hoạt động tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật chưa
phát huy hết khả năng, tác dụng. Do đó, hệ thống pháp luật chưa được bảo đảm bằng
một cơ chế thực thi chặt chẽ, dẫn đến việc hiệu lực, hiệu quả pháp luật bị giảm thiểu.
Trước những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật và hoạt động tổ chức thi hành
pháp luật hiện nay, nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật, nâng cao
ý thức, tinh thần thượng tôn pháp luật, cần tiến hành một số nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phát huy dân chủ và đáp
ứng những yêu cầu cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Bảo đảm sự đồng bộ, tính hợp hiến, thống nhất, ổn định, hiệu quả,
khả thi của hệ thống pháp luật. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của quá
trình hội nhập quốc tế, trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật và thơng lệ
quốc tế. Rà sốt, sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật về kinh tế, môi trường, an
sinh - xã hội và bảo vệ quyền con người theo những chuẩn mực của pháp luật quốc tế.
Thứ hai, đổi mới quy trình, tư duy xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo
hướng dân chủ, hiện đại. Đánh giá tác động toàn diện, cụ thể, chính xác ảnh hưởng của
các dự án luật đối với các chủ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp trong quá trình xây
dựng các đạo luật. Nâng cao hiệu quả việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến nhân dân trong
quá trình xây dựng pháp luật. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức làm cơng tác xây dựng pháp luật có phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực chun mơn..., đáp ứng yêu cầu của quy trình làm luật trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
Thứ ba, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện thể chế về hoạt động tổ chức thi

hành pháp luật. Quy định cụ thể về nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ
quan Trung ương và địa phương trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của công tác theo dõi, đánh giá tình hình và năng lực phản ứng
chính sách trong việc tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất,

19


trang thiết bị, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và ứng
dụng công nghệ thông tin hiện đại phục vụ hoạt động tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức nhằm nâng cao hiệu quả cơng
tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng chủ đề, chương trình, kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của từng vùng, từng
địa phương, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Thơng tin kịp thời, chính xác, đầy đủ nội
dung, hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, sửa đổi. Đẩy mạnh
tuyên truyền ý nghĩa, giá trị của Hiến pháp, pháp luật và Nhà nước pháp quyền trong
toàn xã hội nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, tinh thần thượng tôn pháp luật trong nhân
dân.
Thứ năm, gắn kết chặt chẽ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật nhằm thực hiện chủ trương
của Đảng về việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong q trình xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp
luật và tổ chức thi hành pháp luật. Vận động nhân dân tích cực tham gia, đóng góp ý
kiến trong q trình xây dựng, soạn thảo các đạo luật, bộ luật và phản ánh kịp thời
những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật.

PHẦN KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một chủ trương, đường lối có
tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của
thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu về

nghiên cứu lý luận lẫn thực tiễn triển khai xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có. Xây
dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị và của tồn dân. Hơn nữa, hiểu pháp luật để sống đúng, sống hạnh
phúc và hành động theo khuôn khổ pháp luật: “ Sống, làm việc theo Hiến pháp và
Pháp luật”, đưa pháp luật vào cuộc sống và bắt kịp với phát triển tích cực của xã hội.
Góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

20


PHỤ LỤC
Nội dung hoàn thành

Sinh viên hoàn thành

Mức độ hoàn thành

PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề
tài, mục tiêu và phương

Biện Thị Mỹ Vân

Tốt

pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Nội dung 1: Khái quát sự
hình thành và vận dụng tư
tưởng về Nhà nước pháp


Phạm Ngọc Hải

Tốt

Lê Phước Thành Luân

Tốt

Đặng Tấn Từ Nhi

Tốt

Phạm Tấn Đồng

Tốt

quyền xã hội chủ nghĩa

Nội dung 2: Quá trình nhận
thức và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Nội dung 3: Hình thành
khối đại đồn kết, thống
nhất dân tộc.
Nội dung 4: Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp
luật và vấn đề tuân thủ
thực thi Hiến pháp, pháp

luật hiện nay

PHẦN KẾT LUẬN
Nội dung: Biên tập lời kết
luận

Phạm Tấn Đồng

Tốt

21


×