Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

LÍ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.94 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
BỘ MƠN TRIẾT HỌC MÁC – LÊ-NIN
CHỦ ĐỀ 29: LÍ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ
TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

MÃ HỌC PHẦN: 201LLCT130105
GIẢNG VIÊN: TRẦN THỊ PHƯƠNG
LỚP THỨ 4 TIẾT 7-10
NHĨM 7 ( STT từ 16-20)

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2020


DANH SÁCH NHÓM THAM VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2020-2021
Nhóm 7( lớp thứ 4 tiết 7-10)
Chủ đề 29: Lí luận của triết học mác – lênin về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Liên hệ thực tiễn.
MSSV

SĐT

ĐÁNH GIÁ

16

19146320


0916049532

100%

17

20155074

0982755916

100%

18

20155075

0933322017

100%

19

20155047

0868306384

100%

20


20155076

0941592449

100%

STT

HỌ VÀ TÊN SV

Ghi chú:
-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm:

Nhận xét giáo viên:
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Ngày……tháng 12 năm 2020
Trợ lý giảng dạy

Giáo viên chấm điểm



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 2
Chương 1. Quan điểm của triết học Mác Lênin về tồn tại xã hội, ý thức xã hội:...... 2
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội: ...................... 2
a. Khái niệm tồn tại xã hội: .................................................................................. 2
b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội: ............................................................... 2
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội: ........................................................ 3
a. Khái niệm ý thức xã hội: .................................................................................. 3
b. Kết cấu của ý thức xã hội:................................................................................ 4
c. Tính giai cấp của ý thức xã hội: ....................................................................... 6
Chương II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội: ............... 8
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: ............................................................. 9
2. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội: ................................... 10
3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: ................................................. 11
4. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: ............................. 11
5. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng: .................................................................................................................... 12
6. Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội: ................................ 13
Chương III. Ý nghĩa phương pháp luận: .................................................................. 14
Chương IV. Liên hệ thực tiễn .................................................................................. 15
1. Tâm lý xã hội của con người Việt Nam hiện nay: ............................................ 15
1.1 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: ...................................................................... 15
1.2 Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ: ............................................................. 16
2. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay: .................................. 19
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO:....................................................................................... 26



1

PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một thể thống nhất thế giới
quan, phương pháp luận và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong hệ thống quan điểm của mình, các nhà kinh điển cũng
chú ý nhiều đến quan điểm về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, coi đó là vấn đề cơ bản của triết học và xã hội. Quan điểm đó ln ln được
Đảng ta vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, nhờ vậy mà đất
nước đạt được nhiều thành tựu to lớn cả trong đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của xã hội.
Hiện nay, đất nước bước vào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng
mới, càng đòi hỏi cao về yêu cầu làm sáng tỏ và phát triển lý luận, từ đó vận dụng
sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể. Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội lại càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc hơn. Ngoài ra nước ta đang
phát triển một nền kinh tế thị trường, đất nước ngày càng mở cửa vì thế cho nên
chúng ta có cơ hội tìm hiểu các nền văn hóa của các nước, tuy nhiên đó cũng là một
phần lý do dẫn đến những vấn đề không tốt của tâm lý xã hội của con người Việt
Nam hiện nay.
Chính vì vậy nhóm em muốn được tìm hiểu thêm về vấn đề này. Đó là lý do
nhóm em chọn đề tài này: “Lí luận của triết học Mác - Lênin về tồn tại xã hội và
ý thức xã hội” và sau đó vận dụng kiến thức cơ bản để liên hệ và giải quyết các
vấn đề thực tiễn.
Sau đây là một số ý kiến nhóm em xin được trình bày:


2

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Quan điểm của triết học Mác Lênin về tồn tại xã hội, ý

thức xã hội:
Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực
tinh thần, đó cũng chính là hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì vậy, cùng
với việc phân tích các quy luật của sự phát triển xã hội, các quan hệ kinh tế và các
quan hệ chính trị - xã hội thì khơng thể khơng chú trọng đến mặt quan trọng khác
của trời sống xã hội là ý thức xã hội. Trong triết học Mác Lênin khái niệm ý thức
xã hội gắn liền với khái niệm tồn tại xã hội.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội:
a. Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt về vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản
ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa còn người với tự nhiên
và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, v.v., trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong Lời tựa cuốn Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật
chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Khơng phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội


3
của họ quyết định ý thức của họ. Với khẳng định này C.Mác đã khắc phục triệt để
chủ nghĩa duy tâm, xây dựng quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Tương tự như vậy, trước đó trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận rằng, toàn bộ gốc rễ của sự phát triển xã hội loài
người, kể cả ý thức của con người, đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển
của các điều kiện kinh tế - xã hội, nghĩa là “khơng phải ý thức quyết định đời sống

mà chính đời sống quyết định ý thức”, “do đó ngay từ đầu, ý thức là một sản phẩm
xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”. Đây chính là điểm cốt
lõi của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội khơng chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà cịn
quyết định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội
có thể được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác
nhau theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức
này cũng sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó chính là tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội.
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội:
a. Khái niệm ý thức xã hội:
Cùng với phạm trù tồn tại xã hội, phạm trù ý thức xã hội là phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong
lĩnh vực xã hội. Nếu “ý thức … khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại
được ý thức” thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã
hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt
tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã
hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nạng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế
- xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.


4
b. Kết cấu của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư tưởng
xã hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong
tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v, nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định. V.L.Lênin viết: “Ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác”. Tuy nhiên, sự phản
ánh này không phải là sự phản ánh thụ động, bất động, trong gương mà là một quá
trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của con

người đối với hiện thực.
Ý thức xã hội mặc dù có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với ý thức cá nhân,
cùng phản ánh tồn tại xã hội, song giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân vẫn có sự
khác nhau tương đối vì chúng thuộc hai trình độ khác nhau.
Ý thức các nhân chính là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ và cụ thể.
Ý thức của các cá nhân khác nhau được quy định bởi những đặc điểm của cuộc
sống riêng, của việc giáo dục và điền kiện hình thành nhân cách riêng của cá nhân.
Dù ít dù nhiều, ý thức của các cá nhân khác nhau đều phản ánh tồn tại xã hội ở các
mức độ khác nhau, phổ biến của một cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay
của một thời đại xã hội nhất định nào đó.
Về mặt hình thức thì ý thức xã hội phản ánh tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Sự đa dạng các hình thái xã hội là do tính nhiều mặt, nhiều vẻ và đa dang của
đời sống xã hội quy định; chúng phản ánh xã hội theo những cách khác nhau. Tùy
thuộc vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.


5
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, những
quan niệm của con người hình hình một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp
hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được
tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới
dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.
Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách sinh động và trực tiếp các mặt
khác nhau của cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức xã hội thông thường tuy
ở trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại phong phú hơn ý thức lý luận. Chính
những tri thức kinh nghiệm phong phú của ý thức thông thường là chất liệu, là cơ
sở và tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận.
Ý thức lý luận hay là ý thức khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách

quan một cách sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được những mối liên hệ
khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã
hội. Đồng thời, ý thức khoa học có khả năng phản ánh vượt trước hiện thực.
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội
bao gồm tồn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ,
phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của một người, một tập đoàn người, một bộ
phận xã hội hay toàn thể xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp của cuộc sống
hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
Tâm lý xã hội cũng phản ánh một cách trực tiếp và tự phát những điều kiện
sinh hoạt hằng ngày của con người cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những
gì nằm trên bề mặt của tồn tại xã hội. Do vậy, khác với ý thức lý luận, tâm lý xã hội
chưa đủ khả năng để vạch ra những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang
tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội. Mặc dù vậy, cần coi trọng vai


6
trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xã hội, nhất là việc sớm nắm bắt
những dư luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng của nhân
dân trong những hoàn cành và điều kiện khác nhau.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức
lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối
quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội
để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v…
Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tưởng khoa học và hệ tư
tưởng không khoa học. Nếu hệ tư tưởng không khoa học phản ánh các quan hệ vật
chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì ngược lại, hệ tư tưởng khoa học
phản ánh các quan hệ, các quá trình và hiện tượng xã hội một cách khách quan,
chính xác. Cả hai loại hệ tư tưởng này đều có ảnh hưởng đối với sự phát triển của
khoa học. Chẳng hạn, hệ tư tưởng không khoa học, nhất là triết học, đã từng kìm

hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên suốt hàng chục thế kỷ thời Trung cổ ở
châu Âu.
Mặc dù tâm lý và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội
nhưng chúng có mối liên hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể
thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận một hệ tư tưởng nào đó; có thể
giảm bớt sự xơ cứng hoặc cơng thức cứng nhắc của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư
tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội,
góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
c. Tính giai cấp của ý thức xã hội:
Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều
kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. Mỗi


7
giai cấp đều có đời sống sinh hoạt tinh thần đặc thù của nó nhưng hệ tư tưởng
thống trị xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội, nó có ảnh
hưởng đến ý thức của các giai cấp trong đời sống xã hội. Theo quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì
chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của
những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống
trị đó chi phối”.
Trong những xã hội có giai cấp thì giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất
khác nhau có điều kiện vật chất khác nhau, có lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì
ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn hệ tư tưởng.
Nếu ở trình độ tâm lý xã hội mỗi giai cấp xã hội đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen, thiện cảm hay ác cảm riêng thì ở trình độ hệ tư tưởng tính giai cấp thể hiện rõ
rệt và sâu sắc hơn nhiều. Ở trình độ này sự đối lập giữa các hệ tư tưởng của những
giai cấp khác nhau thường là khơng dung hịa nhau. Và khi đó, hệ tư tưởng thống
trị trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Về điều này C.Mác và

Ph.Ăngghen viết: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là
những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất
thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp
nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu
sản xuất tinh thần”.
Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong các xã hội có giai cấp đối kháng bao
giờ cũng bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, của chế độ người bóc lột
người. Trái lai, hệ tư tưởng của giai cấp bị trị bao giờ cũng bảo vệ quyền lợi của
những người bị bóc lột, của đơng đảo quần chúng nhân dân bị áp bức nhằm lật đổ
chế độ người bóc lột người đó.


8
Tuy nhiên, khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội thì quan niệm duy
vật về lịch sử cũng cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động
qua lại với nhau. Khơng chỉ giai cấp bị thống trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai
cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị
thống trị. Điều này thường xảy ra trong giai đoạn phong trào cách mạng của giai
cấp bị thống trị lên cao. Khi đó những người tiến bộ trong giai cấp thống trị, nhất là
những trí thức, sẽ từ bỏ giai cấp xuất thân để chuyển sang hàng ngũ của giai cấp
cách mạng. Lịch sử cho thấy, khơng ít những người trong số trí thức đó trở thành
nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.

Chương II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,
ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi
khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ
thuật… sớm muộn sẽ biến đổi theo.

Các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học trong lĩnh vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là sự
sản xuất của cải vật chất và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất
ấy. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là phản ánh của tồn tại xã
hội, bao gồm nhiều trình độ khác nhau (ý thức thơng thường, ý thức lí luận) và
nhiều hình thái khác nhau (chính trị, pháp quyền, đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật,
triết học, khoa học, v.v.). Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng có tính
độc lập tương đối của nó, thể hiện trên những nét cơ bản là:


9
- Có tính kế thừa, có lơgic phát triển nội tại, có sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội.
- Ý thức khoa học, tiến bộ có thể dự báo triển vọng của xã hội, cũng có thể cải
tạo tồn tại xã hội thơng qua thực tiễn của con người; ngược lại, ý thức sai lầm, lạc
hậu, có thể xun tạc, kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Mối quan hê biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
Một trong những công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phát triển
chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết
một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã
chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở
của đời sống vật chất: rằng khơng thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩa là khơng thể tìm trong đầu óc con nguời mà phải tìm trong
hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ khơng thể giải thích được
chính xác đến nguyên nhân cuối cùng của nó nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại
ấy. Theo C.Mác: "... không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ
vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội
và những quan hệ sản xuất xã hội".

Quan điểm trên đây đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về xã hội,
tức đối lập với quan điểm đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý
thức tư tưởng, coi đó là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát
triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế xã hội. Ngược lại, theo quan điểm duy vật lịch sử thì tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn


10
tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những
tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v. tất yếu sẽ biến đổi theo. Cho nên, ở những thời kỳ
lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội
khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra
rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp
mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm,
lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan
hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những
mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng
ấy.
2. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Theo nguyên lí tồn tại của xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã
hội biến đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên, không phải
trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự
biến đổi của ý thức xã hội; trái lại nhiều yếu tố của ý thức xã hội (trong đời sống
tâm lí xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở
tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi căn bản. Sở dĩ như vậy là vì: Một là
do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói
chung ý thức xã hội chỉ thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt

khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực
tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản
ánh kịp. Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do
tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội. Ba là, ý thức xã hội luôn


11
gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đồn người, những giai cấp nhất định
trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội
tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất
định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể
vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải
quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã
hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội
vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
4. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó:
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan
điểm lí luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được
tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lí luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được
một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, khơng chú ý
đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã
cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ
thuật, v.v... nhiều khi khơng phù hợp hồn tồn với những giai đoạn hưng thịnh
hoặc suy tàn của kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất

giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng


12
tiến bộ của xã hội cũ để lại. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa
cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa
nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan macxit. Người viết: “văn hóa vô
sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà lồi người đã
tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội
của bọn quan liêu”.
5. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng:
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm
cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất khơng thể giải thích
được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại,
tùy theo những hồn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên
hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp thời cổ đại,
triết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Ở Tây Âu thời
trung cổ, tơn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội
như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Các nước Tây Âu ở giai
đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trị to lớn, tác động mạnh mẽ
đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp từ nửa sau thế kỷ XVII và ở Đức cuối
thế kỷ XIX, triết học và văn học là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những
tư tương chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội
tiên tiến. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý
thức chính trị thường có vai trị đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp
cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái
ý thức khác.



13
6. Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt
đối hóa vai trị của ý thức xã hội) mà cịn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay
“chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức
xã hội trong đời sống xã hội). Theo Ph.Ăngghen: “sự phát triển của chính trị, pháp
luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có
ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư
tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể;
vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trị lịch
sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư
tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng
trong quần chúng, v.v... Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư
tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã
hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình,
máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Quan điểm duy vật mácxit về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một trong những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong những cơ sở phương pháp luận
căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Theo nguyên lí này, một mặt, việc
nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại
xã hội đã làm nảy sinh ra nó, mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó
từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng.
Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay



14
đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng
thời, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu
dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng
có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

Chương III. Ý nghĩa phương pháp luận:
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vậy cơng cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải
được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức
xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội
mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà
ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác
định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hố,
phát huy vai trị tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình
phát triển kinh tế và cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; mặt khác phải tránh
tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hố, xây dựng con
người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của
xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất
tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới
trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.


15


Chương IV. Liên hệ thực tiễn
Nước ta đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội
hiện đại và nhiều người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào xây dựng công nghiệp,
xã hội hiện đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện đại không chỉ bắt nguồn từ
trạng thái kinh tế mà cịn là một trạng thái văn hố và tâm lý. Do vậy nếu chúng ta
không tạo ra được những con người cá nhân ngày càng độc lập, chủ động, có đạo
đức thì chưa có đủ tiền đề để đi tới xã hội hiện đại.
1. Tâm lý xã hội của con người Việt Nam hiện nay:
1.1 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng:
a) Tâm lý xã hội:
Tâm lý xã hội bao gồm tồn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán.. của
con người, của một bộ phận xã hội hoặc của tồn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng
trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. Đặc điểm của
tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con
người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngồi của
tồn tại xã hội. Nó khơng có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các
mối quan hệ của con người. Những quan điểm của con người ở trình độ tâm lý xã
hội cịn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ
đan xen với yếu tố tình cảm. Tuy nhiên khơng thể phủ nhận vai trị của tâm lý xã
hội trong sự phát triển của ý thức xã hội.
b) Hệ tư tưởng:
Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những
quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, nghệ thuật, tơn giáo…), kết quả của sự
khái qt hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự


16
giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và được
truyền bá trong xã hội.
c) Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội:

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau,
chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội
Tâm lý xã hội có mối liên hệ hữu cơ với hệ tư tưởng :
Cuộc sống sinh động phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận
bớt xơ cứng, bớt sai lầm, và ngược lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội, gia tăng yếu tố trí
tuệ cho tâm lý xã hội.
1.2 Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ:
a) Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ 8X:
- Thế hệ 8x do có sự tiếp xúc học hỏi với nhiều nền văn hóa, đặc biệt từ văn
hố Âu Mỹ nơi chủ nghĩa cá nhân cũng như các giá trị về năng lực bản thân được
ưu tiên coi trọng – do đó, những tư tưởng táo bạo, dám nghĩ dám làm đã thực sự trở
thành kim chỉ nam cho những ý tưởng sáng tạo, lao động. Chính nhờ điều đó, một
bộ phận thế hệ 8x đã bắt đầu gây được những tiếng vang trong lĩnh vực hoạt động
của mình - chủ yếu là hoạt động kinh doanh và khoa học kỹ thuật. Thực tế, con
người Việt Nam với truyền thống văn hố Á Đơng gắn liền nhiều đặc điểm của sự
khiêm nhường, hành xử một cách kính trọng theo chủ ý của những bậc tiền bối, cấp
trên. Vì vậy, sự thay đổi lớn về tư tưởng này của lớp trẻ như một cuộc cách mạng
thực sự với tất yếu là những hiệu quả ngay lập tức.
Mặc dù vậy, giới trẻ Việt Nam nói chung, thế hệ 8x nói riêng đang gặp những
vấn đề mà không phải lúc nào cũng tư nhận ra được.


17
- Thứ nhất, chính vì những điều kiện thuận lợi ở trên hay nói cách khác là gặp
được “thiên thời, địa lợi”, 8x đạt được những thành công bước đầu cũng như nhận
được sự ủng hộ, quan tâm của toàn xã hội. Cũng từ đó, một bộ phận đã vội vàng
kết luận một cách thiếu logic rằng: thiên thời, địa lợi, nhân hồ dẫn đến thành cơng
và ngược lại khi có thiên thời, địa lợi, thành cơng nghĩa là có nhân hồ. Việc này
tác động khơng nhỏ đến tâm lý của chính thế hệ 8x, dễ dẫn đến trạng thái kiêu căng

cũng như ngủ quên trên chiến thắng mà không tiếp tục học tập ở chính những thế
hệ đi trước. Những sự tiếp thị thương hiệu 8x quá mức, phô trương chính là một
dẫn chứng cho lý luận này.
- Thứ hai, một thực tế là việc giáo dục đạo đức tư tưởng hoặc chưa được coi
trọng đúng mức hoặc quá cứng nhắc lý thuyết nên 8x chưa được trang bị đầy đủ
những lý luận về mặt tư tưởng khi bước ra hoà nhập cùng thế giới. Mỗi một xã hội
đều tồn tại những hạn chế chưa thể giải quyết được và đó được coi là tất yếu, là
mâu thuẫn làm động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, khi chưa được sự chuẩn bị kỹ
về phương tiện lý luận cộng thêm sự choáng ngợp với những thành tựu trước mắt
của các xã hội khác, thế hệ 8x dễ rơi vào tình trạng bi quan hoặc có cái nhìn tiêu
cực về xã hội Việt Nam. Điều này có thể làm cho q trình hội nhập trở thành một
sự hồ tan chứ không đơn thuần là sự hợp tác tự chủ cũng như rất dễ bị chi phối bởi
những ý đồ của các đối tác.
- Thứ ba, trong quá trình tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hoá của phương
Tây, thế hệ 8x tiếp thu rất nhiều những giá trị của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân phương Tây trải qua một quá trình phát triển từ rất lâu và hiện nay đã tiến đến
một chủ nghĩa cá nhân có giới hạn, gắn liền với những giá trị chung của cộng đồng,
xã hội. Người phương Tây đã nhận thức được những vai trò ảnh hưởng của cộng
đồng, xã hội đến những tự do, quyền lợi của chính cá nhân họ. Vì thế, khi thế hệ trẻ
Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa cá nhân phương Tây giai đọan đầu, nó rất dễ dẫn đến


18
những mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi và làm lu mờ đi các giá trị cần phải có để
thúc đẩy xã hội phát triển. Điều nguy hiểm là một bộ phận 8x xem những tiếp thu
về chủ nghĩa cá nhân giai đọan đầu ấy như một niềm tự hào về những giá trị văn
minh của chính bản thân.
- Bên cạnh đó tồn tại những tâm lý, suy nghĩ, tệ nạn như: Nghiện hút, tiêm
chích, thuốc lắc, sinh hoạt tình dục phóng khống, thời trang phi giới tính, đồng
tính học đường, trầm cảm, tự sát, u uất,... những biểu hiện của nhiều thanh thiếu

niên hiện nay đang gây thất vọng cho các bậc phụ huynh, bất lực của nhà trường và
nhức nhối của xã hội.
b) Một số giải pháp nhằm khắc phục:
- Một là: Duy trì và xây dựng nền giáo dục gia đình:
Đào tạo gia đình là nơi sẽ đào tạo lại thanh thiếu niên là vấn đề của tương lai
gần. Chúng ta không nên tham gia phá vỡ gia đình nhiều thế hệ vì rõ ràng là hiện
nay những gia đình hạt nhân gặp nhiều khó khăn hơn.” Trong xã hội Việt Nam hiện
nay, mâu thuẫn ngày càng lớn giữa bố mẹ và con trẻ trong gia đình. Vấn đề giáo
dục đạo đức và giới tính khơng được coi trọng trong gia đình là một trong những
thiệt thịi đối với thanh thiếu niên VN hiện nay. Tuy nhiên “khơng nên tham gia
q trình phá vỡ gia đình nhiều thế hệ. Cần duy trì mơi trường giáo dục này với
những thoả hiệp và tôn trọng lẫn nhau. Bố mẹ cần học tập, cần dành nhiều thời gian
tìm hiểu về tâm sinh lý con cái cũng như hiểu về thế giới mới của trẻ tiếp xúc. Trên
thực tế, gia đình luôn là chỗ dựa vững chắc cho giới trẻ trước những biến động tâm
lý, tình cảm trong suốt hành trình của cuộc sống.
- Hai là: Tăng cường giáo dục đạo đức ở học đường Nhà trường là môi
trường rèn luyện cho mỗi cá nhân học sinh ,sinh viên. Do đó nhà trường cần quán
triệt việc giáo duc rèn luyện đạo đức ,phẩm chất cho học sinh ,sinh viên.


19
- Ba là: Pháp luật ngày càng phải nghiêm khắc đối với nhưng việc làm thiếu
đạo đức ,những tư tưởng văn hóa thiếu lành mạnh
- Bốn là: Quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải tư nhận thức được những việc
mình làm ,thường xuyên trau dồi phẩm chất , đạo đức ,ý thức ,tránh tiếp thu những
văn hóa khơng lành mạnh …
2. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức
thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng
ta cần phải đẩy mạnh cơng mới, văn hố mới, con người mới; khơng ngừng hồn
thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngồi các yếu tố thuận về chủ thể, họ
cịn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng
đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành
mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại. Bởi thế,
muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và việc xây
dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của cơng cuộc xây dựng xã hội
mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là tồn bộ quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước
phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội


20
mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ
tư tưởng, nó cịn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen,
phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu,nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (1). Có thể nói, mơ
hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính
chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống
xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một số
định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có thể khái quát
lại trên một số điều cơ bản sau:
- Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá thực
sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội


21
- Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý luận,
tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ
nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
- Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ
giữa “xây dựng ” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó khơng
hình thành một cách tự phát trong lịng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức,
xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành
động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần
xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri

thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học
và công nghệ... Đó là u cầu tiên quyết trong q trình xây dựng xã hội ta hiện
nay.
Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng
cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và
phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý
thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịng chống tham
nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu
hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.


22
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả,
chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới,
con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội mới luôn
bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì
vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất
của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời
gian qua có ngun nhân từ những yếu kém trong cơng tác tư tưởng, nhưng cũng
có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế
mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết
quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hố và con
người ln có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
- Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học,
cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.

Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng
cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá
trị truyền thống của dân tộc. Đó khơng chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền
thống, mà cịn tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngồi.
Q trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước ta


×