Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Tiểu luận môn,chính trị quốc tế đương đại ,CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.54 KB, 54 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI

Đề tài:
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng “toàn diện và nghiêm trọng”, cuối cùng đi đến sụp đổ trên
một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh
đó cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất
cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng
những thành tựu cách mạng khoa học - cơng nghệ nên thích nghi và tiếp tục
phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách
đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi
phức tạp và khó lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế
giới. Tồn cầu hố tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước.
Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội
nhập quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi
quốc gia, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình
phát triển.
Đứng trước những cơ hội và thách thức như trên, năm 1986 Đảng ta đã
tiến hành đưa ra những chính sách đối ngoại nhằm tiến hành đổi mới toàn
diện đất nước. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta
đã lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định,
mơi trường hồ bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được
trong tiến trình cơng cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân


giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước
Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với
phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.

2


Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh
truyền nhiễm, đói nghèo, tội phạm xun quốc gia, ơ nhiễm môi trường, buôn
lậu ma túy… Những nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm
của mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hợp tác quốc tế, độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên em chọn đề tài nghiên cứu “Chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ”.
2. Tình hình ngiên cứu
Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới trở thành chủ đề
hấp dẫn nhiều giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Cho đến nay có rất ít
những cơng trình nghiên cứu, chun khảo, luận văn về vấn đề này.
Hiện tại có một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng –
Nhà nước, Bộ ngoại giao, Cục đối ngoại, Bộ quốc phòng, Viện quan hệ quốc
tế đề cập đến vấn đề này gồm có những bài sau đây:
“Nền ngoại giao đổi mới” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng
vấn báo quan hệ quốc tế đầu xuân 1994.
“Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam” và “Việt Nam trên đường triển khai chính sách đối

ngoại theo hướng mới” của Nguyễn Mạnh Cầm Ủy viên Bộ chính trị, Bộ
trưởng Bộ ngoại giao, trưởng ban chỉ đạo Nhà nước về biển Đông và các Hải
đảo.
“Một số vấn đề quốc tế của đại hội VIII” của Vũ Khoan thứ trưởng Bộ
ngoại giao đăng trong tạo chí quốc tế.
“Cục diện thế giới, vận nước” của thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần
Quang Cơ, đăng trong tạp chí quốc tế 1 – 1992 và “Thế giới sau chiến tranh
lạnh”, “quan hệ Việt Nam và các nước Châu Á – Thái Bình Dương” tham
3


luận tại hội nghị về những thách thức đối với công cuộc tái thiết của việt nam
và các vấn đề trong nước và quốc tế do trung tâm Đông – Tây tổ chức tại Mỹ
từ ngày 21 – 22/1992.
“Dân tộc, thời đại, thời cơ và thách thức” của Trần Quang Cơ trả lời tạp
chí thơng tin lý luận 1/1991.
“sáng tạo ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh” của Nguyễn Song
Tùng phó ban đối ngoại trung ương.
“Nguyên tắc ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào xây dựng
đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của
Nguyễn Quốc Bảo và Nguyễn Văn Nguyên xuất bản năm 2012.
“Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng cộng
sản Việt Nam trong hoạt động ngoại giao từ năm 1986 đến 2010” của Bằng
Đăng Ngọc xuất bản năm 2012.
Nhìn chung các tác giả, các tổng quan của đề tài đã từ nhiều cách tiếp
cận khác, đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới. Chính sách đối
ngoại của các quốc gia trước những biến động có tính bước ngoặt lịch sử,
đồng thời chỉ rõ những đặc trưng, tính chất tồn cầu đã và đang tác động đến
tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ

đổi mới (1986-2016), một cách có hệ thống cả về đường lối và kết quả thực
hiện một cách toàn diện thì chưa có cơng trình nào đề cập trực tiếp đến thời
điểm này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Thơng qua q trình xác định chính sách đối ngoại , theo đường lối đổi
mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy
cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới
chính sách đối ngoại phù hợp chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội
nhập với cộng đồng quốc tế vì hịa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
4


Nhiệm vụ:
Trình bày những cơ sở dẫn đến sựu xác định chính sách đối ngoại theo
đường lối đổi mới.
Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đổi mới, cái mới, cái
sáng tạo của đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.
Thơng qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ
trương “độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ quốc tế là
quyết sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên kinh nghiệm
thực hiện chính sách đối ngoại.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là một đề tài
rộng nhưng tiểu luận chỉ đề cập tới những vấn đề sau.
Thời gian và không gian tiểu luận đề cập là từ năm 1986 đến nay ở Việt
Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp
ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
Nội dung: thơng qua những phân tích chuyển biến tình hình trong nước,
thế giới, khái quát có hệ thống sự chuyển biến, sự phát triển của chính sách

đối ngoại của Đảng – nhà nước tiến hành xây dựng kết hợp bảo vệ chủ quyền
quốc gia và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu dựa trên các nguồn tư liệu
sau đây:
Một số sách kinh điển của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh và một số sách lý luận của các nhà lãnh đạo Đảng – nhà nước Việt Nam.
Văn kiện, Nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc
biệt chú trọng khai thác các văn kiện nghị quyết của Trung Ương và Bộ chính
trị giữa nhiệm kỳ Đại hội VI - VII – VIII – IX với một số sách, bài nói, bài
viết phối hợp nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.
5


Kế thừa những tài liệu được công bố qua các cơng trình của một số tác
giả đã cơng bố. Ngồi ra khai thác từ nguồn tư liệu của thông tấn xã Việt Nam
như: tạp chí cộng sản...
Phương pháp nghiên cứu: theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa
vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Leenin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so
sánh, thống kê.
6. Đóng góp của tiểu luận
Trình bày hệ thống cơ sở hình thành và nội dung đường lối chính sách
đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Khẳng định vai trị, tác dụng của chính sách đối ngoại với cơng cuộc
đổi mới tồn diện trên đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và quan hệ
đa dạng hóa, đa phương hóa của nước ta với các nước trong khu vực và thế
giới.
Một số bài học kinh nghiệm chung nhất trong hoạch định đường lối

chính sách đối ngoại của Đảng, góp tiếng nói chung với việc nghiên cứu
chính sách đối ngoại của Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
tiểu luận gồm 3 chương.

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CỞ SỞ ĐỂ MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG
HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
1.1.

Nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập với thế

giới.
1.1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của chính sách
đối ngoại.
Giữ vững mơi trường hịa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới
và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau; không
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp

thơng qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có
lợi.Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động
của nhân dân thế giới, tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp
tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi để phát triển kinh tế – xã
hội.Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng

7


đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề
nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi
dụng các vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn giáo” hịng can thiệp vào
cơng việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và
ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu .Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ
trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước. Chuẩn bị tốt các điều kiện
để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc
đẩy quan hệ hợp tác tồn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á –
Thái Bình Dương… Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản
pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng
bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch.
Phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu
tư, phát triển thị trường, sản phẩm và thương hiệu mới. Khuyến khích các

doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và
mạnh dạn đầu tư ra nước ngồi.Đẩy mạnh cơng tác văn hố – thơng tin đối
ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với
nhân dân các nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm cơng
tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực
nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường cơng tác nghiên cứu,
dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ
quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của
Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối
ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối
ngoại, quốc phịng và an ninh; thơng tin trong và ngoài nước.
8


1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt
Nam ln phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng
trầm ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa
mang đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo
nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên
cường cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… và nhiều bài học sâu sắc và bổ
ích về quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại… Đó cịn là lịng
mong muốn hịa bình, hịa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân
văn sâu sắc và truyền thống u chuộng hịa bình vốn có của người Việt…
Lịch sử đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam
đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam tính chiến đấu cao, bản chất hịa
bình, hịa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy

chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh
truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân
dân là một “binh chủng” đa kênh và đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao
Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại
giao dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là
ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối
quan hệ giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các
nhà lãnh đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán
hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người
đại diện cho chính phủ ở nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức
hoạt động quan hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc
nhiều lĩnh vực tiến hành, khơng mang tính chất chính thức của Chính phủ.
9


Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của
một nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại
mà chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng quan trọng của
mặt trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có thể đi đầu, có thể
đi trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao
chính thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai.
Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “khơng gây thù ốn với một
ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm tập
hợp lực lượng, hình thành mặt trận đồn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng,
nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn cơng vào lịng người, chinh phục
bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lịng người để nhân lên
sức mạnh của chính nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao khơng chỉ

là sự nghiệp của tồn dân, mà cịn phải lơi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa
để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp
dẫn dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa
ngoại giao truyền thống Việt Nam với những tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ
thể. Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời
bình, ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha
ơng, góp phần khơng nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và xây
dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
1.2. Những địi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
1.2.1. Tình hình trong nước
Năm 1975 nước ta hồn tồn giải phóng, tổ quốc hịa bình, thống nhất
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số

10


thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào
công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy
ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc
chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm
tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm
mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định
“Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hịa bình vừa phải đương đầu với một
kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng
vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến
những khó khăn về kinh tế xã hội.

Sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã (774,7% năm 1986). Đời sống nhân
dân hết sức khó khăn, trong khi đất nước rơi vào tình thế bị bao vây, cấm vận
nặng nề.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới với thái độ
nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích một
cách khách quan những sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng và đi đến quyết định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách
tồn diện.
1.2.2. Tình hình thế giới
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh
mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế
giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hịa hỗn của các
nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương,
hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới
phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và
đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến
giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất
11


hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện
những mâu thuẫn bất đồng, Đơng Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới.
Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự
SEATO tan rã; ngày 24 – 2 – 1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện
và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình
hợp tác trong khu vực.

12



CHƯƠNG 2:
Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam trước đổi mới.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là
“Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn
những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng
cố và tăng cường tình đồn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa
Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tơn trọng độc lập chủ quyền, bình
đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách
đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xơ
là hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu
ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực
Đơng Nam Á hồ bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải
trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại
chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước
ta.Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đồn kết và hợp tác
tồn diện với Liên Xơ là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hịn đá tảng

trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt
Nam-Lào-Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc;
13


kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và
thương lượng để giải quyết các trở ngại; nhằm xây dựng Đơng Nam Á thành
khu vực hịa bình và ổn định; chủ trương khơi phục quan hệ bình thường với
Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình; chủ trương thiết
lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật, với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai
đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977,
nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976,
Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Qũy tiền tệ quốc tế (IFM);
ngày 21-9-1976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB);
ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9177, tiếp nhận ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động
trong phong trào không liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở
quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông
Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ
chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ
nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước hệ thống chủ nghĩa
đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khơi phục đất nước sau
chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế;
Ngân hàng thế giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức
của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào khơng
liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc
tế đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết

lập quan hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để
triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đơng
Nam Á trở thành khu vực hịa bình, hữu nghị và hợp tác.
14


• Hạn chế
Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp
những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ
cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy cớ “ sự kiện campuchia” các nước
ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam…
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại
giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hịa
hỗn và chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố
thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát
triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối ngoại phù
hợp với tình hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam
giai đoạn ( 1975 -1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “ bệnh
chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan”.
Từ những hạn chế đó. Năm 1986 Đảng ta đã chủ trương đổi mới chính
sách đối ngoại của nước ta.
2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm (1986 – 1995)
2.2.1. Chính sách đối ngoại (1986 – 1991)
Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ
năm 1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình. Đến
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh : “Ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hịa bình ở Đơng Dương,
góp phần giữ vững hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều

kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc…”. Hịa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế
giới có hịa bình thì các khu vực mới có hịa bình và ngược lại. Đổi mới tồn
diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra
chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại
15


hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại
hồ bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á:
“Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại
hồ bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định và hợp
tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc”… và “cần hoà bình để phát triển kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và
các nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ
trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, khơng
phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị,
phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới.
Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng
trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục
tiêu và những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc
này là hịa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn
đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hịa hỗn, hợp
tác giải quyết các vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI

đã khẳng định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu
vực thương lượng để giảiquyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ
cùng tồn tại hịa bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa bình, ổn
định và hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là
mốc khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối
ngoại của Đảng ta. Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội
lớn để có thể giữ hịa bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền
16


kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay
chủ trương 10 năm trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối
trọng với các nước ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định khơng đối lập
nhóm 3 nước Lào, Việt Nam,

Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm

ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách tồn diện với Đơng Nam
Á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá
vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế,
khoa học – kỹ thuật, văn hóa với các
nước trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hịa bình, ổn định,
hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc lại lời cảnh báo của nghị
quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu chúng ta lại để lỡ những cơ
hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém về mọi mặt so
với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của thế giới, làm
thất bại âm mưu cơ lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát triển của

khoa học – kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân cơng lao động
quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm
và ký Thông cáo chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh
ngày 29/07/1987, vừa khai thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế
đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút
quân khỏi Campuchia từ 1984 – 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào
giải pháp hịa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu
phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham
gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần
thứ 3 họp tại Manila ( Philipin ) Tổng thống Philipin C.V. Akinô tuyên bố
không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin. Tiếp đó tháng 2/1989 Bộ
17


trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố “ không chống lại việc Việt Nam gia
nhập ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng
8/1988, đã đưa ra chủ trương “ Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị
trường”. Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố
ủng hộ (6/1989). Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước
ta cũng luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hồ
bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á
thành một khu vực hồ bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị
bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa
nhấn mạnh: Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước
ASEAN và các nước trong khu vực.Tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước
Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước
sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan

hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp
theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là
Tổng thống Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên,
thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt
cũng lần lượt thăm hữu nghị chính thức Indonexia, Vương quốc Thái Lan và
Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991.
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của
Trung Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của
Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam – Đông
Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam – ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ
năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững
một số thành quả của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, khai thơng quan hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta
18


tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đơng Nam Á hịa bình, ổn
định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có
điều kiện tăng cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác.
Những thành tựu đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng
lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo.
2.2.2. Chính sách đôi ngoại từ (1991 – 1995)
Quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực,
và việc Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu
chấm dứt của “ thời kỳ Campuchia trong quan hệ Việt Nam – ASEAN , mở ra
một thời kỳ mới , thời kỳ hợp tác của cả hai bên”.
Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất
nước lúc này là duy trì hịa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một mơi trường
quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân

dân, đưa đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 61992) đã ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ
đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế;
đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối
ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…, trên cơ sở giữ vững
độc lập tự chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng
và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống
tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc… Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là
văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước.
Lãnh đạo của Việt Nam và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến
hành các chuyến viếng thăm lẫn nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin
cậy. Nước ta và các nước này đã ký hàng chục hiệp định cấp chính phủ tạo cơ
sở pháp lý cho việc phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học
kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng
19


30% hàng xuất – nhập khẩu của ta, kim ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6
tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm 1994. Các nước thành viên ASEAN
cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt
Nam và các nước này cũng từng bước thương lượng giải quyết những vấn đề
tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia cùng khai thác vùng chồng lấn
và hồi hương người Việt di tản. Thái Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi việc cho
Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông sự hợp tác về sông Mekong, lập quỹ khu
vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm phán về vùng chồng lấn, thỏa
thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan. Chúng ta cũng kiên trì thúc đẩy
đàm phán phán về thềm lục địa với Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát
viên của ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN , từ năm 1992 ,Việt

Nam đã được mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia
ASEAN vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư
luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “
muốn Việt Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố
chính sách 4 điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất
trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của
ASEAN. Ngày 28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney)
lễ kết nạp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của
ASEAN đã được tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên
minh Quốc hội ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã khẳng
định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với
tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.

20


Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại,
Việt Nam đã giữ vững được mơi trường hịa bình, phá được thế bị bao vây
cấm vận về kinh tế và cơ lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc – nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ – cường quốc số 1 thế giới, gia
nhập ASEAN và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm châu
( riêng từ 1991 – 1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42
nước , nâng tổng số các nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ).
Điều này cho thấy, vị trí, vai trị và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở
khu vực và thế giới.
2.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ (1996 – 2010)

2.3.1. Chính sách đối ngoại (1996 – 2004)
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực
và quốc tế. Đồng thời chủ trương “ xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh
quá trình kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ
trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:


Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác



Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với
các tổ chức phi chính phủ.



Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương
“Thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII
(12-1997), đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
Hiệp định Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (42001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan
điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “ Xây dựng nền kinh tế độc lập
21


tự chủ, trước hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm

lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị – xã hội nước ta dần đi vào ổn
định; “thế” và “lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở
rộng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên,
chúng ta cịn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và
gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường
cạnh tranh quyết liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng
tiếp tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Ngồi ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt
Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ
cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị
Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế
giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu,
bài học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong
nhận thức, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của
Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính
sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực
của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
22



“Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả
các nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo
được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích
với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác tồn
diện với Lào khơng ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày
càng chặt chẽ, hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng
mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an
ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế.
Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hồn tồn và nâng lên tầm
cao mới theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã
ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ,
Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong
vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông – Nam Á
(ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, góp phần
vào việc củng cố đồn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường
hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của của hiệp hội ở khu
vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các
nước bạn bè truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân
dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập,
Trung – Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đồn
kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta
đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi,
Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước
bạn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp

23


tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế
giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới
tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh
vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch,
chuyển giao công nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực
và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN,
tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại
của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn
đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ
với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB)… Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX
( 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong cơng cuộc
phát triển đất nước thơng qua việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định.
Đặc biệt là cơng tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu
hút đầu tư; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam với các nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết
hợp chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa
vai trị và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc,
Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng
tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát

triển kinh tế – xã hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hịa bình và các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế.
24


Cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi ngày càng được coi
trọng. Về nhận thức, Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị
quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngồi đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước
ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội
nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của công dân Việt Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với
nước sở tại.
2.3.2. Chính sách đối ngoại (2005 – 2010)
Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời đề
ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định
đường lối,chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành
động đúng, dự báo được tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh,
đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình,
kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý,
hoành chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm

của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế và toàn xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều
cơ hội song cũng đầy thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích
25


×