Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Vấn đề hợp tác quốc tế của việt nam trong thời kỳ đổi mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.54 KB, 66 trang )

Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHN Đ TÀI:
Loài người đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, với bao
biến động đổi thay đầy phức tạp. Trong kinh tế, xu thế khu vực hoá, quốc tế
hoá nền kinh tế thế giới đang trở thành yêu cầu khách quan. Sự phát triển
mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ đã và đang tác
động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Thế giới chuyển từ thời kỳ
đối đầu sang đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng thi đua tồn tại trong
hoà bình và phát triển.
Có thể khẳng định rằng, không một quốc gia, dân tộc nào phát triển
được mà lại tách biệt, biệt lập với thế giới bên ngoài. Vì thế hợp tác quốc tế
trở thành xu thế khách quan phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó khai thác được nguồn vốn, công nghệ, và tìm được chỗ đứng trong thị
trường quốc tế là cực kỳ quan trọng.
Trên thế giới: Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
khiến CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi
tính chất của thời đại, loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH.
Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, xung đột về sắc tộc và tôn giáo, việc sản xuất và buôn
bán vũ khí, chạy đua vũ trang, các hoạt động can thiệp, bạo loạn, lật đổ,
khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cách mạng KH-CN mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ
thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới tiếp tục phát triển nhanh với
trình độ ngày càng cao, làm thay đổi nhanh chóng tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,
Quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội.
Các nước đều đứng trước cơ hội để phát triển, nhưng mặt khác do ưu
thế thuộc về các nước TBCN phát triển và các công ty xuyên quốc gia - về
vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý - nên các nước đang phát


triển đứng trước những thách thức to lớn.
Cuộc cạnh tranh kinh tế thương mại, KH-CN diễn ra gay gắt trên
phạm vi toàn thế giới. Công đồng Quốc tế đang đứng trước những vấn đề
chung có tính toàn cầu: Bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo. Không một quốc gia riêng lẻ nào có
thể tự giải quyết, mà cần phải có sự hợp tác đa phương.
- 1 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Từ những đặc điểm nêu trên, trong quan hệ hợp tác Quốc tế đã và
đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau:
Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của đông đảo các dân tộc và các quốc gia. Các nước dành ưu tiên
cho yêu cầu phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định
đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hợp
tác và liên kết khu vực, Quốc tế hoá và toàn cầu hoá về kinh tế, thương mại
và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự
lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống lại sự áp đặt can thiệp của nước
ngoài, vì hoà bình độc lập và phát triển.
Các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, cùng tồn tại hoà bình, hợp tác ngày càng tăng lên và sâu thêm, những
cạnh tranh cũng rất gay gắt và quyết liệt.
Sự vận động của các mâu thuẫn cơ bản và tác động của các xu thế chủ
yếu nêu trên làm nảy sinh tính đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ
hợp tác Quốc tế, từ đó nhiều nước điều chỉnh chiến lược và thể hiện chính
sách đối ngoại của mình.
Trong nước: Trước tình hình và đặc điểm của thế giới đầy biến động
và phức tạp như vậy, chúng ta đã tiến hành đổi mới thành công. Những kết
quả bước đầu đã khẳng định đường lối đổi mới mà Đảng ta đề ra từ Đại hội
VI - 1986 là đúng đắn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang đứng trước một số

khó khăn như: tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến
hoà bình" do các thế lực gây ra. Đến nay, những thách thức đó vẫn tồn tại,
diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ
nào.
Việt Nam là một nước đang phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn. Muốn đổi mới thành công, làm cho nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020, thực hiện mục tiêu: "Dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" chúng ta không thể không mở cửa,
giao lưu hợp tác trong quan hệ Quốc tế.
Trong bối cảnh quốc tế rất phức tạp hiện nay, xu thế tất yếu khách
quan trong quá trình phát triển là đòi hỏi phải có sự hợp tác, phát huy thế
mạnh, khắc phục khó khăn đưa đất nước đổi mới với thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đi tới thắng lợi.
- 2 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Với tinh thần sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng Quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam
thực hiện đường lối nhất quán đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ Quốc tế. Trong bối cảnh Quốc tế diễn biến
nhanh chóng, có nhiều thuận lợi nhưng cũng chứa đựng không ít yếu tố bất
trắc, những năm sắp tới, sự nghiệp cách mạng nước ta chắc chắn sẽ có bước
phát triển sôi động.
Xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm
đầu tiến hành công cuộc đổi mới, cũng như những diễn biến phức tạp của
Thế giới nêu trên, do hạn chế về thời gian và tri thức, đề tài nghiên cứu của
tôi chỉ giới hạn trong phạm vi: "Vấn đề hợp tác Quốc tế của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin".
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỦA Đ TÀI:
Quan hệ hợp tác quốc tế đã xuất hiện với tư cách là mối quan hệ xã

hội lâu đời và phổ biến. Nó vừa là kết quả, vừa là điều kiện cần thiết cho
mọi quá trình phát triển của xã hội. Mối quan hệ đó đang diễn biến với tính
chất và hình thức khác nhau trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Xuất
phát từ tình hình thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, cũng như xu
hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam muốn phát triển không
thể không có quan hệ trao đổi, giao lưu trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị,
văn hoá với các cộng đồng dân tộc, quốc gia khác. Chính cơ sở thực tiễn
đó làm cho vấn đề này trở thành một vấn đề được Đảng và Nhà nước rất
quan tâm, đặc biệt là các nhà khoa học chuyên nghiên cứu vấn đề quan hệ
hợp tác Quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này và
quan hệ hợp tác Quốc tế giai đoạn hiện nay như:
1. Lịch sử quan hệ Quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai 1945
đến năm 1954 của tác giả Phạm Giảng, xuất bản năm 1962.
2. Quan hệ Quốc tế, trật tự thế giới thời kỳ chiến tranh lạnh của tập
thể tác giả Khoa Quan hệ quốc tế - Học Viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh năm 1996 và 1997.
3. Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1917 đến 1995 của tập thể tác giả
trường ĐHSP - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1996.
4. Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta của Học viện quan hệ Quốc tế năm 1997.
- 3 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
5. Quan hệ Quốc tế từ năm 1945 đến 1995 của hai tác giả Hoàng Văn
Hiển - ĐHKH Huế, và Nguyễn Viết Thảo - Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội - 1998.
Cùng nhiều bài viết khác trên các tạp chí quan hệ Quốc tế và nghiên
cứu Quốc tế
Các công trình nghiên cứu trên vẫn chưa khai thác hết các khía cạnh
của quan hệ hợp tác ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và chưa có một hệ

thống công trình nghiên cứu nào mang tính chuyên biệt về quan hệ hợp tác
Quốc tế thời hiện đại.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tài liệu đã có, đồng thời vận
dụng những sự kiện qua tìm hiểu vấn đề hợp tác Quốc tế, đề tài khoá luận sẽ
đi phân tích sâu một số nội dung về quan hệ hợp tác Quốc tế ở Việt Nam
hiện nay và rút ra những kết luận cần thiết về tầm quan trọng của sự hợp tác
Quốc tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Mục đích của đề tài là: xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh, có cơ sở
khoa học cả về lý luận và thực tiễn với nội dung sát thực, chỉ ra xu hướng,
khuynh hướng và quy luật của sự hợp tác Quốc tế ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài là: góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
quan hệ hợp tác Quốc tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay, nhất là
trong giai đoạn nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; Khái quát nội dung và hình thức của hợp tác Quốc tế
trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật của Việt Nam.
IV. CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Cơ sở lý luận của đề tài là: chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm
của Đảng CSVN về quan hệ hợp tác Quốc tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH và trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là: phương pháp biện chứng duy
vật và kết hợp với một số phương pháp chủ yếu khác như: Phân tích, tổng
hợp, khái quát
V. ĐÓNG GÓP CỦA Đ TÀI:
Đề tài góp phần khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin
về hợp tác Quốc tế và những quan điểm của Đảng ta về hợp tác Quốc tế
trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và khoa học kỹ
thuật ở Việt Nam. Đề tài cũng bước đầu đi sâu xem xét, nghiên cứu và đánh
giá thực trạng của sự hợp tác Quốc tế ở Việt Nam hiện nay một cách có hệ
thống.

- 4 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Đề tài còn là một trong những tài liệu tham khảo cho sinh viên và
những người muốn tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này.
VI. KẾT CẤU CỦA Đ TÀI:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm hai chương:
Chương 1: Khái luận chung về quan hệ hợp tác Quốc tế.
Chương 2: Nội dung cơ bản của quan hệ hợp tác Quốc tế ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới.
- 5 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN V QUAN HỆ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1.1 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN V HỢP TÁC QUỐC TẾ
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Lịch sử từ xa xưa đến nay, không một cộng đồng người, một dân tộc
hay một quốc gia nào phát triển mà không quan hệ trao đổi, giao lưu trên
các lĩnh vực Kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng với các cộng đồng dân
tộc, quốc gia khác. Quan hệ hợp tác quốc tế chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống chính trị của tất cả các quốc gia dân tộc. Sự biến đổi và phát triển
của các chế độ chính trị, kinh tế - xã hội liên quan chặt chẽ với quá trình
trao đổi, buôn bán, hợp tác, đấu tranh, cũng như phát triển quan hệ ngoại
giao với các nước, với các chính phủ, phi chính phủ, liên minh quốc gia
trong vùng lãnh thổ, trong khu vực và trên thế giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những quan điểm đúng đắn về quan
hệ hợp tác quốc tế, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng,
trong công cuộc đổi mới của chúng ta hôm nay. Trong thời đại ngày nay,
các mối quan hệ đó một mặt, ngày càng phát triển sâu rộng, chặt chẽ, ràng
buộc và phụ thuộc lẫn nhau; mặt khác, chứa đầy mâu thuẫn, phức tạp và

những biến đổi không ngừng. Thế kỷ XXI sẽ đánh dấu sự phát triển vượt
bậc của khoa học và công nghệ, của toàn cầu hoá, và các vấn đề kinh tế, văn
hoá Các quốc gia vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau để tồn tại và phát
triển.
Mác và Ăng ghen, những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa
học trên cơ sở của hai phát minh vĩ đại: quan niệm duy vật biện chứng về
lịch sử và quy luật giá trị thặng dư. Từ đây chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa
học để nghiên cứu một cách đúng đắn về xã hội loài người. Trong đó bao
gồm việc nghiên cứu những vấn đề quan hệ hợp tác quốc tế phải dựa trên cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác là phương pháp luận biện chứng duy vật khoa
học. Những quan điểm cơ bản về vấn đề quan hệ hợp tác quốc tế của Mác
và Ăng ghen đã giúp ta nhận thức đúng đắn và sâu sắc những vấn đề quốc tế
trong lịch sử cũng như trong thời đại ngày nay. Có thể nêu lên một số quan
điểm cơ bản về quan hệ hợp tác quốc tế của Mác và Ăng ghen như sau:
Vấn đề thời đại:
Kế thừa tư tưởng của những người đi trước như: Phuriê, Mooc-Găng
về vấn đề thời đại và đứng trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch
- 6 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác và Ăng ghen đã nêu lên quan điểm về
thời đại. Ăng ghen viết: “ Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu
của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó
quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử
của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới
cắt nghĩa được lịch sử đó ”[4; 523].
Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cấu thành thời đại.
Còn bản thân thời đại là thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển và ngự trị của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Mác và Ăng ghen chỉ dự báo nội dung cơ bản của thời đại mới là:
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ

cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ về chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái
gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”[3; 47]. Tư
tưởng trên đây vẫn còn nguyên ý nghĩa để khẳng định con đường đi lên của
các cuộc cách mạng chân chính hiện nay.
Vấn đề toàn cầu hoá:
Ngày nay, toàn cầu hoá là một xu thế lớn trong lịch sử nhân loại. Chi
phối sự vận động của toàn thế giới. Cách đây hơn 150 năm. Trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản”, Mác và Ăng ghen đã nói đến quốc tế hoá và
toàn cầu hoá: “Đại Công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới Do bóp nặn
thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất
cả các nước mang tính chất thế giới Thay cho tình trạng cô lập trước kia
của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”; rằng “nhờ cải
tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở
nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man
nhất vào trào lưu văn minh” [2; 598, 602, 603].
Mác và Ăng ghen chỉ ra toàn cầu hoá là một xu thế khách quan. Xu
thế đó gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, các khu vực trên
thế giới. Trong các tác phẩm của mình, Mác và Ăng ghen chưa sử dụng
thuật ngữ toàn cầu hoá kinh tế, nhưng hai ông đã phân tích một cách sâu sắc
quá trình quốc tế hoá sản phẩm tư bản chủ nghĩa và xu hướng phát triển của
nó.
- 7 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Tư tưởng của Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ những điều rất cơ bản mang
tính phương pháp luận về quá trình quốc tế hoá sản xuất. Thứ nhất, quá
trình quốc tế hoá kinh tế đã có từ rất sớm. Những phát kiến về địa lý, giao
thông vận tải đã mở ra cơ hội cho quá trình quốc tế hoá kinh tế. Lịch sử

quốc tế hoá kinh tế bắt đầu từ sau khi tìm ra châu Mỹ, nhưng tiến trình này
chỉ thực sự tăng tốc sau khi cách mạng công nghiệp ở Anh và các nước tư
bản chủ nghĩa chủ yếu khác thành công. Thứ hai, quá trình quốc tế hoá kinh
tế mang tính tất yếu khách quan, do đòi hỏi của bản thân nền sản xuất, đặc
biệt là do sự phát triển của lực lượng sản xuất sự phát triển của sức sản xuất
vừa đòi hỏi lại vừa tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế mang tính quốc tế.
Thứ ba, quá trình quốc tế hoá kinh tế dù mang trong nó yếu tố khách quan,
nhưng bên trong nó thúc đẩy và luôn là ý áp đặt chủ quan của những nước
nắm các lực lượng kinh tế hùng hậu nhất.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng có tính tất yếu, và tính tất yếu đó lại
có nguyên do từ quá trình quốc tế hoá, có sự bắt đầu bằng quốc tế hoá kinh
tế. Bản chất khách quan của toàn cầu hoá kinh tế được quy định bởi tính tất
yếu khách quan của quá trình quốc tế hoá kinh tế. Ngay trong thực tiễn, trên
một số mặt chủ yếu của nền kinh tế thế giới, quốc tế hoá là cơ sở, tiền đề
cho toàn cầu hoá kinh tế.
Ôn lại những chỉ dẫn của Mác và Ăng ghen, chúng ta càng nhận thức
vấn đề này một cách sâu sắc hơn. Hiện nay, xu thế hoà bình, hợp tác để phát
triển trở thành xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế. Có nhiều yếu tố tác động
đến toàn cầu là: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ cuối thập kỷ 70
của thế kỷ XX trở lại đây, đặc biệt là cách mạng thông tin; Sự quốc tế hoá
hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó đặc biệt là vai trò của các công ty
xuyên quốc gia; Chính sách tự do hoá của các nước, trong đó đặc biệt là vai
trò đầu tầu của các nước bá quyền và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
phương Tây.
Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác khẳng định quá trình phát triển của xã hội loài người
là quá trình lịch sử tự nhiên, đồng thời cũng khẳng định không phải những
cá nhân kiệt xuất, những anh hùng mà chính quần chúng nhân dân là người
làm nên lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử ngày một
tăng lên.

- 8 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Phê phán quan điểm duy tâm của anh em Bơrunô, Bauơ coi thường
vai trò của quần chúng nhân dân, Mác và Ăng ghen chỉ ra: “Hoạt động lịch
sử ngày càng lớn lao thì do đó, quần chúng mà hoạt động lịch sử đó là sự
nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo”[1; 123]
Khi tổng kết kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu,
Bắc Mỹ và nhất là phong trào cách mạng Tây Âu những năm 40-50 của thế
kỷ XIX, Mác và Ăng ghen lại một lần nữa khẳng định quần chúng nhân dân
là người làm nên lịch sử, chính họ đóng vai trò quyết định đối với tiến trình
của lịch sử thế giới.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Mác và Ăng ghen chứng minh rằng, trong xã hội tư bản đã hình thành
một nền sản xuất đại công nghiệp, đảm bảo cho lực lượng sản xuất và xã hội
phát triển, khiến cho xã hội loài người có thể chuyển lên một xã hội cao
hơn, đó là xã hội cộng sản văn minh. Đồng thời, một lực lượng xã hội đã
hình thành và phát triển, đó là giai cấp công nhân. Giai cấp này có sứ mệnh
lịch sử là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản”, hai ông viết: “Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp chính
cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của
nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản
sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản
và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”[2; 613].
Về chủ nghĩa quốc tế vô sản
Trong hoàn cảnh lịch sử của thời đại mà Mác và Ăng ghen sống, giai
cấp vô sản chưa giành được chính quyền, vì vậy hai ông luôn nhấn mạnh
đến đại đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mác và
Ăng ghen đã kêu gọi giai cấp công nhân toàn thế giới: “Mặc cho các giai
cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong

cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới. Vô sản các nước đoàn
kết lại”[2; 646].
Trong tác phẩm: ”Phê phán cương lĩnh Gôtha”, cũng như trong
“Cương lĩnh Gôtha”, Mác đã phê phán Đảng Công nhân Đức chỉ nói đến sự
hoạt động riêng biệt của giai cấp vô sản trong phạm vi dân tộc, mà không
nêu lên mối quan hệ đoàn kết, tương trợ giữa giai cấp công nhân các nước
- 9 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
với nhau: không hề nói đến những nhiệm vụ quốc tế của giai cấp công nhân
Đức.
Cống hiến của V.I. Lênin về lý luận quan hệ hợp tác quốc tế:
Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới, đặc biệt
trong lý luận về quan hệ quốc tế. Lênin có nhiều cống hiến to lớn vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác. Người nêu ra những quy luật quan hệ quốc
tế ở những thời kỳ lịch sử khác nhau và những nguyên lý cơ bản về lý luận
quan hệ quốc tế để hình thành chiến lược sách lược đối ngoại của Đảng
công nhân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lênin về quan hệ
hợp tác quốc tế được thể hiện rõ ở hai giai đoạn: Trước Cách mạng tháng
Mười và sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Trước Cách mạng tháng Mười, Lênin đã nghiên cứu nguyên nhân của
cuộc chiến tranh và tính chất của chiến tranh giữa các đế quốc. Người vạch
ra tính chất cướp đoạt trong chính sách đối ngoại của các nước đế quốc, và
nhấn mạnh vai trò quan trọng của sự đoàn kết giữa giai cấp công nhân và
các lực lượng tiến bộ trong đấu tranh chống đế quốc. Đồng thời Người cũng
chỉ ra chính sách đối ngoại của Nhà nước vô sản mới thành lập, phải đối lập
với chính sách ngoại giao có tính chất cướp đoạt của giai cấp tư sản.
Chính sách đó phải thúc đẩy sự nghiệp giải phóng các nước thuộc địa
và quyền tự quyết của các dân tộc, phải liên minh với các lực lượng cách
mạng và các dân tộc bị áp bức, phải bảo vệ hoà bình trên cơ sở tôn trọng

chủ quyền của nhân dân các nước. Ba vấn đề chủ yếu trên lĩnh vực quan hệ
hợp tác quốc tế mà Lênin đã phát triển lên từ chủ nghĩa Mác trong giai đoạn
lịch sử này là:
Chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trong một nước:
Trong điều kiện lịch sử những năm 40 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa
tư bản đang còn ở giai đoạn tự do cạnh tranh, mâu thuẫn giữa các nước tư
bản chưa phát triển đến mức gay gắt, Mác và Ăng ghen đã nêu lên luận
điểm về cuộc cách mạng vô sản như sau: “Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể có
được một cách kinh nghiệm như là hành động “tức khắc” và đồng thời của
những dân tộc chiếm địa vị thống trị, điều này lại giả định là phải có sự phát
triển phổ biến của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính thế giới gắn
liền với chủ nghĩa cộng sản”[5; 50].
Đến giai đoạn lịch sử mới, chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa
đế quốc, Lênin khẳng định chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ
- 10 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
nghĩa tư bản, là “đêm trước của cuộc cách mạng vô sản” và Người kết luận:
“Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta thấy rằng, chủ nghĩa xã hội có thể
thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí trong
một nước tư bản chủ nghĩa, tách riêng ra mà thôi”[6; 447).
Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng:
Lênin đã phân tích tình hình thế giới khi nổ ra cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914-1918) và chỉ rõ đây là cuộc chiến tranh giữa các
nước đế quốc nhằm tranh giành quyền lợi. Từ đó, Lênin phê phán các đảng
của Quốc tế II đã đứng về phía chính phủ của các nước đế quốc hô hào quần
chúng công nông bảo vệ Tổ quốc. Nhưng thực chất các đảng đó đã trở thành
những đảng xã hội Sô vanh bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Lênin chỉ
ra điều ít tai hại nhất đối với nhân dân trong các cuộc chiến tranh đế quốc
lúc đó là sự thất bại của chính phủ Nga hoàng, vì nhờ đó mà nhân dân dễ

dàng đánh đổ chế độ Nga hoàng, giai cấp công nhân và nông dân được giải
phóng, thoát khỏi cuộc chiến tranh đế quốc.
Lênin cũng chỉ ra rằng, không phải chỉ những người cách mạng Nga
mà cả các đảng của giai cấp vô sản ở tất cả các nước tham chiến cũng phải
thực hành chính sách làm cho chính phủ đế quốc ở nước mình thất bại. Ở
đây, Lênin đã thể hiện rất rõ lập trường và thái độ cách mạng của giai cấp
vô sản đối với chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc.
Kết hợp phong trào giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản:
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã nhận ra vai trò cách mạng
của phong trào giải phóng dân tộc. Phong trào này kết hợp với phong trào
cách mạng vô sản, sẽ biến các nước phụ thuộc và các thuộc địa từ chỗ là lực
lượng hậu bị của giai cấp tư sản đế quốc trở thành lực lượng hậu bị và đồng
minh của giai cấp vô sản cách mạng.
Lênin đã chỉ rõ: phong trào giải phóng dân tộc cần kết hợp với phong
trào cách mạng của giai cấp vô sản để lật đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Từ đó, Người nêu lên một cách cụ thể nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân như sau: “Trọng tâm của việc giáo
dục chủ nghĩa quốc tế cho công nhân trong các nước bị áp bức, tất nhiên
phải là ở chỗ họ tuyên truyền và bênh vực quyền tự do phân lập của các
nước bị áp bức. Nếu không thì không có chủ nghĩa quốc tế” và “trái lại,
người dân chủ xã hội thuộc một dân tộc nhỏ phải có bổn phận chuyển trọng
- 11 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
tâm công tác cổ động của mình vào chữ thứ nhất trong công thức chung của
chúng ta là: “liên hợp tự nguyện giữa các dân tộc”. Bổ sung vào khẩu hiệu
“Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” của Mác và Ăng ghen Lênin đã nêu lên
khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”[7;
56-57].
Sau cách mạng tháng Mười Nga, Lênin tiếp tục phát triển và làm
phong phú thêm những quan điểm của chủ nghĩa Mác về quan hệ hợp tác

quốc tế trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của Nhà nước Xô viết. Các quan
điểm đó tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách đối nội và chính sách
đối ngoại. Lênin chỉ ra rằng, nếu đem chính sách đối ngoại tách khỏi chính
sách nói chung, thậm chí đem đối lập chính sách đối ngoại với chính sách
đối nội, thì đó là một sự sai lầm nghiêm trọng, bởi vì không chỉ chính sách
đối nội ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, mà chính sách đối ngoại cũng
có tác động trở lại với chính sách đối nội. “Không có tư tưởng nào sai lầm
hơn và có hại hơn là tư tưởng tách rời chính sách đối ngoại khỏi chính sách
đối nội”[8; 442].
Hai là, phải biết kết hợp tính kiên định, tính nguyên tắc với tính linh
hoạt trong chính sách đối ngoại của nhà nước vô sản. Lênin đã nêu lên quan
điểm phải biết cách thoả hiệp vì lợi ích của Nhà nước Xô Viết và lực lượng
cách mạng trên thế giới. Người cho rằng, “Hoà ước Brétlitốp” là sự thoả
hiệp như vậy. Nhưng trong lĩnh vực tư tưởng thì Lênin lại cho rằng không
thể có sự thoả hiệp nào. Ví dụ như trước ngày Bộ Dân uỷ Ngoại giao tiến
hành đàm phán với Mỹ, phía Mỹ đã nêu ra yêu cầu: nếu nước Nga Xô Viết
thay đổi Hiến pháp, để cho đại biểu của thành phần bóc lột tham gia Xô Viết
thì Mỹ sẽ viện trợ kinh tế cho nước này. Bộ Dân uỷ Ngoại giao tỏ ý tiếp thu
đề nghị đó, nhưng Lênin đã kiên quyết phản đối.
Ba là, chỉ có dựa vào những quy luật khách quan của sự phát triển xã
hội do chủ nghĩa Mác vạch ra mới có thể giải thích về quan hệ hợp tác quốc
tế một cách khoa học, dự báo được những xu thế phát triển của quan hệ
quốc tế. Lênin đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu của chính sách nói chung và
chính sách đối ngoại là phải đặc biệt quan tâm đến những nhiệm vụ chủ yếu
mà lịch sử đặt ra, quan tâm đến tương quan lực lượng giai cấp và nguyện
vọng của dân chúng trong nước cũng như trên phạm vi quốc tế.
- 12 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Bốn là, cần đề ra nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản

trong chính sách đối ngoại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa quốc
tế vô sản đã được Mác và Ăng ghen nêu ra trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản”. Đến Lênin, nó lại được tiếp tục phát triển. Lênin đã phân tích
cho thấy tư bản là một lực lượng quốc tế, để chiến thắng chủ nghĩa tư bản
cần phải có sự liên minh và đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân.
Trước cách mạng tháng Mười, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân thể hiện ở những nguyên tắc quan hệ giữa các đội tiên phong của giai
cấp công nhân. Sau cách mạng tháng Mười thành công thì nguyên tắc đoàn
kết quốc tế của giai cấp công nhân đã trở thành cơ sở cho chính sách đối
ngoại của Nhà nước Xô Viết.
Năm là, đảm bảo nguyên tắc chung sống hoà bình giữa các nước có
chế độ xã hội khác nhau. Vào khoảng năm 1915-1916, Lênin đưa ra kết luận
trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một
nước hay một vài nước, chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản sẽ diễn
ra trong một quá trình lâu dài và đó là cả một thời kỳ lịch sử. Do đó, mà có
vấn đề quan hệ giữa các nước có chế độ khác nhau.
Lênin nhấn mạnh rằng, có một lực lượng to lớn hơn nguyện vọng, ý
chí và nghị quyết của bất cứ chính phủ hay giai cấp nào, đó là sức mạnh của
quan hệ kinh tế chung trên toàn thế giới. Quan hệ đó đã thúc đẩy các chính
phủ đối địch, các giai cấp đối địch đi vào con đường làm ăn với chúng ta.
Tư tưởng này của Lênin được thể hiện trong Hiến pháp đầu tiên của
Nhà nước Xô Viết. Pháp lệnh hoà bình. Tháng 6 năm 1920, Uỷ viên Bộ Dân
uỷ Ngoại giao Xô Viết đã tuyên bố: “Khẩu hiệu của chúng ta: Trước đây và
bây giờ là chung sống hoà bình với các chính phủ khác, phải xây dựng mối
quan hệ lâu dài giữa chính phủ công nông với chính phủ của giai cấp tư
sản”. Đây là văn kiện chính thức đầu tiên của Nhà nước Xô Viết sử dụng
thuật ngữ: “Chung sống hoà bình”.
Lúc đó Nhà nước Xô Viết đang ở trong vòng vây của chủ nghĩa tư
bản, nhưng việc nêu ra nguyên tắc chung sống hoà bình không phải là suy
nghĩ về sự tồn tại của bản thân Nhà nước Xô Viết mà là dựa trên sự nhận

thức quy luật khách quan, quá trình phát triển của xã hội loài người.
Lênin cho rằng, chung sống hoà bình là một hình thức đặc biệt của
đấu tranh giai cấp, là hình thức tất yếu của sự phát triển quan hệ quốc tế, sau
khi xuất hiện hai chính sách căn bản khác nhau.
- 13 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Các nước xã hội chủ nghĩa tiếp thu một cách có phê phán những
nguyên tắc quan hệ quốc tế của giai cấp tư sản đã nêu ra trong quá trình đấu
tranh chống chế độ phong kiến như: bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau Lần đầu tiên
những nguyên tắc đó, trở thành cơ sở thực tế cho mối quan hệ qua lại giữa
các quốc gia có chính sách xã hội khác nhau. Các nước phải thông qua đàm
phán để giải quyết các tranh chấp quốc tế, không sử dụng vũ lực hoặc đe
doạ dùng vũ lực, tôn trọng quyền lựa chọn chế độ chính trị - xã hội của nhân
dân các nước.
Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về một
số vấn đề cơ bản trong quan hệ hợp tác quốc tế, có giá trị to lớn đối với tất
cả các nước trong thời đại ngày nay. Muốn phát triển không thể không hợp
tác, giao lưu. Những quan điểm cơ bản đó, nó có ý nghĩa to lớn đối với công
cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay. Nhận thức đúng vấn đề giúp cho Đảng
và Nhà nước ta đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn theo hướng: “độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại; với tinh
thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, góp phần đảm bảo hoà bình, ổn
định, an ninh trong khu vực cũng như trên thế giới”[20; 5].
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về hợp tác quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quan hệ hợp tác quốc tế, cũng như những đòi hỏi khách quan của công cuộc
đổi mới. Đảng ta đã vận dụng những quan điểm đó một cách linh hoạt và
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ

VI (12 - 1986). Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, trong đó đề
cao vai trò của đường lối đối ngoại. Mở rộng sự hợp tác vì hoà bình và phát
triển theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã từng phát biểu “Chúng ta hãy tự cứu mình
trước khi trời cứu”.
Trước những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế
giới hiện nay, Đảng ta nhận thức rằng (cùng tồn tại hoà bình giữa các nước
có chế độ chính trị - xã hội khác nhau đã được đề cập từ lâu, song được tập
trung đặc biệt rõ nét trong các văn kiện Đại Hội VII - 1991 của đảng): ”Việt
Nam muốn là bạn, muốn sống hoà bình, hữu nghị với tất cả các nước”.
Cùng tồn tại hoà bình là một hiện tượng có tính lịch sử được Lênin
xác định như những nguyên tắc tất yếu bắt nguồn từ sự phát triển không đều
của chủ nghĩa tư bản và trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cùng tồn tại hoà
- 14 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
bình không có gì chung với hoà bình giai cấp, thoả hiệp về tư tưởng, mà là
một trạng thái đặc thù của đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản.
Kế thừa những bài học trong lịch sử dân tộc, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay -
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về hợp tác quốc tê, trên cơ sở đòi hỏi khách quan của thực tiễn phát triển,
Đảng ta đã khẳng định mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế là một tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển của đất nước ta hiện nay.
Đảng ta không bao giờ chủ trương theo đuổi đường lối biệt lập mà
luôn luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại là
một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình. Qua
15 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi
xứng và lãnh đạo, nhân dân Việt Nam vô cùng phấn khởi và tự hào về

những thành tựu to lớn đã đạt được trên mọi lĩnh vực, trong đó có thắng lợi
của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ
động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Quán triệt sâu sắc phương châm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại“ tạo thành sức mạnh tổng hợp để phát triển, chúng ta đã triển
khai đồng bộ trên tất cả mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học
kỹ thuật và công nghệ trong đó, thành tựu nổi bật của ngoại giao Việt
Nam thời kỳ đổi mới là: góp phần tạo dựng và củng cố môi trường hoà bình,
ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mở rộng hợp tác quốc
tế, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần thiết thực vào công
cuộc phát triển đất nước.
Xác định rõ nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đổi mới, hoạt động đối
ngoại những năm qua đã đặt yêu cầu phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội lên hàng đầu. Ngay từ đại hội VI của Đảng họp tháng 12-1986, đã
chính thức khởi xứng công cuộc đổi mới, nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Song việc triển khai nghị quyết của Đại
hội lại diễn ra trong bối cảnh Liên Xô và Đông Âu xấu đi nhanh chóng và từ
đầu những năm 90 của thế kỷ XX thì chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ
tại các nước này.
- 15 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các Hội
nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các nghị quyết 13 tháng 5/1988 của Bộ
chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8A tháng 3/1990, đã phân
tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các giải pháp và chủ trương ứng phó với
những tác động tiêu cực của tình hình, với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính
sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ
quốc tế .
Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua luật đầu tư
với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.

Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ VII họp vào tháng 6/1991, mở ra
bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng, Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra đường lối đối ngoại rộng
mở với khẩu hiệu: “với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố
rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”[13. tr 147].
Cụ thể hoá đường lối nêu ra tại Đại hội VII, Hội nghị Trung ương lần
3 (khoá VII) đã đưa ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại và kinh tế đối
ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chủ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như
diễn biến của tình hình khu vực và thế giới, phù hợp với từng đối tượng
nước ta có quan hệ. Đồng thời Nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm:
Đảm bảo lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ,
tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại;
nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp
tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII, họp tháng 6/1996, đã khẳng định chủ
trương tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế “Xây dựng một nền kinh tế
mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) nêu nhiệm vụ: “Tích cực chủ
động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “Tiến hành khẩn trương,
vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “Gia nhập APEC
và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn
khổ AFTA”.
- 16 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, họp tháng 4/2001, đã kiểm điểm
quá trình thực hiện đường lối đối ngoại do Đại hội VIII đề ra, một lần nữa

khẳng định “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế”. Đồng thời Đại hội đã bổ sung, phát triển về chủ
trương và chính sách, nhiệm vụ cụ thể. Trong đó lưu ý mấy điểm sau đây:
Quan điểm độc lập, tự chủ: Trong bối cảnh toàn cầu hoá là một xu thế
khách quan, nhưng đang bị chi phối bởi các nước tư bản phát triển và các
tập đoàn tư bản xuyên quốc gia; chủ nghĩa thực dân kinh tế, thuyết “can
thiệp nhân đạo”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chính sách “can dự”,
là một nguy cơ đối với các nước đang phát triển; Việc nhấn mạnh quan
điểm độc lập, tự chủ, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa rất
quan trọng, không phải ngẫu nhiên mà nhân dân Mỹ, Canada, Séc, Anh,
Thái Lan lại rầm rộ biểu tình chống toàn cầu hoá khi tại nước họ có Hội
nghị Quốc tế bàn về toàn cầu hoá; Nhiều đại biểu của các Đảng Cộng Sản
và Công Nhân Quốc tế đến dự Đại hội IX của Đảng ta đã phân tích những
mặt tiêu cực của toàn cầu hoá, như là một lời nhắc nhở sự cảnh giác trước
các thủ đoạn lợi dụng toàn cầu hoá để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX đã phân tích các khía cạnh của các quá trình kinh tế và tiếp
tục khẳng định chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội
nhập với khu vực và thế giới “chủ yếu và trước mắt là về kinh tế”. Trong
quá trình đó phải đảm bảo độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về
đường lối, chính sách, bảo vệ lợi ích quốc gia và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm an toàn và an ninh quốc gia. Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế với các nước, nhưng không để cho nền kinh tế Việt Nam bị
lệ thuộc và bị chi phối bởi bên ngoài.
Một trong những điểm mới trong chủ trương đối ngoại được nêu
trong văn kiện Đại hội IX là: thay câu “Việt Nam muốn là bạn với các nước
trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế”[15; 119], phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển.

Vấn đề không phải chỉ là sự thay đổi từ ngữ, mà ở đây thể hiện sự
nhận thức sâu sắc hơn bối cảnh và thực chất trong quan hệ hợp tác Quốc tế.
Điều đó thể hiện ở chỗ: Một mặt, thể hiện chính sách yêu hoà bình, hữu
- 17 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
nghị của Việt Nam, thể hiện đúng đắn mong muốn chân thành của Việt Nam
sẽ là bạn với những ai mong muốn là bạn với Việt Nam; Mặt khác, chúng ta
biểu thị thái độ trách nhiệm cao trong quan hệ với các nước, sẵn sàng là đối
tác tin cậy của các nước, nghiêm chỉnh thực hiện mọi luật lệ và cam kết
chung khi thiết lập quan hệ hợp tác. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta cũng
yêu cầu các đối tác phải nghiêm chỉnh thực hiện các hiệp định, cam kết đã
thoả thuận với chúng ta. Đây là chữ tín, là quan hệ bình đẳng, cùng có lợi.
Có như vậy mới duy trì được mối quan hệ lâu dài. Cơ sở chung để
thiết lập mối quan hệ giữa nước ta với các nước là: “phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”. Đây là điểm chung, dễ được chấp nhận đối với đại đa
số các nước trên thế giới, bất kể chế độ chính trị của các nước đó có khác
nhau.
Như thế, những quan điểm cơ bản của Đảng ta về mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế trong thời kỳ đổi mới, đã được thể hiện rất rõ trong các văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - 1986, lần thứ VII - 1991, lần thứ
VII - 1996, lần thứ IX - 2001, ngày càng được bổ sung hoàn thiện, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cả về trước mắt cũng như lâu
dài, phù hợp với tình hình thực tiễn khách quan và xu thế chung của thế
giới. Trong những năm tới, chúng ta tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế, nhưng phải tập trung quán triệt những quan điểm chủ yếu sau:
Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan, phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thế giới ngày nay là một thực thể thống
nhất, trong đó, mỗi quốc gia là một thực thể độc lập. Tuy nhiên, các quốc
gia lại phải phụ thuộc vào nhau về kinh tế, khoa học - công nghệ, do có sự
khác biệt về điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển. Trong lịch sử kinh tế

thế giới, không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự
cung tự cấp. Ngược lại, những nước giàu đều là những nước dựa vào kinh tế
đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
Việt Nam là một nước nghèo kém phát triển. Để sử dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ thế giới, phục vụ cho việc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, để khai thác những tiềm năng trong nước, chúng ta
phải phát triển kinh tế đối ngoại, hay nói cách khác phải mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, hợp tác bình đẳng, cùng
có lợi. Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, từng bước hội
nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Đa
phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại được hiểu là mở rộng đối
- 18 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
tượng hợp tác kinh tế. Trước đây, nước ta chỉ có mối quan hệ hợp tác kinh
tế với các nước xã hội chủ nghĩa cũ là chủ yếu. Nay, cần phải thiết lập quan
hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển, với các
tổ chức kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các công ty xuyên
quốc gia, trên tinh thần nỗ lực hợp tác để hướng về tương lai, và “Việt Nam
sẵn sàng là bạn với tất cả các nước”. Chúng ta tiếp tục củng cố thị trường
quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị trường và
bạn hàng mới, lâu dài, tích cực hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại được thực hiện
theo hướng chủ yếu sau đây: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, phát triển du
lịch, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài,
tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế.
Phát triển kinh tế đối ngoại phải dựa trên cơ sở ổn định về chính trị.
Trong phát triển kinh tế đối ngoại, hai vấn đề kinh tế và chính trị có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Thông thường mối quan hệ chính trị - ngoại
giao mở đường và thúc đẩy mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển.

Ngược lại, mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển sẽ có tác dụng củng
cố, tăng cường mối quan hệ chính trị. Khác với hoạt động kinh tế trong
nước, hoạt động kinh tế đối ngoại phải phụ thuộc vào những yếu tố chính
trị, vào lợi ích của các nước đối tác. Việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế với
chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định của kinh tế đối ngoại. Trên cơ sở
đó, xác định sự cân bằng lợi ích giữa các bên theo nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi. Sự ổn định về chính trị sẽ tạo điều kiện cho buôn bán quốc tế,
du lịch, đầu tư. Việc thực hiện tốt công tác quốc phòng, an ninh sẽ tạo thuận
lợi cho việc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại.
Phát huy sức mạnh dân tộc để tham gia vào phân công lao động quốc
tế. Tuy nhiên, việc phát huy ý chí “tự lực tự cường” không đồng nghĩa với
việc coi nhẹ sức mạnh của yếu tố bên ngoài. Cần tận dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học và công nghệ thế giới và sự giúp đỡ quốc tế.
Từng bước xây dựng nền kinh tế “mở cửa”. “Mở cửa” nền kinh tế ra
thế giới bên ngoài là một chiến lược hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển
của nền kinh tế thế giới. Nhưng “mở cửa” phải bảo đảm sự ổn định về chính
trị, an ninh quốc gia, phải bảo vệ được tài nguyên và môi trường, phải có
biện pháp hạn chế những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình “mở cửa”.
Nói cách khác, Việt Nam không đóng cửa về kinh tế, nhưng phải xây dựng
- 19 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
một nền kinh tế độc lập, tự chủ, với cơ chế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam có thành phần kinh tế tư nhân, nhưng không tư
nhân hoá nền kinh tế, chúng ta tổ chức lại kinh tế hợp tác xã nhưng không
giải tán hợp tác xã. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể vẫn là thành phần
kinh tế chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam.
Với tinh thần trên, việc mở cửa phải có định hướng, có kế hoạch cụ
thể, bước đi vững chắc và phải được quản lý chặt chẽ. Trên cơ sở nhận thức
đúng đắn quan điểm “mở cửa”, phê phán các quan điểm sai lầm về “mở
cửa” như: chỉ thấy được mặt tích cực của “mở cửa” dẫn đến việc “mở toang

cửa”, “thả cửa”, hoặc chỉ thấy mặt tiêu cực của “mở cửa” dẫn tới sự do dự
trong “mở cửa”, coi việc “mở cửa” là một chính sách nhất thời, một biện
pháp tình huống,
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm
của Đảng ta về quan hệ hợp tác quốc tế cho thấy, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay là cần thiết, là khách
quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2. ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA HỢP TÁC QUỐC TẾ:
1.2.1. Tính tất yếu của sự hợp tác quốc tế:
Bài học lớn của cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu suốt nửa cuối thế kỷ
XX cho thấy, những nước giành được lợi thế nhiều nhất không phải là hai
siêu cường quân sự, mà là Nhật Bản và Cộng hoà Liên Bang Đức, những
nước biết tập trung vào phát triển sản xuất các ngành công nghiệp kỹ thuật
cao. Bên cạnh đó, các nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Malaixia.
Thái Lan nhờ khéo léo lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế, nay đã khẳng
định được vị trí của mình trong nền kinh tế thế giới. Nhân tố kinh tế ngày
càng có vị trí quan trọng, gần như giữ vị trí chủ đạo trong quan hệ quốc tế
hiện nay. Vị trí trên trường quốc tế của mỗi nước ngày càng tuỳ thuộc vào
sức mạnh kinh tế hơn là sức mạnh quân sự.
Ở mỗi giai đoạn giao thời của lịch sử, đều xuất hiện những cơ hội
cũng như thách thức đối với mọi dân tộc. Bước vào những năm cuối thế kỷ
XX đầu thế kỷ XXI, các nước đang chạy đua quyết liệt nhằm tìm ra lợi thế
so sánh tối ưu của mình và chiếm lĩnh các đỉnh cao về kinh tế, khoa học - kỹ
thuật. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử mà nước ta đã bỏ lỡ mất thời cơ
với quãng thời gian 25 năm. Trong khoảng thời gian đó, nhiều nước trong
- 20 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
khu vực, có xuất phát điểm giống nước ta “đã xây dựng xong “đường băng
phát triển” đã hoặc đang chuẩn bị cất cánh!”[19; 25]
Có thể nói, hiện nay nước ta đang đứng trước những thời cơ mới, kèm

theo những thách thức trong một thế giới có những “luật chơi” khác với
quan niệm và kinh nghiệm cũ của ta. Do đó, chúng ta phải chọn đúng hướng
và có quyết tâm cao trong cuộc chạy đua này.
Nhận thức rõ sự yếu kém về kinh tế của Việt Nam, là nguồn gốc có
thể dẫn đến những hậu quả bất lợi về chính trị, quân sự, kinh tế - xã hội và
quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm đưa đất nước sớm thoát
khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế ở vị trí ưu tiên
chiến lược. Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Nhân tố chủ yếu trong việc quyết định chính sách đối ngoại
của Việt Nam trong tương lai phải là nhân tố kinh tế, nhận rõ điều đó, Đảng
và Nhà nước ta phải hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, trước mắt
cũng như lâu dài, có bước đi thận trọng, phù hợp với tình hình thực tiễn của
đất nước, cũng như tình hình hiện nay của thế giới.
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra
ngày càng sâu sắc, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ
kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự
phát triển của các quốc gia. Một trong những đặc điểm nổi bật của kinh tế
thế giới những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, là quá trình toàn cầu
hoá được thúc đẩy mạnh mẽ dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ. Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ thêm do sự mở cửa của
nền kinh tế và thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại của hầu hết các
nước. Tuy vậy, cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá đã
diễn ra song song và được đẩy mạnh chư từng có.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế, một mặt thúc đẩy quá trình
phát triển lực lượng sản xuất, chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu
ngành, lao động. Thúc đẩy quá trình hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia
và khu vực; đồng thời sẽ diễn ra hai quá trình trái ngược nhau trong thương
mại: Đó là tự do hoá và bảo hộ mậu dịch, hình thành thị trường khu vực với
sự ưu đãi ở mức độ khác nhau đối với các bạn hàng liên kết và phân biệt đối
xử với các bạn hàng khác.

Trong thời đại ngày nay, quá trình toàn cầu hoá diễn ra dưới sự chi
phối của các nước tư bản phát triển, do đó có nhiều mặt tiêu cực. Vì vậy,
- 21 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
trước xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra sôi động, mỗi
quốc gia phải tìm kiếm những chiến lược đúng đắn nhằm sử dụng những lợi
thế so sánh để chớp lấy thời cơ thực hiện sự hội nhập quốc tế, đồng thời có
những sách lược mềm dẻo, khôn khéo để vượt qua những tác động tiêu cực
của quá trình.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến
tất cả các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những
thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu
sắc. Toàn cầu hoá kinh tế hiện đại bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất từ nền kinh tế thị trường thế giới. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề
toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không
có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân
số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế, Vì thế,
hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của
các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt đang còn khó khăn, chúng ta mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, khoa học - công nghệ,
kinh nghiệm quản lý hợp tác trên mọi lĩnh vực để phục vụ công cuộc phát
triển kinh tế xã hội, vừa hợp tác vừa đấu tranh, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi
nguy cơ, vượt qua thách thức là tất yếu nhằm đưa nền kinh tế Việt nam trên
đà phát triển và nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong thời kỳ đổi mới phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với
tình hình phát triển trong nước và trên thế giới. Vì nó đã khai thác được
những lợi thế trong nước, tận dụng được nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức

mạnh tổng hợp cho sự phát triển nhanh và bền vững.
1.2.2. Bản chất của sự hợp tác quốc tế.
Nguyên nhân của hợp tác quốc tế bắt nguồn từ sự phát triển cao của
lực lượng sản xuất, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, của
quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới. Muốn phát triển
nhanh và bền vững đòi hỏi phải có sự hợp tác liên kết. Hơn nữa, hợp tác,
hoà bình và phát triển đã trở thành xu thế khách quan của phát triển.
Vậy, bản chất của hợp tác quốc tế hiện nay là gì? Trước kia quan hệ
quốc tế được hiểu là quan hệ bang giao giữa các quốc gia, liên quan đến an
- 22 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
ninh, biên giới lãnh thổ. Nay, quan hệ đó được mở rộng ra mọi lĩnh vực
như: văn hoá, xã hội, chính trị, kinh tế, quân sự, môi trường và liên quan
đến nhiều loại chủ thể. Loại quan hệ quốc tế mang tính chất kinh tế được thể
hiện rất phong phú trong đời sống quốc tế và thường được điều chỉnh bằng
công pháp quốc tế. Ví dụ như: Các nước đang phát triển yêu sách về một
trật tự kinh tế thế giới mới vào những năm 70 của thế kỷ XX, sự hợp tác
giữa các quốc gia trong việc thành lập các tổ chức kinh tế quốc tế, quan hệ
giữa các quốc gia liên quan đến viện trợ và nợ nước ngoài, việc ký kết các
hiệp định thương mại và bảo hộ đầu tư, việc giải quyết tranh chấp kinh tế
giữa các quốc gia, Như vậy, quan hệ hợp tác quốc tế xét về bản chất là
những quan hệ nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội của
đất nước, quan hệ kinh tế quốc tế là cơ bản, nhưng không phải là toàn bộ
quan hệ quốc tế, mà chỉ bao gồm các quan hệ có liên quan đến yếu tố kinh
tế.
Quan hệ kinh tế được hiểu là mối quan hệ giữa các chủ thể thực hiện
các hoạt động liên quan đến quá trình sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng
hoá. Các hoạt động và quan hệ kinh tế chịu sự tác động của các quy luật
kinh tế khách quan như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, Trong thực tiễn hoạt động kinh tế có các

quan hệ kinh tế mang tính chất quốc tế, tức là chúng vượt quá phạm vi biên
giới một quốc gia Ví dụ như: quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá, đầu tư
nước ngoài, chuyển giao công nghệ, xuất nhập khẩu sức lao động, thanh
toán quốc tế, loại quan hệ này thường được điều chỉnh chủ yếu bằng luật
quốc gia, mà cụ thể là tư pháp quốc tế.
Trong tình hình mới, đặc biệt là thời kỳ mở cửa, hợp tác, quan hệ đa
phương hoá, đa dạng hoá, sự sôi động của nền kinh tế thị trường, sự phát
triển mạnh mẽ như vũ bảo của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công
nghệ, thì hợp tác quốc tế lại càng gay gắt, quyết liệt hơn bao giờ hết, vừa có
thời cơ vừa có khó khăn thách thức. Thực hiện sự hợp tác quốc tế phải tận
dụng mọi thời cơ để phát triển kinh tế, phải có kế hoạch, chiến lược trước
mắt cũng như về lâu dài, có biện pháp đồng bộ linh hoạt trong việc tổ chức
thực hiện, để đạt mục đích cuối cùng đưa nước ta đến con đường phát triển
thịnh vượng và vững chắc.
- 23 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
1.2.3. Vai trò và động lực của hợp tác quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra
ngày càng sâu sắc, các quan hệ hợp tác quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ
hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia. Hợp tác quốc tế
có vai trò to lớn, tác động mạnh đến sự phát triển của mọi quốc gia trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học
kỹ thuật và công nghệ Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam trên đà
phát triển và đang nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực và tiến
tới hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Mở rộng hợp tác quốc tế đưa
lại cho chúng ta những thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng bên cạnh đó nó cũng
đưa lại không ít khó khăn, thách thức trong sự phát triển kinh tế -xã hội.
Hiện nay, xu thế ‘’hoà bình, hợp tác là đòi hỏi bức xúc của các quốc
gia, dân tộc để ưu tiên phát triển kinh tế, bởi phát triển kinh tế có ý nghĩa
quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Các

quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết
quốc tế về kinh tế và thương mại, song tính cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc, chống can
thiệp của nước ngoài’[21; 26-27]. Xu thế trên là xu thế khách quan, xu thế
‘’hội nhập’’, từ đó làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ hợp
tác quốc tế.
Mở rộng sự hợp tác quốc tế đã góp phần củng cố và nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút vốn đầu tư, mở rộng thị trường,
tiếp thu kinh nghiệm quản lý, Chúng ta đã giữ vững được ổn định chính
trị, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, mà trọng tâm là phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống nhân dân; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại, củng cố quốc phòng, an ninh, đã góp phần bảo đảm cho đất nước
đứng vững và tiếp tục phát triển. Sự hợp tác quốc tế còn góp phần to lớn
trong việc thực hiện nhiệm vụ ‘’giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội’[12; 24].
Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, điều quyết định thành công của
công cuộc đổi mới là do sức mạnh của toàn dân ta, của con người, ý chí, trí
tuệ và tiềm lực của đất nước. Đồng thời chúng ta cũng hiểu rằng, trong thời
- 24 -
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Triết học - Nguyễn Văn Phong - Triết K24
đại ngày nay, bất cứ nước vào, dù phát triển đến đâu, cũng không thể tự
khép kín được. Với điểm xuất phát rất thấp như nước ta, tranh thủ nguồn lực
bên ngoài là rất quan trọng. Phải có chính sách khôn khéo, cách làm có hiệu
quả để mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài nhằm khai thác tốt nhất tiềm
lực và lợi thế bên trong.
Vì vậy, chúng ta chủ trương mở rộng đa dạng hoá và đa phương hoá
quan hệ hợp tác cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật, cả về

Đảng Nhà nước và đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ. Sự hợp tác
đó phải phục vụ chiến lược phát triển kinh tế, từng bước đổi mới cơ cấu sản
xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, tạo điều kiện cho kinh tế nước ta phát triển
mạnh. Hơn nữa, nó còn nhằm phát huy lợi thế của từng vùng, của các địa
bàn trọng điểm, đồng thời bảo đảm sự thống nhất về kinh tế và chính trị của
cả nước.
Thực hiện sự hợp tác quốc tế, chúng ta phải bảo đảm lợi ích cao nhất
của dân tộc ta mà cũng là của giai cấp công nhân hiện nay, là nhanh chóng
ra khỏi khủng hoảng, giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, phát triển
kinh tế -xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập và
tự do của Tổ quốc lợi ích đó phù hợp với lợi ích độc lập dân tộc và tiến bộ
xã hội của nhân dân các nước trên thế giới.
Sự hợp tác quốc tế, vừa đòi hỏi chúng ta phải nắm vững và vận dụng
sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin, phép biện chứng duy vật
vào Việt nam, trung thành với lợi ích dân tộc là độc lập dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. ‘’Đó là căn cứ và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta’’[9; 12]. Lợi ích dân tộc là thiêng liêng
và phải được thực hiện trọn vẹn và tuyệt đối. Tất nhiên cần có cách xử lý
đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, cơ bản và không cơ bản, lợi ích
bộ phận và lợi ích toàn cục.
Muốn giữ vững lợi ích dân tộc, đối ngoại nói chung và ngoại giao nói
riêng phải đề cao chính nghĩa dân tộc. Chỉ có trên cơ sở chính nghĩa dân tộc,
chúng ta có cơ sở đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền độc lập quốc
gia, chúng ta phải dựa vào pháp lý và thông lệ quốc tế để đấu tranh cho kỳ
được những lợi ích chân chính của dân tộc mình.
Như vậy, sự hợp tác quốc tế phải luôn ‘’trung thành và luôn luôn
xuất phát từ lợi ích dân tộc và gắn lợi ích dân tộc với lợi ích cách mạng thế
giới, đó là những điều kiện kiên quyết để có đường lối đối ngoại độc lập tự
- 25 -

×