Tải bản đầy đủ (.pptx) (14 trang)

BỆNH lý DƯƠNG vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.7 KB, 14 trang )

BỆNH LÝ DƯƠNG VẬT


Dương vật có thể bị các dị tật bẩm sinh, viêm và u, trong đó 2 loại sau là quan trọng nhất.


1. DỊ TẬT BẨM SINH
1.1. Hẹp thắt da qui đầu
Là tình trạng lỗ da qui đầu quá nhỏ làm da qui đầu không thể tuột ra khỏi đầu dương vật được. Tình
trạng này cản trở việc làm vệ sinh cá nhân, các dịch tiết và cặn nước tiểu dễ bị tích tụ, tạo thuận lợi
cho nhiễm trùng và ung thư dương vật.
Tật lỗ tiểu trên và dưới
Do dị dạng rãnh niệu đạo nguyên thủy, đưa đến tình trạng lỗ tiểu mở ra ở mặt trên hoặc mặt dưới
dương vật. Dị tật này thường thấy phối hợp với chứng tinh hoàn ẩn và các dị tật khác của đường tiểu,
có thể gây tắc nghẽn và nhiễm trùng đường tiểu hoặc chứng vô sinh.


2. VIÊM
Dương vật có thể bị viêm do nhiều tác nhân khác nhau, chủ yếu trong các bệnh hoa liễu như giang
mai, lậu, hạ cam mềm, herpes sinh dục. Ngoài ra, chứng hẹp thắt da qui đầu có thể tạo thuận lợi cho
tình trạng viêm dương vật do các vi khuẩn sinh mủ hoặc nấm.


3. U
U dương vật nói chung ít gặp, thường gặp nhất là condylôm và carcinôm tế bào gai.
3.1. Condylôm sùi: là 1 u lành do HPV gây ra, thường là HPV týp 6 và 11.
Đại thể: u có dạng sùi như bơng cải, đường kính vài milimét; thường thấy ở rãnh vòng đầu dương vật
và mặt trong da qui đầu.
Vi thể: gồm các nhú biểu bì tăng sản tương tự u nhú da, chỉ khác biệt ở chỗ có thêm sự hiện diện của
các tế bào rỗng (Koilocyte) trong các lớp phía trên của biểu bì. (Hình 13)



Hình 13 : Đại thể condylơm sùi (A) ; vi thể tương tự u nhú da (B)
nhưng có thêm tế bào rỗng (mũi tên, C)


3.2. Condylơm khổng lồ: cịn gọi là u Buschké - Lowenstein, cũng do HPV týp 6 và 11 gây ra.
Đại thể: u cũng có dạng sùi như bơng cải nhưng kích thước lớn vài cm.
Vi thể: tương tự condylơm sùi nhưng khác ở chỗ biểu mơ tăng sản có thể xâm nhập sâu xuống mô
đệm.
Condylôm khổng lồ dễ tái phát sau cắt bỏ nhưng không bao giờ cho di căn. Như vậy, condylơm khổng
lồ có vị trí trung gian giữa condylơm sùi hồn tồn lành tính và carcinơm tế bào gai dương vật hồn
tồn ác tính.


3.3. Carcinôm tế bào gai tại chỗ (squamous cell carcinoma in situ)
Carcinơm tại chổ của dương vật gồm có 2 loại:
3.3.1. Bệnh Bowen (Bowen’s disease):
Đại thể: tổn thương có dạng 1 mảng dày màu đỏ, đóng vảy nhẹ, giới hạn rõ, thường thấy ở qui đầu
dương vật hoặc da qui đầu.
Vi thể: biểu bì gồm các tế bào dị dạng, nhân đậm màu, có hiện tượng mất phân cực và tăng tỉ lệ phân
bào; tuy nhiên màng đáy vẫn còn nguyên vẹn.


3.3.2. Bệnh Hồng sản Quyerat (erythroplasia of Queyrat):
Đại thể: tổn thương là các mảng màu đỏ bóng, giới hạn khơng rõ, thường gặp ở đầu dương vật hoặc
da qui đầu.
Vi thể: cũng có dị dạng tế bào và mất phân cực, tương tự như bệnh Bowen. (Hình 14)

Hình 14 : Hồng sản Queyrat (A), Bệnh Bowen (B), trên vi thể là carcinôm tế bào gai tại chỗ (C)



Bệnh Bowen và bệnh hồng sản Queyrat thường xảy ra ở người lớn tuổi, trên vi thể đều là carcinôm
tại chỗ, chỉ khác nhau chút ít về đại thể. Vì vậy hiện nay, 2 bệnh được xem là một với tiên lượng và
cách điều trị giống nhau. Tùy mức độ bệnh, có thể điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau như
bôi fluorouracil tại chỗ, đốt điện hoặc phẫu thuật.


5.4. Carcinôm tế bào gai dương vật
Chiếm 3,4 % ung thư của giới nam theo ghi nhận của Bệnh viện Ung bướu Tp.HCM (2008), trong đó
hơn 90 % số bệnh nhân có tiền căn hẹp thắt da qui đầu hoặc có da qui đầu quá dài. Tuổi thường gặp
là 40-70 tuổi.
Hiện nay, mối liên quan giữa carcinôm tế bào gai dương vật với tình trạng hẹp thắt da qui đầu và
nhiễm HPV đã được chứng minh :
Ung thư dương vật hiếm gặp ở dân tộc Do Thái, vốn có phong tục cắt da qui đầu cho trẻ trai ngay từ
khi mới sinh. Tình trạng hẹp da qui đầu làm tăng nguy cơ ung thư dương vật trước đây được cho là
do vệ sinh kém và do các tác nhân sinh ung chứa trong chất cặn của bao qui đầu (chất smegma); tuy
nhiên hiện nay người ta cho rằng tác động bảo vệ của việc cắt da qui đầu là do giúp tránh nhiễm
HPV.
HPV týp 16 và 18 có thể có liên quan đến quá trình sinh ung; bởi vì các nghiên cứu cho thấy từ 2060% các trường hợp ung thư dương vật bị nhiễm 2 týp virus này.


Hình thái tổn thương:
Đại thể: tổn thương có dạng sùi hoặc loét, thường gặp ở đầu dương vật hoặc rãnh qui đầu dương
vật. Vùng sùi loét lan rộng dần, có thể phá hủy toàn bộ đầu dương vật hoặc một phần thân dương
vật.
Vi thể: tương tự carcinôm tế bào gai của da, thường có độ biệt hố tốt với sự thành lập các cầu sừng
nằm giữa các đám tế bào gai ung thư. (Hình 15)


Hình 15 : Carcinơm tế bào gai ở rãnh qui đầu (A) ; trên vi thể là carcinôm tế bào gai biệt hóa tốt.



Liên hệ lâm sàng: carcinôm tế bào gai dương vật có diễn tiến chậm tại chỗ trong nhiều năm, sau đó
mới cho di căn vào hạch bẹn và hạch chậu 2 bên. Di căn xa chỉ xảy ra trong giai đoạn muộn. Tiên
lượng tốt nếu bệnh nhân được điều trị ở giai đoạn chưa có di căn hạch bẹn với tỉ lệ sống thêm 5 năm
là 66%.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×