TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA ………………………
TÊN ĐỀ TÀI
Phân tích lý luận của C.Mác về hàng hóa sức lao động. Vận dụng lý luận hàng
hóa sức lao động trong xây dựng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay
Học phần: Những nguyễn lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin 2
Mã phách:………………………………….
Hà Nội – 2021
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3
1.
Lý do chọn đề tài ............................................................................ 3
2.
Kết cấu bài tập lớn .......................................................................... 4
NỘI DUNG ................................................................................................ 5
I. Lý Luận của C.Mác về hang hóa sức lao động ..................................... 5
1.1 Điều kiện xuất hiện hang hóa sức lao động..................................... 5
1.2 Hai đặc tính của hang hóa sức lao động .......................................... 8
II. Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động trong xây dựng thị trường lao
động ở Việt Nam hiện nay......................................................................... 13
2.1 Thực trạng thị trường lao động Việt Nam năm 2020-2021 ........... 13
2.2 Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến thị trường lao động Việt
Nam hiện nay ......................................................................................... 15
2.3 Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của c.mác vào phát triển
thị trường lao động Việt Nam................................................................. 17
KẾT LUẬN ........................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 23
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác là một cống hiến vĩ đại trong lịch sử
khoa kinh tế chính trị. Đó là ánh sáng soi đường giúp chúng ta nhận thức về nguồn
nhân lực. Đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì nguồn lực
con người càng có ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc
nghiên cứu nguồn lực con người ln là một vấn đề có tính thời sự . Con người vừa
là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa
đến sự phát triển xã hội, sự phát triển đất nước, bên cạnh đó con người đó như thế
nào lại bị chi phối bởi chính hồn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX , nảy sinh hiện tượng là một số nước Châu Á
có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu và
họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như Nhật Bản,
Singgapo , Đài Loan, Trung Quốc bc … lại có sự phát triển đó. Kết quả của những
nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hố truyền thống, trình độ
dân số, kỹ thuật công nghệ …Song câu trả lời làm ngạc nhiên giới nghiên cứu là sự
nhảy vọt về kinh tế ở các nước đó sự liên hệ với yếu tố truyền thống, con người
truyền thống, gắn với điều kiện hồn cảnh cụ thể.
Hiện nay Việt Nam đang có những lợi thế lớn trong nước và trên trường quốc tế,
là cơ hội vàng trong việc đưa Việt Nam đến năm 2045 trở thành một nước phát triển
theo định hướng của Đảng và Nhà nước đã đặt ra, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
đã nói tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng sáng 26/1 rằng: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trong đó nguồn
nhân lực là một trong những điểm mạnh của chúng ta hiện nay, cụ thể hơn đó là
“hang hóa sức lao động” với nguồn nhân lực trẻ ngày càng được cải thiện về chất
lượng thì việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực quan trọng này trong công cuộc xây
dựng kinh tế đất nước là một việc vô cùng quan trọng.
3
Trước tình hình trên, việc đi sâu nghiên cứu phân tích những lý luận về hang hóa
sức lao động của C.Mác hiện nay để áp dụng vào con đường xây dựng thị trường
lao động cũng như xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao để gây dựng đất
nước phồn vinh là vơ cùng hợp lý. Vì lý do trên em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích
lý luận của C.Mác về hàng hóa sức lao động. Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao
động trong xây dựng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài kết
thúc học phần của mình.
2. Kết cấu bài tập lớn
Ngồi phần Mở Đầu, Tài liệu tham khảo, Danh mục chữ viết tắt, bài tập lớn có 2
phần chính như sau:
I.Lý Luận của C.Mác về hang hóa sức lao động
II. Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động trong xây dựng thị trường lao động ở
Việt Nam hiện nay
4
NỘI DUNG
I. Lý Luận của C.Mác về hang hóa sức lao động
1.1 Điều kiện xuất hiện hang hóa sức lao động
Trong lịch sử kinh tế đã có rất nhiều nhà tư tưởng nghiên cứu về vấn đề hàng hoá
sức lao động và có những cống hiến quan trọng: A.Smit, David Ricardo… Nhưng
có thể nói, trước Mác chưa có một nhà kinh tế học nào nhìn nhận rõ ranh giới giữa
hai phạm trù “ lao động và sức lao động”. Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao động
và sức lao động, C.Mác đã trở thành người đầu tiên trình bày một cách khoa học lý
luận về hàng hoá sức lao động. Lý luận này đã từng bước hoàn thiện qua nhiều tác
phẩm khác nhau và đạt đến đỉnh cao trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C.Mác viết:
“ Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao động
của mình ở trên thị trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường tận
hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là sức lao động” [2, 255].
Theo C.Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong mọi cơ thể, trong mọi con người đang sống và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [3, 251].
Thứ nhất, hàng hố sức lao động đã thể hiện tính đặc biệt ở chỗ nó được gắn liền
với chủ thể của nó. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì: “ Tiền đề đầu tiên của tồn bộ
lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống…và có
thể phân biệt con người với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư
liệu sản xuất của mình…như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời
sống vật chất của mình ” [4, 29]. Sức lao động tồn tại trong cơ thể sống của người
lao động, là nhân tố cơ bản và đầu tiên trong mọi hoạt động xã hội.
5
Về mặt số lượng, sức lao động phụ thuộc chủ yếu vào số lượng người lao động và
thời gian lao động của mỗi người. Chất lượng sức lao động không chỉ đơn thuần là
trình độ tay nghề, kỹ năng làm việc của người lao động mà còn bao gồm cả ý thức
trách nhiệm, ý thức chấp hành kỷ luật, thái độ đối với công việc, đối với người sử
dụng lao động, sức khoẻ của người lao động… Như vậy, cả về mặt sồ lượng và chất
lượng, hàng hoá sức lao động hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân người sở hữu loại
hàng hoá này.
Thứ hai, hàng hoá sức lao động là loại hàng hố khi bán khơng mất quyền sở hữu.
C.Mác cho rằng: “muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức lao
động với tư cách là hàng hố thì một số những điều kiện khác nhau phải được thực
hiện” [2, 251].
Điều kiện thứ nhất: Người chủ sức lao động “phải có khả năng chi phối được sức
lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của chính
mình, thân thể của mình. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan
hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hố bình đẳng với nhau…”;
“Muốn duy trì quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao
động đó trong một thời gian nhất định thơi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức
lao động ấy một lần thì…anh ta trở thành người nơ lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá
anh ta sẽ trở thành một hàng hoá” [5, 252]
Ở đây chúng ta thấy được sự khác biệt giữa khái niệm “hàng hoá người lao động”
và “hàng hoá sức lao động”. Khi người lao động là hàng hoá, bị đem ra mua bán
như bất kỳ một loại hàng hố nào khác thì người mua loại hàng hoá này được quyền
chiếm hữu thể xác và sức lao động của người lao động đó. Người lao động khơng
có quyền sở hữu đối với bản thân và sức lao động của mình, khơng có quyền tự do
thân thể, khơng có quyền tự do sử dụng thành quả lao động của mình làm ra…Cịn
người cơng nhân làm th chỉ bán quyền sử dụng sức lao động trong một thời hạn
nhất định, chứ không bán quyền sở hữu sức lao động của mình, sức lao động của
6
người cơng nhân là hàng hố chứ khơng phải bản thân người cơng nhân là hàng
hố. Trước sau người cơng nhân vẫn là chủ sở hữu hàng hoá sức lao động của mình.
Do đó, “khi bán sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động
ấy” [5, 254]
Điều kiện thứ hai: “Người chủ sức lao động phải khơng cịn có khả năng bán
những hàng hố trong đó lao động của anh ta được vật hoá mà trái lại, anh ta buộc
phải đem bán với tư cách là hàng hố chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong
cơ thể sống của anh thơi” [5, 252]
Người cơng nhân muốn bán những hàng hố khác với sức lao động của mình thì
người cơng nhân phải có tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt để tự kết hợp với sức lao
động của mình nhằm sản xuất ra những loại hàng hoá khác ấy. Khi họ hồn tồn
khơng có những vật cần thiết ấy để thực hiện sức lao động của mình, thì phải bán
chính lao động ấy.
Ngày nay, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, hai điều kiện cho sự
ra đời của hàng hố sức lao động vẫn cịn nguyên giá trị của nó. Tuy nhiên, ở điều
kiện thứ hai đã có những biểu hiện mới. Người cơng nhân có thể trở thành người
chủ một phần vốn của cơng ty, chủ một phần tư liệu sản xuất và lao động thặng dư
của họ được bồi hoàn lại. Những người lao động này khơng phải khơng có tư liệu
sản xuất. Vì vậy, sức lao động của họ có tính chất hàng hố, chứ khơng phải hàng
hố sức lao động theo đúng nguyên nghĩa như định nghĩa của C.Mác. Trong thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, người lao động đều là người làm chủ tập
thể tư liệu sản xuất,vì vậy sức lao động của họ khơng phải là hàng hoá sức lao động.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao
động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương mà tiền lương lại là biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hoá sức lao động. Do vậy, sức lao động của người lao động trong
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải được coi là hàng hoá sức lao động để tính
tốn tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của tồn xã hội. Bởi vì, đã là tiền
7
lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị hàng hố sức lao động.
Nhưng có điểm khác đó là trong khu vực kinh tế nhà nước phần bồi hoàn cho lao
động thặng dư được coi trọng và có xu hướng tăng lên, cịn trong khu vực kinh tế tư
nhân, do quan hệ người bóc lột người lao động vẫn còn tồn tại nên phần lao động
thặng dư của người lao động vẫn bị người sử dụng lao động chiếm dụng trong
khuôn khổ pháp luật
Điều kiện thứ ba: Để đảm bảo sức lao động là hàng hoá, đó là người lao động chỉ
bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định. Thời gian đó được người
mua và người bán hàng hoá sức lao động thoả thuận trên thị trường và được thể
hiện trên hợp đồng để nhằm đảm bảo tính pháp lý của nó. Như C.Mác đã nói:
“Người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời
gian nhất định thơi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn tồn bộ sức lao động ấy trong một
lần thì anh ta bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là một người tự do, anh ta sẽ trở
thành một người nô lệ, từ chỗ là một người chủ hàng hoá, anh ta sẽ trở thành một
hàng hoá. Với tư cách là một con người, anh ta phải thường xuyên duy trì mối quan
hệ đối với sức lao động của mình như là đối với vật sở hữu của mình và vì vậy như
là đối với một hàng hố của bản thân mình. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong
chừng mực anh ta bao giờ cũng chỉ để cho người mua sử dụng hoặc tiêu dùng sức
lao động của mình một cách nhất thời, trong một thời hạn nhất định thơi, do đó chỉ
trong chừng mực là khi bán sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về
sức lao động ấy” [5 tr.251].
1.2 Hai đặc tính của hang hóa sức lao động
Là một hàng hoá được mua bán trên thị trường, cho nên hàng hố sức lao động
cũng có giá trị và giá trị sử dụng như những hàng hố thơng thường khác. Tuy
nhiên, là một hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động có tính chất khác xa so với
những hàng hố thơng thường khác.
8
* Về giá trị sức lao động:
Giá trị sức lao động được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động là khả năng lao động, nên số thời
gian lao động cần thiết kết tinh trong nó chính là do giá trị của những tư liệu sinh
hoạt mà người có sức lao động ấy đã tiêu dùng tạo thành. Để duy trì, tái tạo sức lao
động của mình, con người đã sử dụng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định nên "giá
trị của sức lao động là do giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết của một người
lao động trung bình quyết định" [9, tr.732].
C.Mác cho rằng, sức lao động chỉ được sản xuất ra trong một con người đang
sống. Vì vậy, việc sản xuất ra sức lao động chỉ có thể xảy ra khi có sự tồn tại của
con người đó, hay chính là việc duy trì cuộc sống của con người đó. Những tư liệu
sinh hoạt mà người có sức lao động sử dụng hàng ngày cũng có một lượng giá trị
nhất định và lượng giá trị đó trở thành đại lượng quyết định giá trị của sức lao động.
"Giá trị của sức lao động được quy thành giá trị của một tổng số những tư liệu sinh
hoạt nhất định. Vì vậy, giá trị ấy thay đổi cùng với sự thay đổi của giá trị các tư liệu
sinh hoạt đó, nghĩa là cùng với sự thay đổi đại lượng thời gian lao động cần thiết để
sản xuất ra chúng" [9, tr.258]. Điều này phụ thuộc vào trình độ văn minh của mỗi
nước trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngồi ra, quy mơ của tư liệu sinh
hoạt cần thiết và phương thức thoả mãn những nhu cầu về tư liệu sinh hoạt cần thiết
đó lại phụ thuộc vào điều kiện sống và thói quen sinh hoạt của người lao động đó;
do đó, "việc quy định giá trị sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và tinh thần.
Nhưng, đối với một nước nhất định và đối với một thời kỳ nhất định, thì tính trung
bình, quy mơ của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại
lượng nhất định" [9, tr.256-257]. Người sở hữu sức lao động có thể chết đi và cần
có người thay thế, nối dõi nên sức lao động phải thường xuyên được thay thế bằng
những sức lao động mới; điều này khẳng định rằng trong tổng tư liệu sinh hoạt cần
9
thiết cho việc tái sản xuất sức lao động phải bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho con cái của người lao động tồn tại và phát triển.
Giá trị của mọi hàng hố khác có xu hướng càng giảm càng tốt; nhưng giá trị của
hàng hoá sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó; đó chính là "giá trị của cái
khối lượng hàng hố mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, tức con
người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là tạo thành giá trị
của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý" [9, tr.259]. Vượt
mức giới hạn này, người lao động sẽ có cuộc sống thấp và việc sử dụng sức lao
động của người này sẽ bị ảnh hưởng và giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
khó phát huy tốt được. Cũng như các hàng hố khác, người mua hàng hoá tuy phải
thực hiện giá trị, nhưng mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hố đó. Nhà tư
bản cũng vậy, họ bỏ tiền ra mua sức lao động chỉ vì hàng hố này có giá trị sử dụng
rất đặc biệt, thoả mãn sự thèm khát của nhà tư bản và duy trì quan hệ sản xuất
TBCN.
* Về giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động:
Trên thị trường, người cơng nhân và nhà tư bản thoả thuận với nhau về giá cả sức
lao động cũng như những điều kiện của lao động. Bước ra ngoài thị trường sức lao
động, hay khỏi q trình lưu thơng thì sức lao động đã hồn tồn là của nhà tư bản.
Lúc này mới chính là lúc giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện. C.Mác đã viết:
"Giá trị của nó cũng như giá trị của bất cứ hàng hoá nào khác, đã được quyết định
trước khi nó đi vào lưu thơng..., nhưng giá trị sử dụng của sức lao động thì chỉ bao
hàm ở những biểu hiện sau này của sức đó mà thôi" [9, tr.260].
Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động thoả mãn nhu cầu
sản xuất của nhà tư bản. Nhà tư bản cần có sức lao động của người cơng nhân kết
hợp với tư liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra các hàng hố.
Chính vì vậy, mà tính có ích của sức lao động chỉ được thể hiện ra trong quá trình
sản xuất. Người lao động bán sức lao động bằng cách lao động sản xuất theo yêu
10
cầu của người mua. Người mua tiêu dùng sức lao động là nhằm sử dụng tính có ích
của sức lao động. Đặc tính có ích của sức lao động khơng chỉ là năng lực tạo ra các
giá trị sử dụng mà "cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ
hàng hố đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra
một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đó là sự phục vụ đặc biệt mà nhà
tư bản mong chờ ở nó" [9, tr.289-290].
Người mua bán sức lao động thực hiện giá trị trao đổi của sức lao động và nhượng
lại giá trị sử dụng của sức lao động đó. Anh ta không thể nhận được giá trị trao đổi
mà lại không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã phải trả giá trị hàng
ngày của sức lao động, vì vậy, việc tiêu dùng sức lao động ấy trong một ngày là
thuộc quyền của anh ta; và nhà tư bản biết được rằng "chi phí hằng ngày để duy trì
sức lao động và sự tiêu phí sức lao động ấy trong một ngày - đó là hai đại lượng
hồn tồn khác nhau. Đại lượng thứ nhất quyết định giá trị trao đổi của nó, đại
lượng thứ hai tạo thành giá trị sử dụng của nó" [9, tr.289]. Điều này cũng có nghĩa
là giá trị của sức lao động và giá trị được tạo ra trong quá trình sử dụng sức lao
động là hai đại lượng khác nhau. Chính nhà tư bản đã nhằm vào sự chênh lệch và
giá trị đó khi mua sức lao động; và do đó mới chính là tính có ích thật sự của sức
lao động đối với nhà tư bản. Tính có ích của sức lao động "chỉ thật sự được thực
hiện, tức chỉ thật sự tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động
phải hoạt động trong những điều kiện bình thường"[9, tr.292], đó là các điều kiện:
Một là, bảo đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao động: tư
liệu lao động, nguyên nhiên vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường.
Hai là, bản thân sức lao động cũng phải là một sức lao động bình thường, nghĩa là
trong ngành chun mơn mà sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ
trung bình về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và về tốc độ. Điều này có nghĩa là
muốn nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động thì phải cho người cơng nhân trải
qua một thời gian được đào tạo và huấn luyện chuyên môn nhất định.
11
Ba là, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý, nếu
bị tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ khơng được tính đến và khơng tham gia
vào việc hình thành giá trị sản phẩm. Trong nền kinh tế hàng hoá, sức lao động
được vận dụng chủ yếu để sản xuất ra hàng hố cho xã hội. Sức lao động chính là
lao động sống sẽ làm hồi sinh lao động quá khứ - lao động chết, để tạo ra một giá trị
sử dụng mới, một hàng hoá mới.
Việc kết hợp lao động sống với lao động quá khứ sẽ tạo ra một giá trị mới cao hơn
tổng giá trị của sức lao động và tư liệu sản xuất đã kết hợp, mà nguồn gốc phần tăng
thêm đó là từ lao động sống, hay do giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động được
bảo tồn và chuyển vào giá trị hàng hoá mới. Giá trị của hàng hoá sức lao động đó
được C.Mác gọi là phần tư bản khả biến (V). Nhà tư bản dùng phần tư bản khả biến
này để trả công cho người bán sức lao động. Do vậy, q trình giá trị hàng hố sức
lao động chuyển hố thành tiền cơng ln ẩn dấu sau q trình lao động, nên dễ tạo
ra sự hiểu lầm tiền công là giá cả của lao động, nhưng thật sự tiền công là giá cả của
sức lao động.
12
II. Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động trong xây dựng thị trường
lao động ở Việt Nam hiện nay
Thị trường lao động là thị trường của sức lao động, của các chủ thể tìm việc làm
và các chủ thể tạo ra việc làm trong một địa phương hoặc một quốc gia cụ thể. Thị
trường lao động bao gồm các hoạt động thuê mướn lao động và cung ứng lao động
để thực hiện những công việc nhất định, xác định các điều kiện lao động, tiền công
và các phúc lợi phải trả cho người lao động. Trong nền KTTT hiện đại, đầy đủ, thị
trường lao động cũng sẽ là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường lao động
cạnh tranh hồn hảo sẽ có các đặc điểm cơ bản của yếu tố thị trường.
2.1 Thực trạng thị trường lao động Việt Nam năm 2020-2021
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục thống kê Việt Nam về Thông báo cáo chí
tình hinh lao động việc làm q I 2021 thì Trong quý I năm 2021, thị trường lao
động Việt Nam đã hứng chịu những tác động xấu do sự bùng phát lần thứ 3 của Đại
dịch Covid 19.
Kết quả điều tra lao động việc làm quý I năm 2021 ghi nhận số người tham gia
thị trường lao động giảm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Trong quý
đầu năm 2021, cả nước có 9,1 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên chịu ảnh hưởng của
dịch Covid 19. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức và lao động thiếu việc làm
đều tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Điểm sáng đáng lưu ý nhất trong
quý I của thị trường lao động là sự gia tăng mức thu nhập từ công việc của người
lao động so với quý trước và cùng kỳ năm trước [7].
Lực lượng lao động giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước, tỷ lệ lao động
qua đào tạo tăng, đạt 26,0% Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý I năm
2021 là 51,0 triệu người, giảm 1,1 triệu người so với quý trước và giảm 180,9 nghìn
người so với cùng kỳ năm trước.
13
Thông thường, theo đà tăng dân số, lực lượng lao động năm sau luôn tăng so với
cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, lực lượng lao động quý I năm 2021 xuống thấp hơn
cùng kỳ năm trước gần 200 nghìn người và thấp hơn cùng kỳ khi chưa có dịch (năm
2019) khoảng 600 nghìn người. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2021
ước tính là 68,7%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,1 điểm
phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là
62,6%, thấp hơn 12,7 điểm phần trăm so với nam (75,3%). Tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động của khu vực thành thị là 66,7%, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là
69,9%.
Sự bùng phát lần thứ 3 của đại dịch Covid-19 đã làm suy giảm đà phục hồi của
thị trường lao động đã đạt được trong 2 quý cuối năm 2020. Trong quý I năm 2021,
số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 49,9 triệu người, giảm 959,6 nghìn người
so với quý trước và giảm 177,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó,
giảm chủ yếu ở khu vực nơng thơn và ở nam giới (tương ứng là giảm 491,5 nghìn
người và 713,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước).
Trong năm 2020, sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19 đã làm thị trường lao
động suy giảm mạnh trong quý II, số lao động có việc làm giảm từ 50,1 triệu người
trong quý I xuống còn 48,1 triệu người, giảm gần 2 triệu người. Cũng trong năm
này ở hai quý tiếp theo, do sự kiểm soát dịch tốt cùng việc thực hiện nới lỏng cách
ly xã hội và những chính sách hỗ trợ ảnh hưởng của Chính phủ, thị trường lao động
có có sự phục hồi trở lại, lao động có việc làm tăng lên đạt mức 50,9 triệu người,
gần đạt được mức trước khi xảy ra dịch Covid-19 là 51,0 triệu người. Tuy nhiên,
đến quý I năm 2021, sự bùng phát trở lại của đại dịch Covid với những diễn biến
phức tạp ngay trong dịp Tết nguyên đán, đã làm giảm đà phục hồi của thị trường lao
động đã đạt được trước đó. Lao động có việc làm giảm cịn 49,9 triệu người, giảm
1,8% so với quý trước và giảm 0,36% so với cùng kỳ năm trước [7].
14
2.2 Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến thị trường lao động Việt Nam
hiện nay
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và
xuất nhập khẩu trong những tháng đầu năm 2020. Trong tổng số 49,9 triệu lao động
có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 39,5%,
tương đương 19,7 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và
xây dựng, chiếm 32,3%, tương đương 16,1 triệu người. Lao động trong khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, 28,2%, tương đương 14,1
triệu người. So với quý trước và cùng kỳ năm trước, tỷ trọng lao động trong khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng. Ngược lại, tỷ trọng lao động trong khu
vực công nghiệp và xây dựng quý này lại có dấu hiệu giảm, so với cả quý trước và
cùng kỳ năm trước (tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp tăng tương ứng là
0,8 điểm phần trăm và 0,2 điểm phần trăm; tỷ trọng lao động trong khu vực công
nghiệp và xây dựng giảm tương ứng là 1,3 điểm phần trăm và 0,7 điểm phần trăm)
[7].
Bảng 2.2. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm trong độ tuổi theo khu vực kinh tế quý I,
giai đoạn 2019-2021,[7].
15
Trong quý I năm 2021, số người có việc làm phi chính thức là 20,7 triệu, giảm
251,7 nghìn người so với quý trước và tăng 525,4 nghìn người so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức quý I năm 2021 là 57,1%, tăng 1,1
điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ lệ này tăng cao ở khu vực nông thôn (tăng so với quý trước và cùng kỳ
năm trước tương ứng là 2,1 và 2,6 điểm phần trăm) và ở nữ giới (tăng so với quý
trước và cùng kỳ năm trước tương ứng 1,8 và 2,5 điểm phần trăm). Dịch Covid-19
bùng phát lần thứ ba ngay trước và trong dịp Tết nguyên đán làm tăng đáng kể số
lao động thiếu việc làm so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
Số người lao động thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I năm 2021 là 971,4
nghìn người; tăng 143,2 nghìn người so với quý trước và tăng 78,7 nghìn người so
với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm
2021 là 2,20%; tăng 0,38 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,22 điểm phần
trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm 2021 ở khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản là 3,88%, khu vực công nghiệp và xây dựng là 1,51%; khu
vực dịch vụ là 1,76%. Mặc dù khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản vẫn có tỷ lệ
thiếu việc làm trong độ tuổi lao động cao nhất nhưng so với cùng kỳ năm trước, tỷ
lệ thiếu việc làm trong khu vực này đã giảm đi 0,8 điểm phần trăm, trong khi đó tỷ
lệ này ở khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,86 điểm phần trăm và khu vực
dịch vụ tăng 0,31 điểm phần trăm. Rõ ràng, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã
làm tình trạng thiếu việc làm lan rộng sang cả khu vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ [8].
16
2.3 Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của c.mác vào phát triển thị
trường lao động Việt Nam
2.3.1 Đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa khi vận dụng lý luận hàng hoá
sức lao động của C.Mác
Hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động đã và đang tồn tại khách quan
trong nền kinh tế nước ta. Nhưng xã hội mới mà nước ta đang xây dựng là xã hội
XHCN với đặc trưng cơ bản là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,
văn minh". Chính vì vậy, việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phục vụ
cho mục tiêu xây dựng xã hội XHCN. Tính định hướng XHCN trong việc vận dụng
lý luận hàng hoá sức lao động được biểu hiện rõ trong mục tiêu và cách thức vận
dụng.
Mục tiêu vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động là nhằm góp phần huy động
rộng rãi nguồn nhân lực và phát huy khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản
thân của hàng hoá sức lao động phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, người lao động phải bảo đảm có
cơng ăn việc làm.
Trong xã hội ta, người lao động và người sử dụng lao động đều là công dân của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, cho nên về bản chất, Nhà nước phải chăm lo bảo vệ và phát triển lợi ích của
mọi cơng dân. Trong nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, lợi ích tư nhân của
người sử dụng lao động được Nhà nước ta đảm bảo thì lợi ích cá nhân của người lao
động - bộ phận đông đảo trong nhân dân lại càng được Nhà nước quan tâm.
Nhà nước thông qua luật lao động và hệ thống chính sách kinh tế - xã hội thừa
nhận và bảo vệ quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động. Có thể
thấy rằng, bất kỳ người sử dụng lao động nào khi sản xuất, kinh doanh đều vì mục
đích lợi nhuận. Q trình xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan
17
tâm xây dựng và hoàn thiện các luật doanh nghiệp, các loại thuế thu nhập sao cho
cách thức hoạt động của các nhà đầu tư được thơng thống, dễ dàng, nhanh nhạy mà
vẫn đảm bảo đúng định hướng XHCN, bảo đảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải
thiện đời sống xã hội.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người sử dụng lao động không phân biệt
thành phần, quốc tịch đều được đối xử bình đẳng và được tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển. Mặt khác, thái độ sản xuất kinh doanh của những nhà đầu tư sử
dụng lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta phải là thái độ lao động
sản xuất kinh doanh khơng chỉ vì lợi ích riêng mà cịn phải chú ý đến việc phục vụ
lợi ích chung tồn xã hội.
Lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH là lao động làm chủ, lao động để cải
thiện cuộc sống cho bản thân và cho xã hội, đó là lao động cống hiến lao động thặng
dư cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN. Còn lao động dưới CNTB là
lao động làm thuê, lao động kiếm sống, đó là lao động bị tước đoạt lao động thặng
dư phục vụ cho việc làm giàu của giai cấp tư sả
2.3.2 Vai trò chủ thể của người lao động trong quá trình lao động sản xuất phải
được coi trọng trong khi vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động
Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào phát triển thị trường lao
động ở nước ta cần phải quan tâm đến việc tạo điều kiện phát huy vai trò chủ thể
của người lao động trong quá trình lao động sản xuất. Chỉ khi nào người lao động
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát huy được vai trị chủ thể trong
q trình lao động sản xuất thì sự nghiệp xây dựng CNXH mới được đẩy tới một
bước quan trọng.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, người lao động chỉ phát huy được vai trò chủ thể
trong quá trình lao động sản xuất khi chế độ sở hữu cá nhân về sức lao động được
Nhà nước bảo đảm thực hiện. Bảo đảm thực hiện chế độ sở hữu cá nhân về sức lao
18
động và xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với các hình thức sở hữu cơ
bản là một đặc điểm nổi bật trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước
ta hiện nay.
Quyền lao động của người lao động trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phải
được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Trước hết, người lao động phải có tư cách
độc lập trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng sức lao động của mình và địi hỏi
lợi ích chính đáng cho sự chuyển nhượng ấy. Đây là tiền đề quan trọng để người lao
động được bình đẳng với người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Tư cách
này có được là nhờ nhà nước bảo đảm quyền sở hữu cá nhân về sức lao động.
Người lao động sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng sức lao động tốt nhất khi họ
được tự chủ chọn việc làm. Tự chủ chọn việc làm là biểu hiện của quyền lao động.
Nhờ tự chủ chọn việc làm, người lao động sẽ tìm được việc làm phù hợp với trình
độ, với thể lực của mình. Khi bảo đảm quyền tự chủ chọn việc làm cho người lao
động, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho sức lao động lưu chuyển trong nền kinh tế,
thực hiện được việc phân phối sức lao động phù hợp với yêu cầu sản xuất, kinh
doanh. Quyền tự chủ chọn việc làm của người lao động phải gắn liền với quyền
được hưởng thù lao lao động tương xứng với kết quả lao động. Năng lực lao động
của từng cá nhân khơng giống nhau, vì vậy việc sử dụng sức lao động của từng cá
nhân trong quá trình lao động sản xuất sẽ tạo ra những kết quả lao động khác nhau.
Phân phối thành quả lao động cho các cá nhân tất yếu phải dựa vào kết quả lao động
và nguyên tắc phân phối theo lao động trở thành nguyên tắc chủ yếu trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Thừa nhận mức lương tương xứng với kết quả lao động là thừa nhận trong thực tế
quyền lao động. Với tiền lương nhận được, người lao động tự trang trải mọi chi phí
cho tái sản xuất sức lao động cho mình. Đây là nội dung quan trọng thể hiện quyền
lao động của người lao động. Quyền sở hữu sức lao động thuộc về người lao động
nên mọi chi phí tái sản xuất sức lao động chủ yếu là do người lao động gánh chịu.
19
2.3.3 Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại đang diễn ra như
vũ bão, CNH, HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu cải biến
một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh. Trong sự
nghiệp đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước, quan niệm coi con người là "vừa
là mục tiêu, vừa là động lực" của sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành quan
niệm phổ biến. Phát triển nguồn lực con người được coi là một bộ phận quan trọng
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì, con người
là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay khơng cịn là một nước thuần nơng, và
đang là một trong những quốc gia có tốc độ tang trưởng cao nhất trên thế giới
nhưng có lẽ cịn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một xã hội công nghiệp
hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
tư duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nơng. Vì thế, tiến hành CNH, HĐH là
tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước cải biến nếp nghĩ, cách làm vốn
cịn mang nặng dấu ấn tiểu nơng, sản xuất nhỏ của một bộ phận đáng kể trong lực
lượng lao động xã hội. Chính sự hình thành và phát triển của các yếu tố hiện đại
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong sản xuất do đẩy mạnh
CNH, HĐH sẽ tạo nên một cuộc cách mạng đối với lực lượng lao động xã hội.
Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần những người lao động mới và sẽ tạo ra những
người lao động mới. Những người lao động mới phải là những người biết nắm bắt
và sử dụng có hiệu quả những phương tiện cơng nghệ hiện đại. Đó cũng là những
người có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học công nghệ, trong quản lý
điều hành kinh tế vi mô, vĩ mô và trong hoạt động thương trường.
Để xây dựng lực lượng lao động mới này, Nhà nước ta đã và đang cải cách chính
sách giáo dục - đào tạo theo hướng đổi mới cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu CNH,
20
HĐH. Lực lượng lao động mới này ngày càng tăng lên thì khả năng cạnh tranh của
hàng hố sức lao động trên thị trường sức lao động cũng được nâng lên. Điều này
cho thấy muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hố sức lao động thì phải
dựa vào thành quả của CNH, HĐH.
2.3.4 Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào phát triển thị
trường lao động ở nước ta phải theo hướng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và tiếp cận kinh tế tri thức
Lịch sử nhân loại đã chứng minh khoa học cơng nghệ ngày càng đóng góp quan
trọng vào sự phát triển của kinh tế - xã hội và ngày càng có điều kiện phát triển
nhanh hơn: tri thức, thông tin trở thành yếu tố hàng đầu của sản xuất và khoa học
công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Động lực của nền kinh
tế tri thức chính là tri thức. Trong đó, quan trọng nhất là các tri thức về khoa học kỹ thuật, quản lý và thực hành.
Vì vậy Nhà nước ta phải chú trọng phát triển một cách toàn diện nhân tố con
người. "Mục tiêu cuối cùng, cao nhất của sự nghiệp cách mạng là nhằm vào con
người, vì con người "hay" yếu tố phát triển con người là yếu tố phát triển của mọi
sự phát triển" [10,tr. 13]. Nói cách khác, lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất để thúc
đẩy nền kinh tế tri thức phát triển chính là đầu tư vào vốn con người, vào lực lượng
lao động.
Hiện nay theo báo cáo mới nhất của tổng cục thống kê Việt Nam thì lực lượng
lao động ở nước ta đang khá lớn (khoảng 50 triệu người), số lượng khá lớn với tỷ lệ
lao động qua đào tạo tăng, đạt 26,0% đây vẫn là con số thấp nhưng đã được cải
thiện lớn so với các quốc gia phát triển trên thế giới. Vận dụng lý luận hàng hoá sức
lao động theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp cận kinh tế tri thức, Nhà nước
ta sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng hoá sức lao động và sẽ xây dựng
được lực lượng lao động chất lượng cao. Nhờ đó, nước ta có thể tự tin bước vào giai
đoạn phát triển của nền kinh tế tri thức, góp phần xây dựng thành công CNXH.
21
KẾT LUẬN
Hàng hoá sức lao động xuất hiện đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử phát
triển kinh tế của xã hội lồi người. Nó thể hiện sự thay đổi to lớn trong trình độ của
lực lượng sản xuất, sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, năng suất lao động
tăng cao, xã hội chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Hàng hoá sức lao động đã xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và đã được C.Mác nghiên cứu, xây dựng thành lý luận hàng hoá sức lao
động. Với lý luận này, C.Mác đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất hàng hoá TBCN
và khám phá ra quy luật chi phối sự vận động và phát triển của xã hội tư bản chủ
nghĩa.
Hiện nay việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào vấn đề phát
triển thị trường lao động ở Việt Nam có một ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn. Đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế tồn cầu thì đây là một trong những khâu mang
tính đột phá. Việt Nam với vị trí địa lý chiến lược, lại còn nguồn lao động dồi dào,
với tinh thần dân tộc, sự cần cù chịu khó, ý chí kiên cường đã được lịch sử chứng
minh hang ngàn năm qua. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ cả nước cần quan tâm
nhiều hơn nữa tới việc phát huy nguồn nhân lực cả về thể chất và trí tuệ. Cần xác
định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất trong công cuộc đổi mới và phát
triển đất nước. Chỉ có điều đó thì tổ quốc ta mới ngày càng lớn mạnh, sánh ngang
với các quốc gia khác trên thế giới, xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân./.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Minh Nguyễn, (2021), Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay, truy cập 13/09/2021, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph Ăngghen toàn tập, (1993), Toàn tập 25, Nxb Chính trị quốc gia,
Sự thật, Hà Nội,.
3. C.Mác và Ph Ăngghen tồn tập,(1993), Toồn tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Sự thật, Hà Nội.
4. C.Mác và Ph Ănghen tồn tập, (1995), Tồn tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Sự
thật, Hà Nội
5C.Mác và Ph Ăngghen toàn tập,(1995), Toàn tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự
thật, Hà Nội, .
9. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Sự
thật, Hà Nội
6 Phạm Thị Thu Lan, (2021),Thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường
hiện đại, đầy đủ, truy cập 14/09/2021, Hà Nội
7. Tổng cục thống kê Việt nam, (2021) THƠNG BÁO CÁO CHÍ TÌNH HÌNH LAO
ĐỘNG, VIỆC LÀM QUÝ I/2021, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thanh Hương, (2021), Đại dịch Covid-19 tác động đến lao động
việc làm ở Việt Nam qua phân tích số liệu thống kê, Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
10. PGS. Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong "thần kỳ" kinh tế
Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23