1
1. Đại cương: [21]
- U xơ tử cung là khối u lành tính trong tử cung. Đây là khối u thường gặp nhất ở
đường sinh dục của những người phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. U xơ tử cung
hiếm gặp ở những người phụ nữ trước khi có kinh và sau khi mãn kinh. U xơ tử
cung chiếm khoảng 20% - 25% những người phụ nữ và chiếm khoảng 40%
những người phụ nữ trên 50 tuổi và có kinh. U xơ tử cung thường gặp ở người
phụ nữ da đen hơn là người phụ nữ da trắng và người phụ nữ gốc Châu Á. Tuổi
thường gặp nhất là 35 – 49 tuổi. U xơ tử cung sẽ nhỏ lại khi mãn kinh.
- Phân loại: tùy theo vị trí của u xơ tử cung mà ta có những loại sau
+ U xơ tử cung dưới niêm. Ít gặp nhất. Vì nhân xơ này nằm gần nội mạc
tử cung nên nó có liên quan đến bất thường của chu kỳ kinh như: kinh kéo dài,
số lượng máu ra nhiều, đau bụng khi hành kinh và tăng tỷ lệ sẩy thai. Nhân xơ tử
cung có cuống có thể sa ra ngồi buồng tử cung.
+ U xơ tử cung trong cơ. Nếu phát triển to có thể gây khối u vùng bụng và
gây các triệu chứng như tiểu nhiều (khi chèn vào bàng quang) và bón (khi chèn
vào ruột). U xơ tử cung to sẽ làm biến dạng lịng tử cung, có thể hoại tử khi có
thai, gây hiếm muộn, gây sẩy thai, sanh non, ngôi bất thường, chuyển dạ bất
thường.
+ U xơ tử cung dưới thanh mạc có thể phát triển ra ngồi tử cung. Những
u xơ này có thể có cuống và phát triển vào trong ổ bụng hoặc trong dây chằng
rộng. Những khối u xơ này có thể gây ra các triệu chứng như tiểu nhiều (khi
chèn vào bàng quang) và bón (khi chèn vào ruột). U xơ tử cung dưới thanh mạc
có thể chẩn đốn lầm với khối u buồng trứng.
2
Theo vị trí trên tử cung
- Nhân xơ ở eo tử cung: có thể thành khối u tiền đạo khi có thai (u nằm ở mặt
sau), chèn ép niệu quản (nằm ở mặt bên – hiếm).
- Nhân xơ trong dây chằng rộng (ở eo tử cung): có thể chèn ép niệu quản (hiếm).
- Nhân xơ ở đoạn kẽ: gây hiếm muộn.
Hình ảnh nhân xơ tử cung
2. Triệu chứng lâm sàng
- U xơ tử cung là khối u thường gặp nhất ở những người phụ nữ trong độ tuổi
sinh sản, 20% - 50% người phụ nữ > 30 tuổi
[21]
, u xơ tử cung hiếm khi gây tử
vong nhưng có thể có triệu chứng gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Khoảng 50% khơng có triệu chứng
[4]
. Khi có triệu chứng kèm theo với khối
nhân xơ thì đừng vội kết luận nhân xơ tử cung gây triệu chứng. Những trường
hợp khơng có triệu chứng thì thường khơng cần phải điều trị
10% - 20% bệnh nhân có triệu chứng cần phải điều trị
[21]
[29]
. Chỉ có khoảng
. Các triệu chứng do
nhân xơ tử cung thường gặp là: rối loạn chu kỳ kinh như rong kinh, xuất huyết
giữa kỳ kinh, thống kinh, đau vùng chậu không liên quan đến chu kỳ kinh
3
nguyệt, triệu chứng nặng vùng chậu rối loạn đường tiêu hóa, tiểu nhiều. Triệu
chứng tiết niệu nếu có nên được đánh giá cẩn thận trước khi phẫu thuật cắt tử
cung để loại trừ những nguyên nhân khác
[20]
. Khoảng 62% bệnh nhân có triệu
chứng do nhân xơ có nhiều nhân xơ. Nhân xơ tử cung có thể gây những biến
chứng lên thai kỳ: hiếm muộn, sẩy thai và những biến chứng trong thai kỳ như:
đau bụng, ngôi bất thường, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, tăng tỷ lệ mổ
lấy thai và băng huyết sau sanh. Xuất huyết tử cung bất thường xuất hiện khoảng
30% những trường hợp có triệu chứng. Tỷ lệ xuất hiện các biến chứng thường
gặp nhiều nhất trong giai đoạn tiền mãn kinh và giảm bớt khi mãn kinh. Đa số
khơng giải thích được tại sao trường hợp này u xơ tử cung gây triệu chứng còn
những trường hợp khác u xơ tử cung không gây triệu chứng
[11] [20]
. Kích thước,
số lượng, vị trí của nhân xơ có liên quan đến triệu chứng lâm sàng.
2.1. Xuất huyết âm đạo bất thường
- Kinh nhiều thường là 1 triệu chứng đơn độc được báo cáo ở những người phụ
nữ có u xơ tử cung [5]. Dạng xuất huyết âm đạo thường gặp nhất là: rong kinh (số
lượng máu mất trong giai đoạn hành kinh tăng và thời gian hành kinh cũng tăng)
[28]
. Trên lâm sàng có thể chỉ gặp 1 trong 2 dạng xuất huyết âm đạo, tuy nhiên 1
số trường hợp có thể xuất hiện cả 2 dạng. Tình trạng xuất huyết âm đạo nhiều có
thể gây cho người phụ nữ thiếu máu thiếu sắt.
- Cơ chế gây xuất huyết tử cung bất thường của u xơ tử cung chưa rõ ràng. Tuy
nhiên, có 1 vài giả thuyết đã được đưa ra như sau:
+ Sự gia tăng bề mặt của nội mạc tử cung.
+ Sự gia tăng mạch máu của tử cung.
+ Giảm sự co bóp bình thường của cơ tử cung.
4
+ Nội mạc tử cung trên khối nhân xơ tróc ra tự nhiên gây xuất huyết tử
cung giữa chu kỳ. [19]
- Trong những nghiên cứu gần đây khi đánh giá những người phụ nữ trong giai
đoạn tiền mãn kinh có hoặc khơng có xuất huyết âm đạo bất thường. Các tác giả
nhận thấy rằng tỷ lệ những người phụ nữ bị xuất huyết tử cung bất thường có u
xơ tử cung trong cơ và u xơ tử cung dưới niêm cao hơn nững người phụ nữ
không bị xuất huyết tử cung bất thường (58% so với 13%) và (21% so với 1%)
[7]
. Mặc dù nghiên cứu này không đánh giá trực tiếp tỷ lệ những người phụ nữ bị
u xơ tử cung có xuất huyết tử cung bất thường, tuy nhiên nghiên cứu này cho
thấy rằng những trường hợp có u xơ tử cung thường gây xuất huyết âm đạo bất
thường, hoặc những trường hợp có u xơ tử cung dạng trong cơ hoặc dưới niêm
có thể khơng có xuất hiện triệu chứng. Số lượng, vị trí (trong cơ, dưới thanh
mạc, mặt trước, mặt sau tử cung), kích thước của u xơ tử cung khơng có liên
quan đến biểu hiện lâm sàng xuất huyết âm đạo bất thường.
- Một nghiên cứu lâm sàng thực hiện trên những người phụ nữ độ tuổi 35 – 49
tuổi, những người phụ nữ tự đánh giá dạng xuất huyết âm đạo bất thường của
mình và được siêu âm đầu dò bụng và đầu dò âm đạo để xác định số lượng, vị
trí, kích thước của khối u xơ tử cung. Trong 878 trường hợp được đưa vào nhóm
nghiên cứu, có 64% trường hợp bị u xơ tử cung và 36% không bị u xơ tử cung.
Trong số những trường hợp có u xơ tử cung, có 46% có xuất huyết âm đạo lượng
nhiều trong giai đoạn hành kinh so với 28% người phụ nữ khơng có u xơ tử
cung. Ra huyết âm đạo lượng nhiều trong giai đoạn hành kinh và chu kỳ kinh
kéo dài có liên quan đến kích thước của u xơ tử cung (khối u xơ lớn, RR=1.9, CI
95% 1.5 – 2.5). Vị trí và số lượng của nhân xơ thì khơng có liên quan đến triệu
5
chứng lâm sàng. Một số nghiên cứu cũng cho thấy rằng những u xơ tử cung có
kích thước > 5 cm thường gây xuất huyết tử cung mức độ nặng hơn.[16]
2.2. Đau vùng chậu
- Đau vùng chậu hoặc có cảm giác nặng vùng chậu là triệu chứng thường gặp ở
những trường hợp có u xơ tử cung. Trong một nghiên cứu cộng đồng, sử dụng
siêu âm đầu dò âm đạo để xác định u xơ tử cung. Số lượng bệnh nhân tham gia
trong nghiên cứu là 635 trường hợp. Những triệu chứng thường gặp là giao hợp
đau, đau bụng khi hành kinh hoặc đau bụng không theo chu kỳ kinh. Có 96
người phụ nữ có u xơ tử cung có tình trạng giao hợp đau, mức độ đau trung bình
đến nặng (OR 2.8, 95%CI 0.9 - 8.3) hoặc đau bụng không theo chu kỳ (OR 2.6,
95%CI 0.9 - 7.6), tỷ lệ bị đau bụng kinh mức độ trung bình và nặng không khác
nhau (OR 1.1, 95%CI 0.59 - 2.6) so với nhóm khơng có u xơ tử cung. Số lượng
hoặc kích thước của khối u xơ khơng có liên quan đến triệu chứng đau. [17]
- U xơ tử cung hiếm khi gây đau vùng chậu, nếu u xơ tử cung gây đau vùng chậu
thường kèm theo tình trạng thối hóa u xơ, xoắn hoặc là do lạc nội mạc trong cơ
tử cung (Adnomyosis). Ở những trường hợp có u xơ tử cung và đã mãn kinh, nếu
có đau vùng chậu thì nên nghĩ đến ung thư cơ tử cung
[14]
3. Các xét nghiệm
- Lời khuyên cấp độ A: siêu âm đầu dị âm đạo sẽ đánh giá chính xác nội mạc
tử cung để loại trừ tình trạng tăng sản nội mạc tử cung. Tuy nhiên, siêu âm đầu
dị âm đạo khó phân biệt được u xơ tử cung dạng dưới niêm và polyp lòng tử
cung.
- Lời khuyên cấp độ D: những trường hợp tử cung to > 12 tuần nên dùng siêu
âm đầu dò bụng.
6
- Lời khuyên cấp độ A: siêu âm đầu dò âm đạo và siêu âm đầu dị âm đạo có
bơm nước vào buồng tử cung (sonohysterography) sẽ giúp thầy thuốc chẩn đốn
vị trí của u xơ tử cung chính xác hơn nội soi buồng tử cung.
- Lời khuyên cấp độ A: trong những trường hợp có bệnh lý ở tử cung, siêu âm
đầu dị âm đạo có bơm nước vào buồng tử cung nên được thực hiện trước khi
tiến hành nội soi buồng tử cung. Siêu âm đầu dò âm đạo có bơm nước vào buồng
tử cung sẽ làm giảm khoảng 40% những trường hợp cần thực hiện nội soi buồng
tử cung.
- Lời khun cấp độ D: có ít bằng chứng ủng hộ sử dụng CT scan trong những
trường hợp u xơ tử cung.
- Lời khuyên cấp độ D: có ít bằng chứng ủng hộ sử dụng MRI như là phương
tiện đầu tiên dùng để chẩn đoán các bệnh lý ở tử cung.
- Lời khuyên cấp độ D: MRI chỉ nên được chỉ định trong những trường hợp
siêu âm đầu dò âm đạo và siêu âm đầu dò âm đạo có bơm nước vào buồng tử
cung mà vẫn khơng chẩn đốn chính xác vị trí của nhân xơ hoặc những trường
hợp khơng thể làm siêu âm đầu dị âm đạo có bơm nước vào buồng tử cung
được.
7
4. Biến chứng:
4.1. U xơ tử cung và hiếm muộn [21]
- Tỷ lệ u xơ tử cung là yếu tố đơn độc gây hiếm muộn chiếm tỷ lệ thấp
[4]
. U xơ
tử cung ở đoạn kẻ sẽ ngăn cản tinh trùng gặp trứng. U xơ tử cung trong cơ có
kích thước lớn làm biến dạng buồng tử cung hoặc u xơ tử cung dạng dưới niêm
sẽ ngăn trứng đã thụ tinh làm tổ trong buồng tử cung.
4.2. U xơ tử cung và thai
U xơ tử cung và thai
8
- Khoảng 4% - 5% người phụ nữ thực hiện siêu âm kiểm tra trước khi mang thai
đã phát hiện ra u xơ tử cung. Người phụ nữ trì hỗn thời điểm có thai cho đến
sau 30 tuổi sẽ làm tăng khả năng bị u xơ tử cung khi mang thai. Đa số u xơ tử
cung (80%) khơng tăng kích thước hoặc giảm kích thước trong suốt thai kỳ.
Nguy cơ xuất hiện các biến chứng trong thai kỳ tùy thuộc vào số lượng, kích
thước và vị trí của nhân xơ. Nếu bánh nhau nằm trên khối nhân xơ thì tăng nguy
cơ sẩy thai, sanh non, nhau bong non, vỡ màng ối non hoặc thai chậm tăng
trưởng trong lòng tử cung. Nếu khối nhân xơ nằm ở đoạn dưới tử cung thì có thể
tăng nguy cơ ngơi bất thường, tăng nguy cơ mổ lấy thai và băng huyết sau sanh.
Trong một nghiên cứu lớn hồi cứu 12.708 sản phụ cho thấy rằng kiểu sanh, sự
phát triển của thai và nguy cơ vỡ ối sớm khơng có liên quan đến tình trạng có u
xơ tử cung khi mang thai. Tuy nhiên, có sự gia tăng đáng kể tình trạng dọa sanh
non cần phải điều trị bằng thuốc giảm co bằng đường truyền tĩnh mạch.Những
khối nhân xơ có kích thước > 20 cm sẽ gây tình trạng nhau bong non và đau
bụng khi có thai. Khơng nên bóc nhân xơ trong những trường hợp có thai vì có
nguy cơ gây chảy máu khơng kiểm sốt được
[14]
.
- Những sản phụ được phát hiện có u xơ tử cung được theo dõi trong vòng 2 năm
từ tháng 1 năm 2006 đến tháng 12 năm 2007. Kết quả có 30 sản phụ được chẩn
đốn là u xơ tử cung trên 3468 sản phụ (chiếm tỷ lệ 0.865%). Năm mươi phần
trăm (50%) sản phụ trong độ tuổi 20 – 30 tuổi, 27% sản phụ trong độ tuổi 30 –
35 tuổi. Hai mươi mốt trường hợp (chiếm tỷ lệ 70%) có điều kiện kinh tế ở mức
độ thấp. Chín phần trăm (9%) sản phụ mang thai từ tuần 37 – 40 tuần. U xơ tử
cung gặp nhiều ở những trường hợp con so hơn con rạ, chỉ có 8 trường hợp là
mang thai lần đầu (chiếm tỷ lệ 23.66%). Trong số những sản phụ có u xơ tử cung
có 21 sản phụ (chiếm tỷ lệ 70%) phải mổ lấy thai, có 1 sản phụ (chiếm tỷ lệ
9
3.3%) phải cắt tử cung. Trong những chỉ định mổ lấy thai, nguyên nhân thường
gặp nhất là chuyển dạ ngưng tiến triển và thai suy (có 8 trường hợp, chiếm tỷ lệ
38.09%), ngun nhân kế tiếp là ngơi mơng (có 4 trường hợp, chiếm tỷ lệ
19.04%), sa dây rốn (có 3 trường hợp, chiếm tỷ lệ 14.28 %) và u xơ tử cung nằm
ở đoạn dưới tử cung (có 2 trường hợp, chiếm tỷ lệ 9.52 %). Thiếu máu là biến
chứng thường gặp nhất (có 20 trường hợp, chiếm tỷ lệ 66.66%) nguyên nhân gặp
nhiều nhất là băng huyết sau sanh (có 10 trường hợp, chiếm tỷ lệ 33.33%). Ngơi
mơng là nguyên nhân gặp nhiều nhất (có 4 trường hợp, chiếm tỷ lệ 13.33%)
trong những trường hợp ngôi bất thường. Ối vỡ sớm và sa dây rốn gặp trong 3
trường hợp (chiếm tỷ lệ 10%). Có 4 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ 13.33%) phải cắt tử
cung ngã bụng. Thai chậm tăng trường trong buồng tử cung gặp ở 2 trường hợp
(chiếm tỷ lệ 6.66%). Có 2 bệnh nhân bị sẩy thai trong đó 1 bệnh nhân sẩy thai tự
nhiên và trường hợp còn lại phải cắt tử cung do bánh nhau nằm ở đoạn dưới tử
cung ra huyết nhiều và cần phải cắt tử cung. Một sản phụ tử vong trong giai đoạn
gây mê.
- Kết luận: những trường hợp có u xơ tử cung trong giai đoạn mang thai làm tăng
tỷ lệ mổ lấy thai do bởi bất thường trong chuyển dạ và ngôi bất thường. Tỷ lệ
băng huyết sau sanh cũng tăng, biến chứng này liên quan tới tình trạng thiếu
máu, gây mê và phẫu thuật.
4.3. Sẩy thai [21] [22]
- Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng ở những trường hợp có u xơ tử cung
thì tỷ lệ sẩy thai ở 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ cao hơn. Trong một
nghiên cứu 1941 trường hợp có bóc nhân xơ tử cung, nghiên cứu đánh giá tỷ lệ
bị sẩy thai trước khi bóc nhân xơ và sau khi bóc nhân xơ. Kết quả cho thấy rằng
tỷ lệ sẩy thai sau khi bóc nhân xơ ở lần mang thai kế tiếp giảm từ 41% đến 19%.
10
Những tài liệu nghiên cứu trước đó cho thấy rằng tỷ lệ sẩy thai cao có liên quan
đến u xơ tử cung và hiệu quả của bóc nhân xơ tử cung làm giảm tỷ lệ sẩy thai.
4.4. Biến chứng trễ trong thai kỳ [4]
- Thối hóa đỏ cùng với xuất hiện tình trạng đau bụng trong thai kỳ thường được
xem là 1 biến chứng đặc biệt trong thai kỳ có kèm theo u xơ tử cung. Tuy nhiên,
đa số các u xơ khơng tăng kích thước trong thai kỳ. Thường u xơ tử cung tăng
kích thước trong ba tháng đầu thai kỳ sau đó kích thước sẽ giữ ngun hoặc giảm
trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ
[16]
. Trong những trường hợp u xơ tử
cung to thì kích thước khối u nhỏ lại thường xảy ra trong những tháng cuối thai
kỳ. Một nghiên cứu đã tiến hành thực hiện siêu âm hàng loạt để đánh giá sự phát
triển của nhân xơ khi có thai, kết quả có khoảng 70% - 80% nhân xơ không thay
đổi trong thai kỳ.
- Trong một nghiên cứu bao gồm 12.600 trường hợp, trong đó có 167 trường hợp
có u xơ tử cung so với nhóm khơng có u xơ tử cung. Kết quả cho thấy rằng:
khơng có sự khác nhau về tỷ lệ sanh non, ối vỡ sớm, thai chậm tăng trưởng trong
tử cung, nhau tiền đạo, nhau bong non, băng huyết sau sanh, sót nhau sau sanh
giữa nhóm có u xơ tử cung và nhóm khơng có u xơ tử cung. Tỷ lệ mổ lấy thai
tăng ở nhóm có u xơ tử cung so với nhóm khơng có u xơ tử cung (23% so với
12%, P < 0.001). [30]
- Trong một nghiên cứu khác, trong 15.104 trường hợp được ghi nhận và 401
người phụ nữ có u xơ tử cung so với nhóm khơng có u xơ tử cung. Có sự gia
tăng tỷ lệ sanh non (19.2% so với 12.7%), nhau tiền đạo (3.5% so với 1.8%),
băng huyết sau sanh (8.3% so với 2.9%) và mổ lấy thai (49.1% so với 21.4%) ở
nhóm bị u xơ tử cung. Khơng có sự khác biệt tỷ lệ ối vỡ sớm, sanh ngã âm đạo,
11
nhiễm trùng ối và viêm nội mạc tử cung giữa nhóm có u xơ tử cung và nhóm
khơng có u xơ tử cung. [23]
4.5. Vỡ tử cung có sẹo mổ bóc nhân xơ khi có thai
- Trong những trường hợp tử cung có vết sẹo do bóc nhân xơ, khi có thai nguy
cơ vỡ tử cung có thể xảy ra. Trong số 98.872 trường hợp tử cung có vết sẹo do
bóc nhân xơ, có 76 (chiếm 0.077%) trường hợp vỡ tử cung trong 3 tháng cuối
thai kỳ. [19]
- Một nghiên cứu cho thấy trong 137.582 sản phụ có sẹo mổ bóc nhân xơ trong
đó có 133 trường hợp vỡ tử cung sau tuần thứ 28 của thai kỳ (chiếm 0,1%) [19].
Tỷ lệ vỡ tử cung trong thai kỳ ở những trường hợp tử cung có vết sẹo mổ bóc
nhân xơ tuy thấp nhưng đây là biến chứng nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng
cho mẹ và thai. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào cho thấy rằng tỷ
lệ vỡ tử cung xuất hiện nhiều trong thời điểm nào của thai kỳ hoặc xuất hiện
nhiều trong giai đoạn nào của q trình chuyển dạ.
4.6. Tỷ lệ hóa ác tính
- U xơ tử cung hiếm khi gây ác tính
[21]
. Những nghiên cứu gần đây cho thấy
rằng, tỷ lệ ác tính do u xơ tử cung chiếm khoảng 0.13% - 0.29%, trung bình
khoảng 0.2% [21].
- Một nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ ác tính xảy ra khoảng 1.7/ 100.000 người
phụ nữ. Có tài liệu ghi nhận tỷ lệ thối hóa ác tính chiếm khoảng 2 – 3/ 1000 [4].
Ung thư cơ tử cung chiếm khoảng 1.2% - 6% những trường hợp ác tính của tử
cung. Tuổi trung bình để chẩn đoán ung thư cơ tử cung là 44 – 57 tuổi. Những
người phụ nữ phát hiện ung thư cơ tử cung có xuất hiện triệu chứng trước đó
trung bình là 2.7 tháng. Những triệu chứng khác có thể là thấy bụng to ra hoặc ra
dịch âm đạo bất thường, dịch âm đạo thường hơi và có thể lẫn máu. Ở những
12
trường hợp u xơ phát triển kích thước nhanh (tăng gấp đơi kích thước trong vịng
6 tháng) ở những người phụ nữ hậu mãn kinh nguyên nhân thường gặp là ung
thư cơ tử cung hơn là u xơ tử cung [14]
5. Xử trí u xơ tử cung
- Tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân, tình trạng kinh nguyệt, mong muốn có con,
biến chứng kèm theo, khả năng của thầy thuốc.
5.1. Xử trí những trường hợp u xơ tử cung khơng triệu chứng
- Lời khuyên cấp độ D: những trường hợp có u xơ tử cung kích thước < 16 tuần
mà khơng có triệu chứng (sau khi những ngun nhân gây khối u vùng chậu đã
bị loại trừ) thì khơng cần đánh giá thêm nhưng cần điều trị nội khoa nếu có xuất
hiện triệu chứng.
- Lời khuyên cấp độ D: những trường hợp có tử cung to > 16 tuần nên được
đánh giá cẩn thận.
- Lời khuyên cấp độ D: mặc dù khơng có bằng chứng chứng tỏ những trường
hợp tử cung to > thai 20 tuần gây biến chứng, tuy nhiên những trường hợp này
nên tiến hành cắt tử cung hoặc bóc nhân xơ.
- Lời khun cấp độ D: vì tỷ lệ u xơ tử cung hóa ác thấp cho nên khơng cần tiến
hành cắt tử cung để phịng ngừa ung thư cơ tử cung.
5.2. Điều trị nội khoa
- Lời khun cấp độ D: có ít bằng chứng ủng hộ việc sử dụng progestogen để
điều trị u xơ tử cung.
- Lời khuyên cấp độ C: thuốc viên tránh thai loại phối hợp khơng làm u xơ nhỏ
lại nhưng có thể làm giảm lượng máu mất khi hành kinh và cải thiện lượng Hct
và Hb trong bệnh nhân.
13
- Lời khuyên cấp độ D: RU 486 có hiệu quả làm giảm kích thước của u xơ tử
cung mà khơng gây tình trạng giảm mật độ xương.
- Lời khun cấp độ C: Danazol không nên được xem là thuốc điều trị đầu tay
vì hiệu quả làm giảm kích thước u xơ khơng bằng nhóm đồng vận GnRH và có
tác dụng nam hóa mạnh.
- Lời khuyên cấp độ A: Gestrione có tác dụng làm giảm kích thước u xơ tử
cung nhưng có tác dụng nam hóa nhiều nên hiện nay thuốc này ít được khuyến
cáo sử dụng.
- Lời khuyên cấp độ B: thuốc kháng viêm non steroid khơng có tác dụng làm
giảm tình trạng ra huyết nhiều trong giai đoạn hành kinh ở những trường hợp có
u xơ tử cung.
- Lời khuyên cấp độ A: chất đồng vận GnRH có hiệu quả làm giảm kích thước
của tử cung và khối nhân xơ, tuy nhiên nếu dùng đơn độc và kéo dài > 6 tháng
thì sẽ gây tình trạng giảm mật độ xương.
- Lời khuyên cấp độ B: chất đồng vận GnRH điều trị trong vịng 3 tháng có kết
hợp với điều trị hỗ trợ (estrogen và progestin) sẽ làm khối nhân xơ nhỏ lại.Chất
đồng vận GnRH được khuyên dùng ở những trường hợp chống chỉ định phẫu
thuật hoặc những trường hợp bệnh nhân không muốn phẫu thuật. Tuy nhiên, khi
ngưng điều trị thì kích thước khối nhân xơ sẽ lớn lên lại như trước khi điều trị.
- Lời khuyên cấp độ C: hiện nay cịn ít dữ kiện chứng tỏ rằng ‘hệ thống trong tử
cung’ có chứa progestogen làm giảm kích thước khối nhân xơ.
- Lời khuyên cấp độ A: điều trị hormon thay thế không nên được dùng để điều
trị khối nhân xơ vì khơng có hiệu quả làm giảm kích thước khối nhân xơ.
14
- Lời khuyên cấp độ C: có thể dùng các phương pháp điều trị nội khoa điều trị
những trường hợp u xơ tử cung để làm giảm triệu chứng. Nên cân nhắc các biện
pháp vì hiệu quả, giá thành và tác dụng phụ của mỗi loại thuốc khác nhau.
5.2.1. Chỉ định điều trị nội khoa [4]
- Hiện nay điều trị nội khoa chỉ được dùng trong thời gian ngắn vì những nguy
cơ có thể xảy ra khi điều trị trong thời gian dài, hoặc thiếu những bằng chứng về
hiệu quả và nguy cơ khi điều trị trong thời gian dài.
- Điều trị nội khoa được chỉ định trong những trường hợp sau:
+ Điều trị tạm thời để làm giảm các triệu chứng (thường là ra huyết nhiều
trong giai đoạn hành kinh hoặc chu kỳ kinh kéo dài). Chỉ định điều trị này phù
hợp với những trường hợp u xơ tử cung có triệu chứng và nên được chọn lựa cho
những bệnh nhân ở giai đoạn tiền mãn kinh hoặc bệnh nhân chưa có điều kiện
hoặc chống chỉ định (tạm thời) phẫu thuật.
+ Điều trị nội khoa trước khi phẫu thuật để làm giảm kích thước nhân xơ
(để cuộc phẫu thuật dễ dàng hơn hoặc dễ thực hiện các loại phẫu thuật như cắt tử
cung qua nội soi hoặc cắt tử cung ngã âm đạo) hoặc làm giảm tình trạng mất máu
khi phẫu thuật và hạn chế tình trạng thiếu máu. Điều trị nội khoa có thể thực hiện
trước khi bóc nhân xơ, cắt tử cung và bóc nhân xơ dưới niêm qua nội soi trong
buồng tử cung.
+ Điều trị làm giảm tình trạng mất máu nhiều của bệnh nhân nhằm khôi
phục lại lượng hồng cầu, Hct và Hb của bệnh nhân tránh tình trạng bắt buộc phải
truyền máu trong khi phẫu thuật.
- Khơng có bằng chứng cho thấy rằng viên thuốc tránh thai liều thấp làm khối
nhân xơ phát triển, vì vậy khơng có chống chỉ định dùng viên thuốc tránh thai
phối hợp liều thấp trong những trường hợp có nhân xơ tử cung. Chất đồng vận
15
GnRH có thể dùng đường xịt mũi, tiêm dưới da, và tiêm mạch chậm. Sau khi sử
dụng chất đồng vận GnRH 3 tháng, kích thước khối nhân xơ có thể nhỏ lại
khoảng 50%. Chất đồng vận GnRH thường được chỉ định dùng trước khi phẫu
thuật để làm giảm kích thước khối nhân xơ và làm giảm tình trạng mất máu
trong chu kỳ kinh. Tranexamic acid có thể làm giảm tình trạng rong kinh.
Danazol có thể làm giảm kích thước khối nhân xơ từ 20% - 25% , tuy nhiên nó
có nhiều biến chứng. [14]
5.2.2. Chất đồng vận GnRH
5.2.2.1. Sử dụng thuốc đồng vận GnRH điều trị đơn độc
- Những thử nghiệm lâm sàng sử dụng các dạng thuốc đồng vận GnRH điều trị
đều chứng tỏ rằng các loại thuốc đồng vận GnRH đều làm giảm kích thước một
cách đáng kể khối nhân xơ khi so với điều trị bằng giả dược hoặc khơng có điều
trị. Khi dùng thuốc đồng vận GnRH, kích thước khối nhân xơ nhỏ lại từ 40% 60%
[4] [29]
.Thuốc đồng vận GnRH cũng làm giảm triệu chứng có liên quan tới
nhân xơ tử cung như rong kinh
[12][15]
. Tác dụng phụ quan trọng nhất của thuốc
này là làm giảm mật độ xương và gây các triệu chứng liên quan đến tình trạng
mãn kinh do thiếu estrogen
[2]
, chính vì vậy thời gian điều trị thuốc đồng vận
GnRH chỉ được dùng tối đa trong vịng 6 tháng
[15]
thuốc thì kích thước của khối nhân xơ to trở lại
. Hơn thế nữa, sau khi ngưng
[32]
. Khối u xơ to trở lại chiếm
khoảng ½ số bệnh nhân điều trị chất đồng vận GnRH [2].
5.2.2.2. Sử dụng thuốc đồng vận GnRH điều trị kết hợp điều trị bổ sung
- Chất đồng vận GnRH rất có hiệu quả trong điều trị u xơ tử cung làm cho khối
nhân xơ nhỏ lại 1 cách đáng kể, tuy nhiên nó cũng có tác dụng phụ gây nên tình
trạng mãn kinh. Điều trị bổ sung là cách làm giảm các nguy cơ khi dùng thuốc
đồng vận GnRH và vẫn bảo đảm hiệu quả điều trị.[4]
16
5.2.2.2.1. Tibolone [4]
- Tibolone là thuốc đã được dùng để điều trị bệnh lý u xơ tử cung và đã được
nghiên cứu trong nhiều thử nghiệm lâm sàng và đã được chứng tỏ là có hiệu quả.
Trong một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đôi với giả dược, thời gian điều
trị trong vòng 6 tháng, thuốc dùng là leuprolide acetate (3.75 mg tiêm bắp mỗi
28), kết hợp với giả dược hàng ngày hoặc với tibolone 2.5 mg/ngày. Kết quả cho
thấy rằng đều trị kết hợp với chất đồng vận GnRH sẽ làm giảm triệu chứng vận
mạch và ngăn chặn tình trạng giảm mật độ xương mà khơng ảnh hưởng đến hiệu
quả điều trị của chất đồng vận GnRH. Những nghiên cứu khác cũng cho kết quả
tương tự. Điều trị chất đồng vận GnRH kết hợp với tibolone trong vòng 24 tháng
làm giảm triệu chứng vận mạch và ngăn chặn tình trạng lỗng xương mà khơng
làm thay đổi lipid máu.
5.2.2.2.2. Raloxifene [4]
- Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng so sánh giữa 2 phác đồ điều trị: chất đồng
vận GnRH kết hợp với raloxifene với chất đồng vận GnRH kết hợp với giả dược,
thời gian điều trị trong vòng 6 tháng. Kết quả là cả 2 phác đồ đều làm giảm kích
thước khối nhân xơ cũng như kích thước của tử cung, tuy nhiên phác đồ dùng
chất đồng vận GnRH kết hợp với raloxifene làm giảm kích thước của nhân xơ
nhiều hơn. GnRH kết hợp với raloxifene làm giảm đáng kể tình trạng giảm mật
độ xương.
5.2.2.2.3. Progestogen [4]
- Medroxyprogesterone acetate (MPA) có thể có hiệu quả khi kết hợp với chất
đồng vận GnRH ở những trường hợp có u xơ tử cung, làm giảm tác dụng phụ
của chất đồng vận GnRH và có thể kéo dài sự đáp ứng, tuy nhiên hiệu quả ngăn
tình trạng lỗng xương chưa được xác định rõ ràng. Khơng có bằng chứng để
17
chứng tỏ MPA ngăn cản sự tái phái của kích thước khối nhân xơ sau khi ngưng
điều trị chất đồng vận GnRH. Những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho thấy
rằng chất đồng vận GnRH kết hợp với MPA làm giảm tỷ lệ sản phụ bị các triệu
chứng vận mạch.[25]
5.2.2.2.4. Estrogen
- Estrogen thường ít khi được sử dụng đơn độc vì nguy cơ tăng sinh nội mạc tử
cung nếu dùng estrogen mà khơng có chất đối kháng. Estriol, một chất estrogen
yếu và có thời gian hoạt động ngắn, đã được sử dụng điều trị bổ sung sau khi
dùng chất đồng vận GnRH trong một nghiên cứu bao gồm 12 bệnh nhân. Kết
quả cho thấy rằng, ở nhóm bệnh nhân có dùng chất đồng vận GnRH và estriol có
hiệu quả làm giảm kích thước khối u xơ và khơng làm giảm mật độ xương khi so
sánh với nhóm điều trị chất đồng vận GnRH kết hợp với giả dược. [18]
5.2.2.2.5. Estrogen kết hợp với progesterone
- Một nghiên cứu so sánh giữa chất đồng vận GnRH kết hợp với estrogen và
progesterone (liều thấp estrogen dùng liên tục kết hợp với norethindrone dùng
theo chu kỳ), kết quả cho thấy rằng thể tích trung bình của nhân xơ giảm khi có
điều trị bổ sung estrogen và progesterone. Khơng có sự khác nhau về triệu chứng
có liên quan đến tình trạng giảm estrogen hoặc sự trở lại kích thước ban đầu của
tử cung sau điều trị 6 tháng.
5.2.2.3. Điều trị chất đồng vận GnRH trước phẫu thuật
- Lời khuyên cấp độ B: những trường hợp tử cung to > thai 18 tuần hoặc thiếu
máu, nên dùng chất đồng vận GnRH điều trị trong vòng 2 – 4 tháng trước khi
tiến hành phẫu thuật.
- Những dữ kiện trên thư viện Cochrane đã cho thấy rằng, dùng chất đồng vận
GnRH thường qui trước khi cắt tử cung hoặc bóc nhân xơ sẽ làm cải thiện đáng
18
kể lượng máu (Hct và Hb) của bệnh nhân. Kích thước tử cung tử cung nhỏ, kích
thước nhân xơ nhỏ và triệu chứng ở vùng chậu cũng giảm. Cắt tử cung dễ dàng,
giảm thời gian phẫu thuật, có thể thực hiện cắt tử cung ngã âm đạo. Tỷ lệ máu
mất trong cả 2 phương pháp cắt tử cung và bóc nhân xơ đều giảm. Tuy nhiên,
khả năng mang thai sau khi phẫu thuật còn chưa đủ dữ kiện để chứng minh.
Điểm bất lợi của chất đồng vận GnRH là giá thành còn cao và xuất hiện các triệu
chứng liên quan đến mãn kinh, nếu dùng lâu dài có nguy cơ loãng xương. Tuy
nhiên, dùng chất đồng vận GnRH trước mổ là yếu tố nguy cơ làm cho các u xơ
tử cung tái phát vì khối u xơ tử cung nhỏ lại khi dùng thuốc sẽ làm cho phẫu
thuật viên không phát hiện và bỏ qua, khối nhân xơ sẽ lớn lên khi ngưng điều trị
chất đồng vận GnRH. Trong một nghiên cứu 426 người phụ nữ đã tiến hành bóc
nhân xơ qua nội soi, Dubuisson và cộng sự nhận thấy rằng có 11,3% phải tiến
hành mở bụng lớn.
5.3. Điều trị ngoại khoa
- Lời khuyên cấp độ C: những trường hợp đã được chẩn đoán là u xơ tử cung
dạng dưới niêm và có kèm với tình trạng xuất huyết âm đạo nặng nên được nội
soi buồng tử cung để cắt bỏ khối nhân xơ.
- Lời khuyên cấp độ D: những trường hợp đã được chẩn đoán là u xơ tử cung
dạng dưới thanh mạc và có kèm xuất huyết âm đạo nhiều nên được tiến hành
bóc nhân xơ.
- Lời khuyên cấp độ D: chỉ định cắt tử cung hoặc bóc nhân xơ tùy thuộc vào
tuổi, ý muốn mang thai trong tương lai, vị trí, kích thước khối nhân xơ.
- Lời khun cấp độ D: khơng nên thực hiện bóc nhân xơ qua nội soi ở những
trường hợp còn mong muốn có thai vì tỷ lệ vỡ tử cung khi mang thai cao.
19
- Lời khuyên cấp độ D: hiện nay còn thiếu những bằng chứng ủng hộ việc xử
dụng thường qui những màng chống dính sau mổ.
- Lời khuyên cấp độ C: hiện nay còn thiếu những bằng chứng ủng hộ việc xử
dụng những chất co mạch làm giảm lượng máu mất trong khi phẫu thuật.
- Lời khuyên cấp độ D: vì tỷ lệ hóa ác ở những trường hợp u xơ tử cung khơng
có triệu chứng rất thấp nên nên khơng cần phẫu thuật để phòng ngừa ung thư cơ
tử cung ở những trường hợp u xơ tử cung khơng có triệu chứng.
- Lời khuyên cấp độ D: có thể chọn lựa thực hiện thuyên tắc động mạc tử cung
thay thế cắt tử cung hoặc bóc nhân xơ trong nhũng trường hợp có u xơ tử cung.
5.3.1. Chỉ định điều trị phẫu thuật [4]
- Xuất huyết âm đạo bất thường gây tình trạng thiếu máu, khơng đáp ứng với
điều trị bằng nội khoa hoặc các biện pháp khác.
- Đau vùng chậu mãn, thống kinh, đau khi giao hợp hoặc đau vùng bụng dưới.
- Đau bụng cấp do hoại tử những nhân xơ có cuống hoặc nhân xơ dưới niêm sa
ra khỏi cổ tử cung.
- Triệu chứng của đường tiết niệu như thận ứ nước (sau khi đã loại trừ những
nguyên nhân khác gây thận ứ nước).
- Nhân xơ tử cung gây hiếm muộn.
- Sẩy thai tái phát nhiều lần kèm nhân xơ làm thay đổi hình dạng của lịng tử
cung.
- Kích thước tử cung to nhiều và kèm theo triệu chứng nặng vùng chậu.
5.3.2. Cắt tử cung
- Chỉ định cắt tử cung ở những trường hợp có u xơ tử cung khơng có biểu hiện
triệu chứng là khi u xơ tử cung lớn nhanh sau giai đoạn mãn kinh. Cắt tử cung
thực hiện với mục đích ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn niệu quản mà khơng có
20
triệu chứng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tỷ lệ xuất hiện những biến
chứng khi phẫu thuật những trường hợp u xơ tử cung có tử cung > thai 12 tuần
khơng cao hơn những trường hợp có tử cung nhỏ hơn thai 12 tuần. Vì thế khơng
nên cắt tử cung để phòng ngừa những biến chứng khi phẫu thuật cắt tử cung khi
tử cung to.
- Tại Hoa Kỳ u xơ tử cung gây triệu chứng chiếm khoảng 30% - 40% những
trường hợp cắt tử cung, mỗi năm có khoảng 150.000 – 200.000 ca cắt tử cung
mỗi năm. Khoảng > 25% người phụ nũ cắt tử cung ở độ tuổi 60. Nguyên nhân
thứ 2 thường gặp là cắt tử cung cấp cứu sau khi mổ lấy thai
[24]
5.3.3. Bóc nhân xơ
- Bóc nhân xơ được chỉ định trong những trường hợp cần giữ lại tử cung. Tuy
nhiên, lượng máu máu mất trong những trường hợp bóc nhân xơ nhiều hơn cắt tử
cung nhưng ít tổn thương niệu quản hơn. Khoảng 15% có nhân xơ tái phát và
khoảng 10% phải phẫu thuật cắt tử cung sau khi bóc nhân xơ. Bệnh nhân nên
được tư vấn có thể cắt tử cung khi phẫu thuật bóc nhân xơ. Tuy nhiên, có tài liệu
ghi nhận rằng khoảng 50% có tái phát u xơ tử cung và khoảng 1/3 cần phải phẫu
thuật. Sử dụng chất đồng vận GnRh có thể làm mất ranh giới của nhân xơ và vì
vậy sẽ khó khăn trong phẫu thuật bóc nhân xơ [4]
5.3.4. Bóc nhân xơ qua nội soi
- Nguy cơ tái phát u xơ tử cung cao trong những trường hợp bóc nhân xơ qua nội
soi, 33% tái phát trong vòng 27 tháng. Trong một nghiên cứu khoảng 500 người
phụ nữ có khối nhân xơ có kích thước 1 – 17 cm, so với bóc nhân xơ qua mở
bụng lớn, bóc nhân xơ qua nội soi ổ bụng sẽ giúp bệnh nhân phục hồi nhanh hơn.
Tuy nhiên, khi bóc nhân xơ qua nội soi khả năng khâu các lớp cơ trong tử cung
21
khơng đều bằng bóc nhân xơ qua ngả bụng. Vỡ tử cung trong những trường hợp
có thai trên tử cung có sẹo bóc nhân xơ cũng đã xảy ra.
5.4. Thuyên tắc động mạch tử cung [24]
Hình ảnh thuyên tắc động mạch tử cung
- Lời khuyên cấp độ B: những bệnh nhân có u xơ tử cung có triệu chứng muốn
được thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung thì nên được khuyến cáo rằng
những nghiên cứu lâu dài về thuyên tắc động mạch tử cung hiện chưa có.
- Lời khuyên cấp độ A: thuyên tắc động mạch tử cung chỉ thực hiện ở những
trường hợp có u xơ tử cung có triệu chứng và bệnh nhân mong muốn có phương
pháp điều trị khác ngoài phẫu thuật cắt tử cung.
- Lời khuyên cấp độ C: nếu bệnh nhân mong muốn có con và chọn phương
pháp thuyên tắc động mạch tử cung thì nên khuyến cáo với bệnh nhân rằng,
những nghiên cứu về khả năng có con sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử
cung và biến chứng trong thai kỳ hiện này chưa có nhiều báo cáo.
- Lời khuyên cấp độ B: chống chỉ định thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung
trong những trường hợp bệnh nhân bị viêm nhiễm đường sinh dục tái phát nhiều
lần hoặc bệnh nhân có bệnh lý ác tính.
- Lời khun cấp độ C: những bệnh nhân muốn chọn lựa phương pháp thuyên
tắc động mạch tử cung thay cho cắt tử cung nên được khuyến cáo rằng thuyên
22
tắc động mạch tử cung cũng có những biến chứng nghiêm trọng cần phải cấp
cứu và có thể đe dọa cuộc sống (mặc dù tỷ lệ thấp).
- Lời khuyên cấp độ B: nhiễm trùng đường sinh dục là nguyên nhân có khả
năng gây tăng bệnh xuất và tử xuất sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử
cung. Cần có những nghiên cứu nhiều hơn về vấn đề sử dụng kháng sinh dự
phòng trước khi điều trị và giá trị của việc tầm soát nhiễm trùng trước khi thực
hiện thủ thuật.
- Lời khuyên cấp độ C: chỉ có những chuyên gia X quang hoặc những bác sĩ
phụ khoa có kinh nghiệm làm thuyên tắc động mạch tử cung mới nên thực hiện
thuyên tắc động mạch tử cung.
- Thuyên tắc động mạch tử cung là 1 thủ thuật ít xâm lấn hơn so với cắt tử cung
dùng để điều trị những trường hợp u xơ tử cung có triệu chứng. Phương pháp
này được thực hiện vào năm 1995 [24] [29]. Ngày này, phương pháp này ngày càng
phổ biến và trung bình có khoảng 25.000 trường hợp thực hiện thuyên tắc động
mạch tử cung mỗi năm.[24]
- Thuyên tắc động mạch tử cung được thực hiện đầu tiên bởi Ravina và cộng sự
ở những trường hợp có u xơ tử cung, mục đích thực hiện phương pháp này là
làm giảm lượng máu mất khi thực hiện phẫu thuật bóc nhân xơ. Vào khoảng năm
2001, có khoảng 10.000 trường hợp làm thuyên tắc động mạch tử cung tại Hoa
Kỳ. Revina cũng báo cáo một nghiên cứu bao gồm 16 bệnh nhân đã thực hiện
thuyên tắc động mạch tử cung để điều trị u xơ tử cung. Thời gian theo dõi trung
bình là 20 tháng, 14/16 bệnh nhân có cải thiện triệu chứng lâm sàng, có 2 bệnh
nhân sau khi tiến hành thuyên tắc động mạch tử cung lại cần phải phẫu thuật cắt
tử cung. Một báo cáo kinh nghiệm của Revina thực hiện thuyên tắc động mạch
tử cung trên 88 bệnh nhân bị u xơ tử cung, có 89% bệnh nhân cải thiện triệu
23
chứng rong kinh. Thuyên tắc động mạch tử cung làm giảm khoảng 69% kích
thước ban đầu của u xơ tử cung. Những nghiên cứu gần đây thực hiện trên 243
bệnh nhân bị u xơ tử cung được theo dõi từ 6 tháng tới 7 năm sau khi thực hiện
thuyên tắc động mạch tử cung, kết quả có khoảng 83% bệnh nhân cải thiện triệu
chứng xuất huyết âm đạo bất thường sau khi được thực hiện thuyên tắc động
mạch tử cung.
- Goodwin và cộng sự đã thực hiện 1 số trường hợp thuyên tắc động mạch tử
cung đầu tiên tại Hoa Kỳ. Từ những báo cáo đầu tiên của Goodwin thực hiện
trên 59 bệnh nhân, thời gian theo dõi trung bình sau khi thực hiện thuyên tắc
động mạch tử cung là 16.3 tháng. Có 89% trường hợp cải thiện đáng kể triệu
chứng lâm sàng và 92% giảm kích thước tử cung và giảm kích thước nhân xơ.
Kích thước trung bình của tử cung và của nhân xơ giảm khoảng 42,8% và
48,8%.
- Worthington-Kirsch và cộng sự báo cáo kinh nghiệm thực hiện thuyên tắc động
mạch tử cung trên 53 bệnh nhân vào năm 1998. Những bệnh nhân này có triệu
chứng rong kinh và có kích thước nhân xơ lớn, sau khi được làm thuyên tắc động
mạch tử cung tỷ lệ cải thiện triệu chứng là 88% và 94%. Thể tích khối nhân xơ
giảm trung bình là 46%. Trong nghiên cứu này, 94% bệnh nhân khi được hỏi
đồng ý sẽ chọn phương pháp thuyên tắc động mạch tử cung nếu phải thực hiện
lần nữa.
- Một nghiên cứu khác theo dõi 305 bệnh nhân sau khi thực hiện thuyên tắc động
mạch tử cung, Hutchins và Worthington-Kirsch báo cáo tỷ lệ cải thiện triệu
chứng xuất huyết âm đạo đáng kể (khoảng 92% bệnh nhân).
- Spies và cộng sự báo cáo kết quả của 61 bệnh nhân có u xơ tử cung gây triệu
chứng được thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung, thời gian theo dõi trung
24
bình là 16 tháng. Sau khi theo dõi khoảng 8.7 tháng, 89% bệnh nhân có cải thiện
triệu chứng xuất huyết âm đạo bất thường. Chín mươi sáu phần trăm (96%) bệnh
nhân cải thiện triệu chứng nặng vùng chậu. Sau 1 năm thực hiện thuyên tắc động
mạch tử cung, thể tích tử cung giảm trung bình 48% và thể tích khối nhân xơ
giảm 78%. Các bệnh nhân đều có sự cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống.
Trong một nghiên cứu theo dõi liên tục, Spies và cộng sự báo cáo 169 bệnh nhân
với thời gian theo dõi trung bình là 11.7 tháng. Một năm sau khi thực hiện
thuyên tắc động mạch tử cung, bệnh nhân cải thiện tình trạng xuất huyết âm đạo
bất thường và nặng vùng chậu với tỷ lệ 86% và 88%. Thể tích tử cung cũng giảm
khoảng 35% và thể tích khối nhân xơ nhỏ khoảng 69% so với kích thước ban
đầu.
- Dựa trên những kết quả trên, tỷ lệ thành công sau thuyên tắc chiếm 81% - 96%.
Điều đó có nghĩa là khoảng 4% - 19% sẽ không thấy sự thay đổi đáng kể, mặc dù
hầu hết bệnh nhân nhận thấy rằng kích thước tử cung và nhân xơ tử cung đều
nhỏ lại.
- Spies và cộng sự làm thuyên tắc động mạch tử cung 200 trường hợp bệnh nhân
vào năm 2001. Sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung, bệnh nhân được
theo dõi bằng bảng câu hỏi và thời gian theo dõi là khoảng 2 tuần, 3 tháng và 12
tháng sau khi điều trị. Sau khi theo dõi khoảng 21 tháng, triệu chứng xuất huyết
âm đạo nặng cải thiện khoảng 87% bệnh nhân sau 3 tháng và khoảng 90% bệnh
nhân sau 1 năm điều trị. Những triệu chứng nặng có cải thiện sau 3 tháng điều trị
khoảng 87% và sau 1 năm điều trị khoảng 90%. Các tác giả kết luận rằng
‘thuyên tắc động mạch tử cung an toàn và hiệu quả trong việc cải thiện các triệu
chứng ở những bệnh nhân có khối u xơ tử cung’
25
- Một tổng kết sự thay đổi triệu chứng của điểm số ‘Triệu chứng của u xơ tử
cung và chất lượng cuộc sống’ (Uterine Fibroid Symptom and Quality of Life).
Kết quả cho thấy rằng có sự cải thiện đáng kể điểm số chất lượng cuộc sống
41,41 điểm (P = 0,001) khi so với lúc trước khi thực hiện thuyên tắc động mạch
tử cung, và chất lượng cuộc sống cũng cải thiện sau 3 năm tốt hợn sau 6 tháng
hoặc 1 năm. Điểm số triệu chứng lâm sàng không thay đổi đáng kể sau thời gian
theo dõi 2 năm và 3 năm. Sau 3 năm sự thay đổi điểm số chất lượng cuộc sống
không thay đổi đáng kể, tuy nhiên điểm số chất lượng cuộc sống tốt hơn so với
thời gian 6 tháng và 1 năm sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung.[13]
- Điều trị thất bại được định nghĩa như là triệu chứng lâm sàng không cải thiện
sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung cả hai động mạch tử cung.
Nguyên nhân dẫn đến thất bại của thuyên tắc động mạch tử cung là:
+ Thuyên tắc khơng hồn tồn.
+ Nhân xơ tử cung q to.
+ Bệnh nhân bị ung thư cơ tử cung.
+ Bệnh nhân bị lạc nội mạc trong cơ tử cung.
+ Còn tồn tại những mạch máu khác cung cấp cho khối nhân xơ (động
mạch buồng trứng, động mạch trong dây chằng tròn).
- Ở những bệnh nhân có khối nhân xơ to và bệnh nhân bị lạc nội mạc trong cơ tử
cung nên thơng báo với bệnh nhân là triệu chứng vẫn có thể còn tồn tại sau khi
thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung. Những trường hợp kích thước tử cung
khơng nhỏ lại sau khi thực hiện thuyên tắc động mạch tử cung cần nghĩ đến đây
là trường hợp ung thư cơ tử cung.
4.4.1. Những biến chứng sớm