Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tải Dàn ý phân tích Hai đứa trẻ - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.34 KB, 4 trang )

1. Dàn ý phân tích Hai đứa trẻ ngắn gọn
I. Mở bài: giới thiệu về tác phẩm Hai đứa trẻ
II. Thân bài: Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
1. Bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo
a. Bức tranh thiên nhiên
Một làng quê yên ả, thanh bình nhưng gợi buồn
Cảnh vật lúc chiều tối buông xuống hết sức thân thiết và gần gũi
b. Bức tranh sinh hoạt của con người
Cảnh chợ nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều
Cuộc sống của con người khốn khó và vơ cùng cơ cực
Cuộc sống của con người nơi đây nghèo nàn, khơng lối thốt
2. Cảnh đợi tàu:
a. Lí do đợi tàu:
Đợi tàu trở thành một công việc, một nhu cầu của con người nơi phố huyện nghèo
Đợi tàu thể hiện sự khát vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn, có một cuộc sống ấm no hơn
b. Hình ảnh đồn tàu:
Đồn tàu như biểu tượng của cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống đẹp đẽ hơn
Đoàn tàu mang một tia hi vọng, một chút mơ ước của con người nơi phố huyện nghèo
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về truyện ngắn Hai đứa trẻ

2. Dàn ý phân tích Hai đứa trẻ chi tiết
I. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đồn, ơng có thế
mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn.
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn phù hợp cho nhận định trên.
II. Thân bài: Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:
- Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên
- Âm thanh:
Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngồi đồng ruộng, tiếng muỗi vo


ve.
- Hình ảnh, màu sắc:
“Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
- Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.
- Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu
⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế
b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện


- Cảnh chợ tàn:
Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía.
- Con người:
Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tịi, nhặt nhạnh những thứ cịn sót lại ở chợ.
Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
Bác Siêu với gánh hàng phở - một thứ quà xa xỉ.
Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.
⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện
nghèo.
c. Tâm trạng của Liên
- Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
- Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:
Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.
Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm
được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên
⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lịng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật
mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình
2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya
a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

- Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:
“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
“Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng
sẫm đen hơn nữa”.
⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.
- Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sáng, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng… ⇒
ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.
- Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau
⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống
leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.
b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:
- Những cơng việc hằng ngày lặp đi lặp lại:
Chị Tí dọn hàng nước
Bác Siêu hàng phở thổi lửa.
Gia đình bác Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng
mấy tiếng đàn bần bật trong im lặng”
Liên, An trông coi cửa hàng tạp hố nhỏ xíu.
⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu khơng lối thốt.


- Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy
chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào.
- Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc
sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp
⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những
người nghèo khổ.
3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An
- Liên và An thức bởi:
Để bán hàng
Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua – hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:
Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”
Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.
- Khi tàu đến:
Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính
sáng.
- Khi tàu đi vào đêm tối:
Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.
Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
⇒ Đồn tàu xuất hiện với âm thanh sơi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo
một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên ln mong ước.
III. Kết bài: Cảm nhận về truyện ngắn Hai đứa trẻ
Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn
Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp
hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

3. Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất,
trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ơng, đời
khơng chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà cịn có cả những
nỗi đau. Ngịi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn
con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ)
mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.
Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tàu của
chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan tỏa, bao trùm lên cảnh
vật, tạo nên bầu khơng khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu đen
xám xịt. Bóng tối ở rặng tre, bóng tối ở góc qn, bóng tối ở ánh sáng lập lịe của đom đóm.
Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung
túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút, lẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó

vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng lúc vào đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng
quán hàng xén vốn đã vắng khách. Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh... Những hình ảnh
lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan tỏa


đang dần đè lên cuộc sống của họ - những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu
ngón tay "mấy chú", "mấy người". Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im
lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đến lạ kì. Khơng
gian bị uất nghẹn của kiếp người. Bức tranh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
Nhưng Thạch Lam - người nghệ sĩ của tâm hồn ấy khơng dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng
tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố cịn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ tồn
những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà
cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu... Những
mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một
sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên khơng ngối lại cùng
biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện
đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.
Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một cơng việc
nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ
thêm tù túng, ngột ngạt, khơng có lối thốt, khơng biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường
như khơng có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh
cửa. Họ khơng hi vọng điều gì, khơng ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực,
tù túng cùng những cơng việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn
độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà khơng có lời giải đáp.
Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và
nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng khơng nhàm chán. Con tàu là hiện
thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó
khơng phải chỉ để bn bán mà cịn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh
vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu khơng khí vốn đã u uất nặng nề,
với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị

em Liên, con tàu cịn là hiện thân của q khứ huy hồng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là
chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm
giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ - một ước mơ hết sức tội nghiệp
cho mỗi con người.
Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch
Lam lại gắn chặt ngịi bút với đời sống, dù ơng là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu
đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xơ bồ (Hồn bướm mơ
tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng...) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương
Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng
những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự
xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng
nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột,
cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam
Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc
sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời,
đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.
Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng
với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương khơng phải là một cách để thốt
li hay lãng qn, mà trái lại, văn chương "phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực", là
tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những
nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi
xúc động đối với người đọc.



×