Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.7 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài : Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ
cuối năm 1920 đến đầu năm 1930

1


MỤC LỤC
Mở đầu......................................................................................................................6
Nội dung....................................................................................................................7
Chương 1. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu
năm 1930..................................................................................................................7
Chương 2. Hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu năm
1930..........................................................................................................................9
Chương 3. Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong giai đoạn
từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930....................................................................15
3.1.Con đường cách mạng Việt Nam (cách mạng vô sản)..................................... 15
3.2. Mục tiêu............................................................................................................16
3.3. Đối tượng..........................................................................................................16
3.4. Lực lượng lãnh đạo...........................................................................................17
3.5. Lực lượng tham gia...........................................................................................18
3.6. Mối quan hệ giữa cách mạng VN với cách mạng thế giới...............................21
Kết luận..................................................................................................................23
Tài liệu tham khảo.................................................................................................24

2



MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã được
thực hiện từ rất lâu bởi các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước. Trong q trình nghiên
cứu ấy, các nhà lý luận một mặt làm rõ khái niệm, các nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Mặt khác cịn chia sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh thành
các giai đoạn khác nhau. Việc phân các giai đoạn như vậy để ta hiểu sâu sắc hơn các mốc
phát triển quan trọng, nắm được nội dung tư tưởng quan trọng trong thời kỳ đó. Đó khơng
phải sự phân chia đứt đoạn bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là nhất quán có kế thừa, phát triển,
loại bỏ những quan điểm khơng phù hợp, có những luận điểm tư tưởng của Người được
hình thành, bổ sung suốt đời. Trên cơ sở phân tích ta có thể phân chia sự hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh thành năm giai đoạn.
Để lý giải cho câu hỏi “ Trong các thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đâu là thời
kỳ hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam” thì
nhóm 1 đã lựa chọn phân tích đề tài “Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí
Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930” để trả lời câu hỏi trên.
Cùng với sự nghiêm túc trong hoạt động thảo luận và sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng
viên Ngơ Thị Minh Nguyệt, nhóm 1 đã hoàn thành bài thảo luận. Mặc dù vậy, nhóm 1
khơng thể tránh khỏi những sai sót nên mong nhận được nhận xét và góp ý của độc giả để
bài thảo luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu

năm 1930
Thời kỳ từ cuối năm 1920-đầu năm 1930 đã có những sự kiện lớn:



Thời kỳ ở Pháp:
Vào tháng 7 năm 1920,Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’Humanité (tờ này là cơ quan
phát ngôn của Đảng Cộng Sản Pháp), từ đó Bác đi theo chủ nghĩa cộng sản.Nguyễn Ái
Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp tại Tours với tư cách đại biểu
Đông Dương, trở thành một trong những sáng lập viên của đảng cộng sản Pháp. Sau này
Bác thừa nhận “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa u nước chứ khơng phải chủ nghĩa cộng sản
đã làm tôi tin theo Lenin, tin theo Quốc tế III”. Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp họp tại Tour vào cuối tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc Đã bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp và trở thành người
Cộng Sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính
trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng Sản.
Năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội
Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale- Association des indigènes de toutes les
colonies) với mục đích đồn kết lực lượng chống chủ nghĩa thực dân, thơng qua tổ chức
đó truyền bá chủ nghĩa Mác Lenin đến các dân tộc thuộc địa.
Năm 1923,với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Người ra tranh cử vào Hạ viện
Pháp nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc hội đó, Đảng Cộng sản
Pháp giành đươc tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng
Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội.



Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất:
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế Cộng Sản, phụ trách Cục Phương Nam. Trong Tham luận trình bày tại
Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng Sản(1924),Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự to lớn của
hệ thống thuộc địa: “ Năm 1876: 1/4 tỷ dân người thuộc địa thì năm 1915: ½ tỷ dân thuộc

địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính
quốc, cịn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa
Anh đông gấp 8,5 lần số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh…”
4


Ngày 23/6/1924, phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội 5, Nguyễn Ái Quốc nói “ Tơi đến
đây khơng ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là : thuộc địa vẫn đang tồn tại,
và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: cách mạng, ngồi vấn đề của các thuộc địa cịn
có nguy cơ của các thuộc địa. Song, Tơi thấy rằng hình như các đồng chí chưa hồn tồn
thấm nhuần tư tưởng rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức bóc lột ở các thuộc địa. Vì vậy,Tơi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, gợi ra
những vấn đề và nếu cần, tơi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”.


Thời kỳ ở Trung Quốc(1924-1927)
Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm
phiên dịch rong phái đồn cố vấn của chính phủ Liên Xơ bên cạnh Chính phủ Trung Hoa
Dân quốc. Thời gian này, Người cũng gặp một số nhà cách mạng lão thành người Việt
sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu.
Năm 1925, Bác (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm
tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên
Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi
là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6, mục đích của hội đó là tổ chức, đoàn
kết, lãnh đạo nhân dan đánh đổi đế quốc và tay sai, mở các lớp huấn luyện cán bộ cách
mạng. Sau đó đưa cán bộ về hoạt động trong nước. Cũng trong năm đó Người ra Báo
Thanh Niên, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa MácLênin về Việt Nam. Tất cả các sách báo trên được bí mật truyền về trong nước. Đây là
bước chuẩn bị quan trọng về tư tưởng cho sự thành lập của Đảng sau này.
Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. Cho

tới năm 1927, Hội mở được 3 khóa gần 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 Hội viên, mỗi khóa
chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ
giảng. Việc làm quan trọng nhất của Hội trong thời gian này là cử được người đi học tại
Đại học Phương Đơng (Liên Xơ) và Trường Qn chính Hồng Phố của Quốc dân Đảng
Trung Quốc.
Cùng năm 1925, Bác tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do
Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tơn Dật Tiên, làm hội trưởng và ơng làm bí
thư.
Tháng 5/1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, đặt những người cộng sản ra ngồi
vịng pháp luật, Bác tới Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11/1927,
Bác được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến
tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ. Sau
đó Bác cũng qua Ý.
5




Những năm 1928-1930
Mùa thu năm 1928, Hồ Chí Minh từ Châu Âu qua Thái Lan , với bí danh Thầu Chín trong
tiếng Thái và tiếng Lào, “thầu” chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tơn kính để tun
truyền và huấn luyện cho Việt Kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam
sang Thái Lan hoạt động. Theo Bác Hồ-hồ ký, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì khi đó có
khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan kiêm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống
khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm
năm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vịng mấy chục năm. Ngơ Quảng,
Thần Sơn, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính,.. đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không
ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt Kiều cả.
Cuối năm 1929, Hồ Chí Minh rời Thái Lan, theo ngả Singapore để sang Trung Quốc, triệu
tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng (đầu năm 1930).

Năm 1930: Phong trào Cách mạng Việt Nam phát triển mau chóng, hình thành phát
triển trong nước 3 tổ chức cộng sản hoạt động độc lập là Đông Dương Cộng sản Đảng,
An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành một Đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến
hành giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Một yêu cầu khách quan đặt ra phải thống nhất các tổ chức làm một.
Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị Hợp
nhất các tổ chức cộng sản sáng lập lên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình
lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài.
CHƯƠNG II: Hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu

năm 1930
Sau bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập trường cách mạng vô sản ở
giai đoạn giữa năm 1911- cuối năm 1920 thì đến giai đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm
1930 lại hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam. Đây là thời
kì mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước được cụ
thể hóa.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực sử dụng báo chí Pháp lên án chủ nghĩa thực dân Pháp,
thức tỉnh lương tri nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ, khơi dậy lòng yêu nước của nhân

dân các dân tộc thuộc địa, dân tộc Việt Nam.
Đầu thời kỳ này, Hồ chủ tịch có rất nhiều bài báo nổi bật, đáng chú ý như: Bản án chế độ
thực dân Pháp, Đường cách mệnh,Cương lĩnh đầu tiên của Đảng,.....
Đầu tiên là tác phẩm Vấn đề dân bản xứ, báo L’Humanité 18-6 đã đăng văn bản thỉnh cầu
của những người An Nam gửi Hội nghị Hịa Bình địi ân xá cho tất cả các tù chính trị
người bản xứ, địi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho
người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự do báo chí,tự do hội họp và lập hội, tự do
dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật. Chúng tơi chỉ có thể coi các
u sách đúng đắn đó cũng là của chính mình, trong thời đại mà ý muốn của nhân dân là
nắm quyền tự quyết. Nước Pháp đã từng bắt đầu đánh chiếm Đông Dương gần như cùng
thời gian mà nước Nhật đi những bước đầu tiên trong cuộc cải cách nổi tiếng năm 1868.
Nhưng trong khoảng một nửa thế kỷ, nước Nhật đã biết tạo lập được một chế độ đưa nó
vào hạng những cường quốc đứng đầu thế giới cịn nước Pháp thì phải nói rằng vẫn đang
mị mẫm trong chính sách Đơng Dương của mình.Vì lẽ từ khi bị Pháp chiếm, đất nước
chúng tôi hầu như luôn luôn sống lay lắt ngày này qua ngày khác,không hề biết chính
quyền muốn dẫn mình đi đến đâu, chính quyền này khi thì nói về chính sách đồng hóa,
khi thì nói về chính sách liên hiệp hoặc gì khác nữa, nhưng thật ra chẳng áp dụng một
chính sách nào cả. Về mặt hành chính và pháp lý, cả một vực thẳm cách biệt người Âu
với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối cịn
người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, khơng
được kêu ca vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc
là một tên cách mạng, và bị đối xử đúng với tội trạng ấy. Càng khốn khổ hơn cho người
bản xứ nào xuất ngoại để thoát khỏi cái chế độ dịu hiền ấy: gia quyến anh ta bị hành hạ,
bản thân anh ta nếu bị bắt thì bị tù khổ sai hoặc bị đẩy lên máy chém. Cịn cơng lý, đối
với người bản xứ, nó tồn tại như thế này đây: người Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc
cưỡng dâm người bản xứ,thì trong trường hợp vụ án khơng thể được ỉm hồn tồn, anh ta
chắc mẩm rằng mình được tồ án tha bổng, mình ra tồ chẳng qua là chuyện hình thức.
Đó là việc áp dụng ngun tắc nhằm bảo tồn bằng mọi cách uy tín của người da trắng
trước bọn da vàng. Sự ngự trị của bạo chính, ở các tỉnh, người bản xứ bị trói tay trói chân,
phải gánh chịu thói tuỳ hứng, chuyên quyền của các quan cai trị người Pháp và thói tham

tàn của bọn làm tơi tớ ngoan ngỗn cho chúng,cơng lý bị bán đứt cho kẻ nào mua đắt
nhất, trả giá hời nhất.
Tiếp đến là báo L’Humanité tháng 8 năm 1919 và 4 tháng 11 năm 1920 viết về Machine
infernale- máy ma quái nổ có thể gây tử vong, đã từng được bố trí để ám sát Bơnapáctơ.
May thay, Bơnapáctơ thốt nạn và biết rõ thủ phạm. Tuy vậy, ông khéo thừa cơ hạ lệnh
đày 138 người vơ tội, có hành vi khơng tán thành chính sách của ơng...
7


Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Người được bầu là
Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu vấn đề dân tộc thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, sáng lập
báo Le Paria bằng tiếng Pháp, tên tiếng Việt là Người cùng khổ. Số đầu tiên ra ngày 1-41922, Người cùng khổ đã đăng lời nói đầu tuyên bố rằng báo này"là vũ khí để chiến đấu,
sứ mạng của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người". Tờ báo đã tồn tại cho tới năm 1926
và tổng cộng xuất bản được 38 số với nội dung chống chủ nghĩa thực dân, kêu gọi đoàn
kết các dân tộc thuộc địa, thức tỉnh tinh thần giải phóng dân tộc của nhân dân các nước
thuộc địa.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn cụ thể hóa phân tích sâu sắc bản chất,thủ đoạn của chủ nghĩa
thực dân Pháp trong nhiều bài báo được đăng trên các báo của Đảng Cộng sản Pháp,Liên
Xô,quốc tế Cộng sản. Nổi bật là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiếng
Pháp của Người được xuất bản ở Pari năm 1925. Tác phẩm gồm 12 chương tố cáo thực
dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc để "phơi thây trên
chiến trường châu Âu", "đày đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa, các thống sứ, quan lại thực
dân "độc ác như một bầy thú dữ". Tác phẩm được cho là đã hướng các dân tộc bị áp bức
đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga,đề ra cho dân Việt Nam con đường đấu
tranh giải phóng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản án chế độ thực dân Pháp làm rõ mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc, khẳng
định cách mạng thuộc địa là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế
giới. Luận điểm ấy được diễn đạt rất sinh động: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản
ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người

ta chỉ cắt một vòi thơi, thì cái vịi cịn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con
vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra". Khối liên minh của các dân tộc
thuộc địa phương Đông "sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản". Người
không chỉ nêu rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng thuộc địa, cách mạng vơ sản ở
chính quốc, mà cịn chỉ rõ nhiệm vụ của giai cấp vơ sản ở chính quốc là phải đoàn kết,
ủng hộ triệt để cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc
địa khơng phải chỉ bằng lời nói mà phải bằng hành động cách mạng cùng nhau tiêu diệt
kẻ thù chung. Bản án chế độ thực dân Pháp vạch rõ đối tượng cách mạng, lực lượng cách
mạng và giai cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc,đặt rõ vấn đề giành độc lập dân
tộc phải đi đôi với sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, khẳng định sự nghiệp đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc là sự nghiệp của quần chúng nhân dân ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc,cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của Cách
mạng Tháng Mười Nga, đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản.
Một trong những tác phẩm nổi bật nữa của chủ tịch Hồ Chí Minh là Đường kách mệnh,
được chuẩn bị vào những năm 1925-1926, xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt
động đầy sôi nổi và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc
8


đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước,
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm
là mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ
chức và hướng dẫn lớp học. Thời gian từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ
chức được ba lớp đào tạo với tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu
chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái
Quốc tại các lớp học tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Đông tập hợp lại và xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh.
Sách có khổ 13 x 18cm, in trên giấy nến, kiểu chữ viết thường. Tư tưởng chủ đạo xuyên
suốt của tác phẩm là giáo dục lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tổng kết thực tiễn

phong trào cách mạng trong nước và quốc tế, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống
những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối
cách mạng Việt Nam.
Trước hết về nội dung Trên tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là câu trích trong tác
phẩm Làm gì? của V.I.Lênin, khẳng định vai trị và tầm quan trọng của lý luận đối với sự
phát triển của phong trào cách mạng nói chung: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng
có cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới
làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái
Quốc nêu rõ: “Mục đích sách này là để soi cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta
muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho
chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là
thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?”. Để rồi đạt đến mục đích cao nhất là: “đồng
bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì đứng lên đồn kết nhau mà
làm cách mệnh”. Đường kách mệnh xác định chuẩn mục đạo đức của những người cách
mạng, những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp gian khổ, hy sinh, nhưng vẻ vang
của dân tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu thể hiện một quan niệm trở thành triết lý
nhân sinh: Lý luận cách mạng hàm chứa các giá trị nhân văn cao cả,cách mạng là sự
nghiệp hào hùng, oanh liệt, vẻ vang, người cách mạng phải có nhân cách, đạo đức và
phẩm hạnh mới tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm trịn nhiệm vụ cách mạng
khó khăn.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản của một con
người. “Đối với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần kiệm. Hồ mà khơng tư. Cả quyết sửa lỗi
mình. Cẩn thận mà khơng nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Hay nghiên cứu, xem xét. Vị
công vong tư. Khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho
vững. Hy sinh. Ít lịng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối với người, có 5 chuẩn mực: Với
từng người thì khoan thứ. Với đồn thể thì nghiêm. Có lịng bày vẽ cho người. Trực mà
9



không táo bạo. Hay xem xét người. Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem xét hồn
cảnh kỹ càng. Quyết đốn. Dũng cảm. Phục tùng đồn thể” . Những phẩm chất này làm
thành các giá trị về nhân cách con người, nhân cách làm người- Một mẫu người mới đang
định hình và xuất hiện trong phong trào cách mạng của dân tộc.Tác phẩm giải quyết các
vấn đề về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, các loại cách mạng và vai trị của nó trong
lịch sử. Về Đảng chính trị, Đường kách mệnh xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản là
nhân tố quyết định sự thành công của cách mệnh. Người viết: “Cách mệnh trước hết phải
có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách
mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Luận điểm này của Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định một vấn đề có tính ngun tắc, đặt nền móng lâu dài cho cơng tác
xây dựng đảng về tư tưởng – lý luận. Đường kách mệnh chỉ rõ cách mệnh là sự nghiệp
của tồn dân tộc chứ khơng phải của một vài cá nhân. Lần đầu tiên trong tác phẩm này,
Nguyễn Ái Quốc đã xác định khái niệm lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, khoa
học dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng
bền,chí cách mệnh càng quyết”.
Tháng 6-1925, Hồ Chí Minh sáng lập Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng và ra báo
“Thanh niên” bằng Tiếng Việt, từng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận cách
mạng trong những người u nước và cơng nhân.
Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Việt Nam, thông qua các văn kiện - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các văn kiện này chính thức khẳng định rõ những quan điểm cơ bản về đường
lối, phương pháp cách mạng Việt Nam, việc tổ chức, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
thành một tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cụ thể, về đường lối chiến lược là “làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh
xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân

tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ
chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu
cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân) là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan
hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt
chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
10


Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền
công dân. Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính
trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tư
tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực
lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được
Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do cơng nơng làm nịng
cốt. Chủ nghĩa u nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ. Hiện nay,
khi tình hình Biển Đơng khơng bình n, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao giờ
hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế là yếu tố quyết định
để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của
Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các
văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ
chức ra để dìu dắt giai cấp vơ sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng tồn
thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện
xã hội cộng sản”.

Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam
được hồn tồn độc lập, dựng ra Chính phủ cơng-nơng-binh và tổ chức quân đội công
nông. Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
mới, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm
tám giờ. Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo
dục theo hướng cơng nơng hóa. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại
bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo
nông dân làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng... đi vào phe
vơ sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã
ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương đúng đắn và sáng tạo theo con
đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng
yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh
thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành
chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
11


Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng lãnh
đạo, tập hợp xung quanh mình tồn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân
ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị
cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng
củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt
toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh.
Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng thực hiện nhiệm
vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm,
khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan. Do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực cịn hạn chế, khơng ít vấn đề lý luận và
thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ, nhưng điều quan trọng là Đảng ta đã nhận ra, thẳng thắn tự
phê bình và nghiêm túc sửa chữa, khắc phục có kết quả. Và qua mỗi vấp váp, sai lầm
Đảng thêm trưởng thành.
Hồ Chí Minh thành lập Đảng cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn,sáng
tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam
kéo dài suốt từ cuối thể kỷ XIX sang đầu năm 1930. Những tác phẩm có tính chất lý luận
của chủ tịch Hồ Chí Minh thì chứa đựng rất nhiều ý nghĩa to lớn. Tuy nhiên, cách mạng
muốn thành công phải do Đảng lãnh đạo, nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa MácLênin và phải có một đội ngũ sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích
và sự tồn vong của dân tộc, vì lí tưởng giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân loại.
CHƯƠNG III: Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong giai

đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930:
3.1. Con đường cách mạng Việt Nam:
Hồ Chí Minh thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than của người dân Việt Nam dưới chế độ
thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết
định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là xố bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho tất cả
mọi người. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên là đất nước phải giành được độc lập. Đó là ước
nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện của nhân dân Việt Nam.
Người nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Nhận thức được rằng cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này
12



bằng chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ khơng xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người
cho rằng đó là những cuộc cách mạng “khơng đến nơi, khơng triệt để”. Do đó, cứu nước
theo ngọn cờ của giai cấp tư sản khơng phải lối thốt cho dân tộc. Trong nhận thức của
Hồ Chí Minh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành cơng đến nơi, nhân dân
lao động đã được giải phóng và được làm chủ vận mệnh của đất nước. Người đã nhận
định: “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, khơng phải tự do
và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Khi ở
Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội nghị Véc-Xây (18-6-1919) bản yêu sách của nhân
dân An Nam địi quyền bình đẳng cho dân tộc mình. Bản u sách khơng được chấp nhận,
Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, làm cách mạng;
muốn giải phóng dân tộc trước tiên phải từ chính mình. Năm 1920, tại Đại hội lần thứ
XVIII Đảng Xã hội Pháp, Người đã tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp. “Từ một người yêu nước tiến bộ, Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin,
trở thành “người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”. Điều này phù hợp với mục tiêu của cách
mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh coi độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và là điều kiện tiên
quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người, là điều kiện để dân tộc Việt Nam được
quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới. Từ đó, Người khẳng định:
“muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản” . Đó là con đường cách mạng dân chủ do đảng tiên phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo, nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực
hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng XHCN. Đó là đường lối giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH; kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng con người.
3.2. Mục tiêu:
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam – một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có cơng nhân, nơng dân với
đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của

cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo
con đường cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn với giải phóng nhân dân lao
động, giải phóng giai cấp cơng nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu cấp thiết giải pháp dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu
nước, với nhãn quan chính trị sắc bén thì Người đã ra nước ngồi tìm nước cứu nước và
13


năm 1919, Người đã tham gia Đảng Xã hội Pháp vì đây là một chính đảng tiến bộ nhất lúc
đó ở Pháp bênh vực các nước thuộc địa ở Pháp mặc dù vào thời điểm đó, Người đã từng
thổ lộ rằng chưa có nhận thức rõ ràng về Chủ nghĩa Mác-Lênin, về Chủ nghĩa xã hội. Vào
tháng 7/1920, một sự kiện có thể coi là bước ngoặt đối với Hồ Chí Minh, khi lần đầu tiên
Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về dân tộc và vấn đề về thuộc địa
của V.I.Lênin. Những lập luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng
sản về giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc ủng hộ Quốc tế III
và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở thành người Cộng sản Việt Nam
đầu tiên và bước đi từ Chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ đó, Người khẳng định: “ Muốn giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là
con đường cách mạng vơ sản”. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục hoàn
thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản và tích cực truyền bá chủ nghĩa MácLênin về Việt Nam.
3.3. Đối tượng:
Đối tượng cách mạng là lật đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản
cách mạng. Người viết nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối quan hệ
mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Khẳng định cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Bản chất của chủ nghĩa thực dân là "ăn cướp" và "giết người". Vì vậy, chủ nghĩa thực dân
là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động

tồn thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô
sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền
với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp cơng nhân.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc có mối quan
hệ khăng khít với nhau, nhưng khơng phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc
có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc. Ở đây, Nguyễn Ái
Quốc muốn nhấn mạnh vai trị tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc
đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.

14


Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc "dân tộc cách mệnh", đánh đuổi bọn ngoại
xâm, giành độc lập, tự do.
Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế
quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được
thắng lợi cần phải thu phục, lơi cn được nịng dân đi theo, cẩn xây dựng khối công
nông liên minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu hút, tập hợp rộng
rãi các giai tầng xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
Cách mạng muốn thành cơng trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì lý tưởng
của Đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân
và nhân loại.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài
người. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ
thấp lên cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc về nghệ thuật vận
động quần chúng và tiến hành đấu tranh cách mạng.
Những quan điểm cách mạng trên đây của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của thế
kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm của Người, cùng các tài liệu mácxít khác, theo

những đường dây bí mật được truyền về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt
Nam, tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong trào dân tộc phát
triển theo xu hướng mới của thời đại.
3.4. Lực lượng lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao
phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến,
giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường
lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại
không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác
về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt
Nam cần một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham
mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.

15


Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của
dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản
Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ
phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ

nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời
kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng
lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hồ bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong
hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến
hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành
chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh
xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền
"đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh
đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải
phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu
tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải
phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt Nam
thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân
còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi
mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực:
Kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định
tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng
nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch
16


điên cuồng chống phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên

tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội;
đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn
định; lịng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố, vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao.
3.5. Lực lượng tham gia
* Toàn dân tộc
Thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc
theo phương châm “đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết, thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng” để giành lại và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới. Điều đó bắt nguồn
từ sự phân tích rõ thực trạng xã hội Việt Nam, giải quyết chính xác mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Kế thừa tư tưởng các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân là có tất cả,
trên đời này khơng có gì q bằng dân, được lịng dân thì được tất cả, mất lịng dân thì
mất tất cả. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên lạc
với tiểu tư sản, tri thức, trung nông... để lôi kéo họ về phía vơ sản giai cấp; cịn đối với
phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập.
Để thực hiện luận điểm này, Hồ Chí Minh đã tiến hành đồng thời hai hoạt động chính.
Một mặt, tìm mọi khả năng để quy tụ toàn thể nhân dân thuộc mọi giai cấp, tầng lớp trong
xã hội có lịng u nước, thương nịi vào một mặt trận rộng lớn; phê phán quan điểm giai
cấp cực đoan, biệt phái, có hại cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác, đề ra
phương thức giải quyết từng bước mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội Việt Nam, chủ
yếu là giữa nông dân với địa chủ, bằng những biện pháp thích hợp, như hiến điền, giảm
tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất…, để tăng cường sức dân và không phá vỡ mặt trận đoàn
kết toàn dân tộc.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (12-1946), Người viết: “Bất kỳ đàn , đàn bà,
bất kỳ người , người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng ta
đã quyết tụ được lực lượng cách mạng của toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch giành
thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc và làm
thất bại mọi âm mưu, chính sách chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch ở trong và ngoài
nước.
17


* Lực lượng chủ đạo
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước ở chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng
cách mạng. Người xác định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường
cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân (GCCN) mà đội tiên phong là
Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh xác định GCCN là giai cấp tiến bộ nhất, cách mạng nhất, là
giai cấp lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo khối liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức.
Người khẳng định rõ: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng
thế giới”.
Giai cấp công nhân có vị trí trung tâm trong xã hội bởi là giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thơng qua Đảng của mình lãnh
đạo cách mạng và tồn xã hội. Song để hồn thành được sứ mệnh đó, giai cấp công nhân
cần lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc đứng lên làm
cách mạng. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng cách mạng. “Đảng đề ra chủ
trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu
tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia
cách mạng và vơ sản hố. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng
phát triển. Mai sau công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số cơng nhân ngày càng
tăng thêm”.
Giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng đơng đảo nhất trong xã hội, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ

lực của cách mạng”. Người chỉ rõ: Giai cấp nơng dân, trong đó bần nông và trung nông là
đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới. Ở nông thôn, bần nông
là lớp người đông nhất và nghèo khổ nhất. Họ bị địa chủ phong kiến bóc lột tàn tệ. Bần
nông hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng và rất mong muốn thực hiện chính sách
dân cày có ruộng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân. Trung
nông là lớp người mình cày ruộng của mình, cũng khơng phải làm th cho ai. Họ cũng bị
địa chủ, bọn cho vay nặng lãi và bọn đế quốc áp bức bóc lột. Thực hiện chính sách “dân
cày có ruộng” thì họ cũng có lợi. Cho nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách
mạng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc chắn của giai cấp công nhân.
Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp nông dân là quân chủ lực của
cách mạng, vì họ là lớp người đơng nhất trong nhân dân. Hồ Chí Minh xác định: “Trong
điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn
đề nơng dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công
nhân lãnh đạo”. Nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng. Tuy vậy, họ khơng thể là lực
lượng lãnh đạo cách mạng vì họ không gắn liền với một phương thức sản xuất mới và
18


khơng có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng khơng có khả năng tự xây dựng một chế độ xã hội
mới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì hồn cảnh kinh tế lạc hậu, mà nơng dân thường có tính thủ
cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ, và
lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất to lớn vững chắc. Thế là công nông liên minh”.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, liên minh cơng nơng là hình thức hợp tác giai
cấp đặc biệt giữa hai giai cấp lao động trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ tư bản
chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời và củng cố liên minh
này bắt nguồn từ lợi ích căn bản của những giai cấp kể trên và là vấn đề mang tính quy
luật khách quan của lịch sử.
Chính vì vây, mà Đảng ta đã xác định liên minh công nông là vấn đề chiến lược của cách
mạng. Đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Khối công nông liên minh là một nhiệm vụ chiến
lược vơ cùng quan trọng. Vì cơng nơng liên minh là lực lượng tích cực của cách mạng ”.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn đã khái qt thành nhiều luận điểm
có tính chân lý về vai trị của liên minh cơng nơng và đại đồn kết dân tộc. Liên minh
cơng nơng nói riêng và đại đồn kết dân tộc nói chung xuất phát từ nhu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành và vì lợi ích của quần chúng.
Liên minh cơng nơng là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn
bộ đường lối của Đảng ta. Trong từng giai đoạn của cách mạng, trước những yêu cầu
nhiệm vụ khác nhau, nội dung liên minh có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng liên minh
cơng nơng là vấn đề sống cịn của cách mạng, là chiến lược của Đảng Cộng sản nói chung
và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Dưới lá cơ vẻ vang
của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới”, đồng
chí Lê Duẩn đã khẳng định: “Là một nguyên tắc chiến lược của Chủ nghĩa Mác- Lênin,
một tất yếu phổ biến đối với tất cả các cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, vấn
đề liên minh công nông càng có tầm quan trọng đặc biệt với một nước như nước ta”.
3.6. Mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Thế giới
Ra đi tìm đường cứu nước, trở thành nhà hoạt động cách mạng thế giới, đảng viên
Đảng Cộng sản Pháp, cán bộ của Quốc tế Cộng sản, từ rất sớm đã hình thành trong tư
tưởng Hồ Chí Minh quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Người đã
có ý thức sâu sắc về việc đặt cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới khi
tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để tập hợp các dân tộc thuộc địa
trên thế giới thành một khối sức mạnh thống nhất chống chủ nghĩa thực dân. Cách mạng
thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc có quan hệ khăng khít với nhau. Nhưng cách
mạng thuộc địa khơng lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính chủ động, độc lập.
Cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở
chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc hoàn
thành. Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng quốc tế, song phải nêu cao tinh thần
tự lực tự cường. Nhân dân Việt Nam hồn tồn có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà
19


giải phóng cho ta, khơng ỷ lại chờ cách mạng chính quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận

ra sức mạnh của thời đại thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đó là sức
mạnh của giai cấp vơ sản thế giới, trong đó có giai cấp vơ sản đã giành được chính quyền
ở một nước lớn là nước Nga xô viết, của nhân dân lao động thế giới đấu tranh vì độc lập
dân tộc, hịa bình và tiến bộ xã hội. Đó là cơ sở để Người tiếp tục khẳng định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và trong sự nghiệp cách mạng của Đảng,
ngoài chủ trương dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, phải đồng thời phải khai thác
sức mạnh của thời đại.
Tinh thần quốc tế vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong khẩu hiệu “bốn
phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân
tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên thế giới vì
hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Đó là sự kết hợp chủ nghĩa quốc tế vô sản với chủ
nghĩa u nước chân chính. Với Người, phải thơng qua thắng lợi của cách mạng mỗi nước
mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, độc lập dân tộc cho mình, đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc của tư tưởng Hồ
Chí Minh
KẾT LUẬN
Như vậy, với 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải
phóng dân tộc trong nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sơi nổi. Được sự giúp
đỡ nhiệt tình của các đồng chí, bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các quy luật vận
động và phát triển của phong trào cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận
với ánh sáng Chủ nghĩa Mác – Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại
của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện
thực sinh động đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ sung phát triển lý luận, tư
tưởng cách mạng. Từ những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 đã hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về
cách mạng.Vận dụng, sáng tạo và phát triển quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về lý luận gắn với thực tiễn nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực

trong việc nghiên cứu, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống. Người đi từ người yêu nước chân chính đến người cộng sản. Trong quá
trình ấy, các tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát
triển. Những tư tưởng ấy được chính Người vận dụng và rèn giũa, trong đó có rất nhiều
điểm sáng tạo với Chủ nghĩa Mác Lênin. Và ngày nay, sau gần một thế kỷ, những tư
20


tưởng ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp. Tuy nhiên, sự phát triển biện
chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi chúng ta cần tiếp
tục nghiên cứu làm rõ đồng thời bổ sung phát triển thêm những nội dung tư tưởng mới
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang thay đổi từng ngày từng giờ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Mạch Quang Thắng (2009): Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch/Trần Dân tiên. Nxb trẻ 2002.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam/Đại tướng Võ Nguyên Giáo
Chủ biên. Nxb Chính trị Quốc gia, 1997.
5. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (tập 1,2) Viện Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị Quốc gia,
2007.
6. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh/Bộ giáo dục và đào tạo. Chủ biên Mạch Quang
Thắng.
7. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2011.

21



22



×